Luận văn Khuyến mại theo luật thương mại Việt Nam hiện nay

pdf 85 trang vuhoa 24/08/2022 12260
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Khuyến mại theo luật thương mại Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_khuyen_mai_theo_luat_thuong_mai_viet_nam_hien_nay.pdf

Nội dung text: Luận văn Khuyến mại theo luật thương mại Việt Nam hiện nay

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI BÙI THỊ BÍCH HIỀN KHUYẾN MẠI THEO LUẬT THƯƠNG MẠI VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số: 06.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. LÊ THỊ THU THỦY HÀ NỘI, 2016
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. NGƯỜI CAM ĐOAN Bùi Thị Bích Hiền
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG KHUYẾN MẠI 8 1.1. Khái niệm, đặc điểm của hoạt động khuyến mại 8 1.2. Chức năng, vai trò của khuyến mại 10 1.3. Nguyên tắc thực hiện khuyến mại 11 1.4. Các hình thức khuyến mại 12 1.5. Kinh nghiệm một số nước trên thế giới quy định về hoạt động khuyến mại 16 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG KHUYẾN MẠI THEO LUẬT THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM 34 2.1. Các quy định của Luật Thương mại về hoạt động khuyến mại 34 2.2. Thực tiễn thực thi các quy định về khuyến mại của Luật Thương mại 44 2.3. Đánh giá thực tiễn thi hành các quy định về khuyến mại của Luật Thương mại 55 CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN LUẬT THƯƠNG MẠI VỀ KHUYẾN MẠI 67 3.1. Phương hướng hoàn thiện Luật Thương mại về khuyến mại 67 3.2. Giải pháp hoàn thiện các quy định về khuyến mại của Luật thương mại 68 KẾT LUẬN 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 81
  4. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Khuyến mại là một hoạt động quan trọng trong hoạt động xúc tiến thương mại quốc gia nhằm thúc đẩy, tìm kiếm cơ hội mua bán hàng hoá và cung ứng dịch vụ trong nước cũng như thị trường quốc tế. Theo đó, nhà nước đã quan tâm và thiết lập hệ thống chính sách và pháp luật về hoạt động xúc tiến thương mại nói chung cũng như pháp luật khuyến mại nói riêng. Đầu tiên phải kể đến Luật Thương mại năm 1997 đã dành 6 điều để điều chỉnh hoạt động khuyến mại. Luật Thương mại năm 1997 đánh dấu sự ra đời của pháp luật Việt Nam về hoạt động khuyến mại. Đây là đạo luật điều chỉnh hoạt động thương mại đầu tiên, là văn bản quan trọng trong giai đoạn phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Để từng bước đưa các quy định của Luật Thương mại vào cuộc sống, trong giai đoạn 1998-2002, Chính phủ đã ban hành 14 nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại, trong đó có Nghị định số 32/1999/NĐ-CP ngày 5 tháng 5 năm 1999 của Chính phủ về khuyến mại, quảng cáo thương mại và hội chợ, triển lãm thương mại. Nghị định này tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho các hình thức xúc tiến thương mại phát triển, góp phần thúc đẩy các hoạt động mua bán hàng hoá trong nước cũng như giao lưu thương mại quốc tế. Luật Thương mại 1997 cùng với các văn bản quy định chi tiết thi hành đã tạo ra một cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động thương mại trong nước, đồng thời góp phần xây dựng môi trường pháp lý ổn định, thông thoáng hơn, thúc đẩy hoạt động thương mại và giao lưu kinh tế trong nước và với nước ngoài. Luật Thương mại đã góp phần rất đáng kể đối với phát triển kinh tế đất nước và thúc đẩy quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt Nam với các nước trên thế giới. Trong đó, có sự đóng góp nhiều của hoạt động khuyến mại. 1
  5. Tuy nhiên , sau 7 năm thực thi Luật thương mại (1997-2005) đã bộc lộ những hạn chế nhất định, đòi hỏi phải được nghiên cứu sửa đổi cho phù hợp với thời kỳ mới. Theo đó, ngày 14/6/2005, Quốc hội đã thông qua Luật Thương mại năm 2005 (thay thế cho Luật Thương mại năm 1997). Luật Thương mại năm 2005 được ban hành nhằm khắc phục những bất cập của Luật Thương mại năm 1997, đáp ứng những yêu cầu của tình hình phát triển kinh tế – xã hội, cũng như của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta trong giai đoạn phát triển mới, đặc biệt trong giai đoạn nước rút gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Luật Thương mại năm 2005 gồm 9 Chương, 324 Điều, trong đó có 14 điều quy định về hoạt động khuyến mại, bổ sung thêm 6 điều so với Luật Thương mại năm 1997. Những thay đổi chủ yếu của quy định về khuyến mại trong Luật Thương mại năm 2005 so với Luật Thương mại 1997 gồm: Thứ nhất, bổ sung quy định cụ thể quyền thực hiện khuyến mại của thương nhân. Về cơ bản, mọi thương nhân đều có quyền thực hiện khuyến mại, trừ Văn phòng đại diện của thương nhân do hoạt động khuyến mại gắn liền với việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ nhưng Văn phòng đại diện lại không thể tiến hành hoạt động này vì không được kinh doanh sinh lời trực tiếp. Thứ hai, một số hình thức khuyến mại cũng đã được bổ sung theo hướng khái quát hoá những hình thức có đặc điểm chung (như các chương trình mang tính may rủi) và bổ sung một số hình thức khuyến mại mà các thương nhân đã tiến hành trên thực tế nhưng chưa có quy định của pháp luật điều chỉnh. Thứ ba, quy định cụ thể về hàng hóa, dịch vụ khuyến mại và hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại. Trong đó, Luật đã bổ sung quy định về việc không cho phép hàng hóa, dịch vụ hạn chế kinh doanh được khuyến mại hoặc được dùng để khuyến mại. Luật cũng có quy định hạn chế về mức giá trị tối 2
  6. đa của hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại và mức giảm giá tối đa đối với hàng hóa, dịch vụ khuyến mại nhằm chống việc lợi dụng khuyến mại để bán phá giá hàng hóa, dịch vụ, gây cạnh tranh không lành mạnh. Thứ tư, bổ sung thêm nghĩa vụ của thương nhân phải thông báo công khai các thông tin liên quan đến hoạt động khuyến mại mà mình thực hiện và cách thức thông báo cụ thể phù hợp với từng hình thức khuyến mại nhằm tăng cường trách nhiệm của thương nhân khi thực hiện khuyến mại, tạo sự minh bạch trong hoạt động khuyến mại, bảo vệ quyền và lợi ích của khách hàng. Để tiếp nối những thay đổi về khuyến mại trong Luật Thương mại năm 2005 và thực hiện nhiệm vụ được giao trong Luật, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 37/2006/NĐ-CP ngày 4 tháng 4 năm 2006 quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại, trong đó có hoạt động khuyến mại được quy định chi tiết tại Nghị định này. Tiếp theo đó, Bộ Công Thương và Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư liên tịch số 07/2007/TTLT-BTM-BTC ngày 6 tháng 7 năm 2007 hướng dẫn một số điều về khuyến mại và hội chợ, triển lãm thương mại quy định tại Nghị định số 37/2006/NĐ-CP ngày 04 tháng 4 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại. Như vậy, có thể thấy rằng hoạt động khuyến mại đã được điều chỉnh bởi hệ thống pháp luật tương đối rõ ràng và đầy đủ từ cấp Luật cho đến các văn bản quy định chi tiết thi hành (Nghị đinh, Thông tư). Hơn 10 năm thực thi Luật Thương mại nói chung, các quy định về khuyến mại nói riêng đã đem lại nhiều hiệu quả trong công tác quản lý nhà nước về khuyến mại cũng như đạt nhiều kết quả tích cực trong việc thúc đẩy hoạt động kinh doanh hàng hóa, dịch vụ của thương nhân như : số lượng thương nhân tham gia hoạt động khuyến mại ngày càng tăng; hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại ngày càng đa dạng và phong phú 3
  7. Tuy nhiên, trong quá trình thực thi, chính sách và pháp luật về khuyến mại, hiện nay đã bộc lộ những hạn chế mà cần phải có nghiên cứu và đề xuất các biện pháp khắc phục trong thời gian tới như về chủ thể thực hiện hoạt động khuyến mại, các hình thức khuyến mại, hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại, dùng để khuyến mại, hạn mức tối đa hàng hóa, dịch vụ khuyến mại, giới hạn thời gian thực hiện khuyến mại, bảo vệ người tiêu dùng trong khuyến mại Với những lý do trên, tôi đã chọn đề tài “Khuyến mại theo Luật thương mại Viêt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu luận văn Thạc sỹ . 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Đến nay, hoạt động khuyến mại nói riêng và xúc tiến thương mại nói chung đã được nhiều tác giả nghiên cứu ở các góc độ và khía cạnh khác nhau thông qua việc nghiên cứu làm tiểu luận, luận văn, đề tài nghiên cứu khoa học, sách, báo, tạp chí Có thể kể đến một số tài liệu sau: - TS. Luật học Lê Hoàng Oanh, Xúc tiến thương mại - Lý luận và thực tiễn, , Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, năm 2014; - Trần Dũng Hải, Mấy ý kiến về hoạt động khuyến mại và vai trò của pháp luật của Việt Nam hiện nay, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 6/2008; - Oanh Đa Ra, Pháp luật về khuyến mại lý luận và thực tiễn, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật, trường Đại học Cần Thơ ; - Nguyễn Thị Dung, Pháp luật về xúc tiến thương mại ở Việt Nam – Những vấn đề lí luận và thực tiễn, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, năm 2007; - Nhóm tác giả sinh viên trường Đại học Luật Hà Nội, Tìm hiểu các hình thức khuyến mại và thực tiễn áp dụng, Nghiên cứu bài tập học kỳ 2 môn Luật Thương mại, năm 2010; - Bùi Thanh Tú, Tìm hiểu về pháp luật về khuyến mại ở Viêt Nam, Khóa luận tốt nghiệp, năm 2009; 4
  8. - Trần Dũng Hải, Pháp luật thương mại về hoạt động quảng cáo và khuyến mại – Thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sỹ luật học, năm 2004; - Trường Đại học Luật Hà Nội, Các hình thức pháp lý về xúc tiến thương mại, năm 2008. Những công trình nghiên cứu nói trên chủ yếu nghiên cứu chung về hoạt động xúc tiến thương mại hoặc có nghiên cứu riêng về khuyến mại nhưng chỉ dưới góc độ lý luận là chủ yếu, có ít công trình nghiên cứu một cách chuyên sâu về hoạt động khuyến mại cũng như pháp luật về khuyến mại của Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, đây là những tài liệu có giá trị để tác giả nghiên cứu, kế thừa trong giải quyết các vấn đề nghiên cứu của đề tài. Trong phạm vi đề tài của mình tôi đi sâu, nghiên cứu, phân tích các quy định hiện hành về khuyến mại của Luật thương mại cũng như quá trình thực thi các quy định của Luật Thương mại trong thời gian qua, từ đó đưa ra phương hướng, giải pháp và đề xuất hoàn thiện quy định pháp luật về khuyến mại tại Luật Thương mại. Nghiên cứu này ngoài việc kế thừa các kết quả nghiên cứu của các công trình trước đây sẽ đề cập tốt vấn đề mới, không trùng lắp với các đề tài, công trình đã được nghiên cứu, nghiệm thu công bố trong những năm gần đây. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích và nhiệm vụ của Đề tài này là nghiên cứu, rà soát các quy định của pháp luật về khuyến mại theo quy định của Luật Thương mại năm 2005 và các văn bản quy định chi tiết nội dung khuyến mại của Luật này; đánh giá những thành tựu đã đạt được, những điểm còn tồn tại và đưa ra các giải pháp, khuyến nghị nhằm sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện pháp luật về khuyến mại để góp phần thúc đẩy hoạt động sản xuất, kinh doanh, bảo vệ lợi ích của các doanh nghiệp và người tiêu dùng, đồng thời giúp cho hoạt động khuyến mại diễn ra ổn định và trật tự hơn. 5
  9. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Các quy định của pháp luật về hoạt động khuyến mại. - Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định về khuyến mại của Luật Thương mại và các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật này về khuyến mại; thực tiễn thi hành các quy định pháp luật khuyến mại của Việt Nam. Bên cạnh đó, tác giả có nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế của một số nước quy định về hoạt động khuyến mại, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, chính sách của Đảng về chính sách khuyến mại. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như: phương pháp lịch sử; phương pháp so sánh, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê tình hình hoạt động khuyến mại các phương pháp nghiên cứu này được vận dụng một cách đan xen, linh hoạt. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Đề tài nghiên cứu, phân tích các quy định hiện hành của Luật thương mại về khuyến mại; - Đề tài đã chỉ rõ được những khó khăn, vướng mắc trong 10 năm thực thi các quy định hiện hành về khuyến mại; - Đề tài đã đề xuất được các giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về khuyến mại của Luật Thương mại và cá văn bản quy định chi tiết thi hành. - Kết quả nghiên cứu và những đề xuất của luận văn có ý nghĩa quan trọng trong việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về hoạt động khuyến mại; 6
  10. - Thông qua kết quả nghiên cứu và các đề xuất, tôi mong muốn hoàn thiện các quy định pháp luật về hoạt động khuyến mại tại Luật Thương mại năm 2005; - Luận văn có thể được sử dụng làm tư liệu tham khảo cho cán bộ làm công tác nghiên cứu, giảng dạy cũng như cán bộ làm công tác quản lý hoạt động khuyến mại cũng như các nhà hoạch định chính sách pháp luật tại các cơ quan quản lý nhà nước. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương: Chương 1. Một số vấn đề lý luận về hoạt động khuyến mại Chương 2. Thực trạng về hoạt động khuyến mại theo Luật thương mại Việt Nam Chương 3. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện Luật Thương mại về khuyến mại 7
  11. CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG KHUYẾN MẠI 1.1. Khái niệm, đặc điểm của hoạt động khuyến mại Theo quy định của Luật Thương mại năm 2005 [15]:“Khuyến mại là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân nhằm xúc tiến việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ bằng cách dành cho khách hàng những lợi ích nhất định”. Tuy nhiên, trên thế giới, mỗi quốc gia khác nhau lại đưa ra những khái niệm khác nhau về hoạt động khuyến mại, tương ứng với mục đích quản lý cũng như thể hiện quan điểm và mức độ điều chỉnh đối với hoạt động này. Cụ thể như sau: Theo Bộ Luật của Vương quốc Anh [2]: “Khuyến mại có thể cung cấp một sự khuyến khích cho người tiêu dùng để mua sản phẩm bằng cách dùng một số các lợi ích bổ sung trực tiếp hoặc gián tiếp, thường dựa trên chính sách tạm thời, để làm cho sản phẩm hấp dẫn hơn”. Theo quy định của Trung Quốc [12]: “Khuyến mại là các hoạt động tiếp thị do người bán lẻ thực hiện để thu hút người tiêu dùng và thúc đẩy bán hàng”. Theo Luật của Philippnes [11]: “Khuyến mại có nghĩa kỹ thuật là dự kiến cho sự tham gia rộng lớn của người tiêu dùng gồm những lời hứa lợi ích như các giải thưởng, bằng tiền mặt hoặc hiện vật, như là phần thưởng cho việc mua một sản phẩm, dịch vụ hoặc chiến thắng trong cuộc thi, trò chơi, giải đấu và các cuộc thi tương tự khác liên quan đến việc xác định người thắng cuộc và có sử dụng phương tiện truyền thông đại chúng hoặc phương tiện truyền thông phổ biến rộng rãi thông tin khác. Nó cũng có nghĩa kỹ thuật thuần túy nhằm tăng doanh số bán hàng, khuyến khích và hoặc tăng uy tín của sản phẩm”. Theo Thời báo Kinh tế của Ấn Độ:“Khuyến mại là tập hợp các hoạt động tiếp thị được thực hiện để thúc đẩy bán hàng của sản phẩm hoặc dịch vụ”. 8
  12. Theo Từ điển kinh doanh của Hoa Kỳ: “Khuyến mại bán hàng đạt được thông qua các cuộc thi, các cuộc biểu tình, giảm giá, triển lãm, giới thiệu, trò chơi, quà tặng, tích điểm, trưng bày và bán hàng, khuyến mại đặc biệt và các hoạt động tương tự”. Mặc dù vậy, điểm chung của các khái niệm nêu trên đều nhận định khuyến mại là hoạt động nhằm mục đích thu hút sự quan tâm của khách hàng đối với hàng hóa, dịch vụ thông qua cách tặng thêm cho khách hàng những lợi ích kèm theo, giúp thương nhân tiêu thụ được hàng hóa, dịch vụ của mình. Về bản chất, khuyến mại là hành vi của các tổ chức, cá nhân kinh doanh nhằm thúc đẩy việc tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ của mình trên thị trường bằng cách tặng thêm cho khách hàng ngoài các lợi ích mà bản thân hàng hóa, dịch vụ đem lại . Các lợi ích tăng thêm có thể là hàng hóa, dịch vụ được tặng cho khách hàng dùng thử, cũng có thể là hàng hóa, dịch vụ tặng kèm khi khách hàng mua hàng hóa hoặc sử dụng dịch vụ. Đặc trưng của hoạt động khuyến mại là thương nhân dành cho khách hàng những lợi ích nhất định để tác động đến thái độ và hành vi mua hàng của khách hàng để lôi kéo họ mua hàng của mình hoặc sử dụng dịch vụ của mình. Tóm lại, khuyến mại là hoạt động thương mại của thương nhân nhằm thúc đẩy việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ của mình thông qua việc dành cho khách hàng những lợi ích từ hàng hóa, dịch vụ đó. Theo quy định của Luật Thương mại, hoạt động khuyến mại có những đặc điểm cơ bản sau: - Chủ thể thực hiện hành vi khuyến mại là thương nhân. Để tăng cường cơ hội thương mại, thương nhân được phép tự mình tổ chức thực hiện việc khuyến mại, cũng có thể lựa chọn dịch vụ khuyến cho thương nhân khác để kinh doanh. Quan hệ dịch vụ này hình thành trên cơ sở hợp đồng dịch vụ khuyến mại giữa thương nhân có nhu cầu khuyến mại và thương nhân kinh doanh dịch vụ. 9
  13. - Cách thức xúc tiến thương mại: Là dành cho những khách hàng những lợi ích nhất định. Tùy thuộc vào mục tiêu của đợt khuyến mại, tùy thuộc vào trạng thái cạnh tranh, phản ứng của đối thủ cạnh tranh trên thương trường, tùy thuộc điều kiện kinh phí dành cho khuyến mại, lợi ích mà thương nhân dành cho khách hàng có thể là quà tặng, hàng mẫu để dùng thử, mua hàng giảm giá hoặc lợi ích phi vật chất khác. Khách hàng được khuyến mại có thể là người tiêu dùng hoặc các trung gian phân phối ví dụ như các đại lý - Mục đích của khuyến mại là xúc tiến việc mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ. Để thực hiện mục đích này, các đợt khuyến mại có thể hướng tới mục tiêu lôi kéo hành vi mua sắm, sử dụng dịch vụ của khách hàng, giới thiệu sản phẩm mới, kích thích trung gian phân phối chú ý hơn nữa đến hàng hóa của doanh nghiệp, tăng cường đặt mua hàng thông quan đó tăng thị phần của doanh nghiệp trên thị trường hàng hóa, dịch vụ. 1.2. Chức năng, vai trò của khuyến mại Khuyến mại là công cụ kinh doanh quan trọng nhằm đẩy mạnh việc tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ. Công cụ kinh doanh này có nhiều tác dụng và có thể áp dụng vào các công đoạn khác nhau trong quá trình sản xuất, kinh doanh của thương nhân như giới thiệu sản phẩm mới, đưa sản phẩm xâm nhập vào thị trường; khuyến khích lòng trung thành của khách hàng, thúc đẩy cạnh tranh mua, bán hàng hóa trong khoảng một thời gian ngắn. Khuyến mại luôn giữa vai trò và là một công cụ đắc lực và hiệu quả nhất để phát triển thương mại của thương nhân. Có thể tóm tắt các vai trò cơ bản của hoạt động khuyến mại như sau: - Giới thiệu sản phẩm, dịch vụ đến đông đảo khách hàng, tạo ra cơ hội bán sản phẩm, dịch vụ cho số đông; - Thúc đẩy việc mua, bán, trao đổi hàng hóa, dịch vụ để chiếm lĩnh thị trường; - Khuyến khích khách hàng trung thành với hàng hóa, dịch vụ của thương nhân. 10
  14. 1.3. Nguyên tắc thực hiện khuyến mại Đề nhằm bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng cũng như tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các thương nhân, pháp luật đã đưa ra các nguyên tắc hoạt động khuyến mại cụ thể như sau: Thứ nhất, chương trình khuyến mại phải được thực hiện hợp pháp, trung thực, công khai, minh bạch và không được xâm hại đến lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng, của các thương nhân, tổ chức hoặc cá nhân khác. Thứ hai, không được phân biệt đối xử giữa các khách hàng tham gia chương trình khuyến mại trong cùng một chương trình khuyến mại. Ví dụ người tham gia chương trình khuyến mại là người có quen biết trong việc tổ chức chương trình mà có sự ưu tiên hơn cho hàng hóa của người đó. Như vậy, việc ưu tiên này là không được phép mà tất cả những khách hàng tham gia chương trình khuyến mại đều như nhau, do đó không được phân biệt đối xử giữa các khách hàng. Thứ ba, thương nhân thực hiện chương trình khuyến mại phải bảo đảm những điều kiện thuận lợi cho khách hàng trúng thưởng nhận giải thưởng và có nghĩa vụ giải quyết rõ ràng, nhanh chóng các khiếu nại liên quan đến chương trình khuyến mại. Thứ tư, thương nhân thực hiện khuyến mại có trách nhiệm bảo đảm về chất lượng hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại và hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại. Thứ năm, không được lợi dụng lòng tin và sự thiếu hiểu biết, thiếu kinh nghiệm của khách hàng để thực hiện khuyến mại nhằm phục vụ cho mục đích riêng của bất kỳ thương nhân, tổ chức hoặc cá nhân nào. Thứ sáu, việc thực hiện khuyến mại không được tạo ra sự so sánh trực tiếp hàng hóa, dịch vụ của mình với hàng hóa, dịch vụ của thương nhân, tổ chức hoặc cá nhân khác nhằm mục đích cạnh tranh không lành mạnh. 11
  15. Thứ bảy, không được dùng thuốc chữa bệnh cho người kể cả các loại thuốc đã được phép lưu thông để khuyến mại, trừ trường hợp khuyến mại cho thương nhân kinh doanh thuốc. Như vậy, có thể thấy pháp luật quy định tám nguyên tắc cụ thể để thương nhân thực hiện khuyến mại phải tuân thủ, tuy nhiên trong các nguyên tắc này chỉ có một nguyên tắc để tránh sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp thực hiện khuyến mại với nhau,còn lại là các nguyên tắc thương nhân phải thực hiện để bảo vệ quyền lợi của khách hàng (người tiêu dùng) khi tham gia chương trình khuyến mại do các thương nhân tổ chức. 1.4. Các hình thức khuyến mại Luật Thương mại quy định 8 (tám) hình thức khuyến mại phổ biến nhất để thương nhân lựa chọn thực hiện hoạt động khuyến mại hàng hóa, dịch vụ. Ngoài các hình thức này, thương nhân có thể thực hiện các hình thức khuyến mại khác nếu được cơ quan quản lý nhà nước về thương mại chấp thuận. Chi tiết quy định các hình thức khuyến mại như sau: 1.4.1. Đưa hàng hóa mẫu, cung ứng dịch vụ mẫu để khách hàng dùng thử không phải trả tiền Theo quy định tại Nghị định số 37/2006/NĐ-CP[4], hàng mẫu, dịch vụ mẫu cung ứng cho khách hàng dùng thử phải là hàng hóa, dịch vụ được kinh doanh hợp pháp mà thương nhân đang hoặc sẽ bán, cung ứng trên thị trường; thương nhân thực hiện chương trình khuyến mại theo hình thích đưa hàng mẫu, cung ứng dịch vụ mẫu phải chịu trách nhiệm về chất lượng của hàng mẫu, dịch vụ mẫu và phải thông báo cho khách hàng đầy đủ thông tin liên quan đến việc sử dụng hàng mẫu, dịch vụ mẫu. 1.4.2. Tặng hàng hóa cho khách hàng, cung ứng dịch vụ không thu tiền; không kèm theo việc mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ Tương tự như hình thức khuyến mại đưa hàng mẫu, cung ứng dịch vụ mẫu để khách hàng dùng thử không phải trả tiền, thương nhân thực hiện 12
  16. chương trình khuyến mại bằng hình thức tặng hàng hóa cho khách hàng, cung ứng dịch vụ không thu tiền, không kèm theo việc mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ phải chịu trách nhiệm về chất lượng của hàng hóa được tặng cho khách hàng, chất lượng dịch vụ không thu tiền và phải thông báo cho khách hàng đầy đủ thông tin liên quan đến việc sử dụng hàng hóa, dịch vụ đó. 1.4.3. Bán hàng, cung ứng dịch vụ với giá thấp hơn giá bán hàng, giá cung ứng dịch vụ trước đó, được áp dụng trong thời gian khuyến mại đã đăng ký hoặc thông báo Để bảo đảm môi trường cạnh tranh lành mạnh trong nền kinh tế, bảo vệ lợi ích của thương nhân thực hiện xúc tiến thương mại, lợi ích của người tiêu dùng của các thương nhân khác, Nghị định số 37/2006/NĐ-CP đã quy định điều kiện của việc bán hàng, cung ứng dịch vụ với giá thấp hơn giá bán hàng, giá cung ứng dịch vụ trước đó như mức giảm giá tối đa đối với hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại trong thời gian khuyến mại tại bất kỳ thời điểm nào không được vượt quá 50% giá hàng hóa, dịch vụ đó ngay trước thời gian khuyến mại; không được giảm giá bán hàng hóa, giá cung ứng dịch vụ trong trường hợp giá bán hàng hóa, dịch vụ thuộc diện Nhà nước quy định giá cụ thể 1.4.4. Bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm theo phiếu mua hàng, phiếu sử dụng dịch vụ để khách hàng được hưởng một hay một số lợi ích nhất định Theo hình thức khuyến mại này, khách hàng có thể được hưởng lợi ích nhất định từ việc mua hàng, sử dụng dịch vụ kèm theo phiếu mua hàng, phiếu sử dụng dịch vụ. Phiếu mua hàng thường có ý nghĩa giảm giá hoặc có mệnh giá nhất định để thanh toán cho những lần mua sau trong hệ thống bán hàng của thương nhân. Phiếu sử dụng dịch vụ có thể cho phép sử dụng dịch vụ miễn phí theo điều kiện do nhà cung ứng dịch vụ đưa ra. 13
  17. 1.4.5. Bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm phiếu dự thi cho khách hàng để chọn người trao thưởng theo thể lệ và giải thưởng đã công bố Khác với hình thức khuyến mại bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm theo phiếu mua hàng, phiếu sử dụng dịch vụ, việc bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm phiếu dự thi cho khách hàng có thể mang lại giải thưởng hoặc không mang lại lợi ích cụ thể cho khách hàng, điều này phụ thuộc vào kết quả dự thi của họ. Khuyến mại thông qua hình thức bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm phiếu dự thi cho khách hàng để chọn người trao thưởng theo thể lệ và giải thưởng đã công bố cần đáp ứng các yêu cầu như về nội dng thông tin của phiếu, tổ chức thi và mở thưởng phải công khai, trao giải thưởng theo thể lệ đã công bố 1.4.6. Bán hàng, cung ứng dịch vụ kèm theo việc tham dự các chương trình mang tính may rủi Đây là hình thức khuyến mại mới được bổ sung tại Luật thương mại năm 2005 trên cơ sở luật hóa một hình thức khuyến mại đã xuất hiện khá phổ biến trong thực tiễn nhưng trước đây chưa có pháp luật điều chỉnh. Theo khoản 1, khoản 2 Điều 12 Nghị định số 37/2006/NĐ-CP quy định các yêu cầu cụ thể đối với hình thức khuyến mại này, theo đó, việc mở thưởng chương trình khuyến mại mang tính may rủi phải được tổ chức công khai, theo thể lệ đã công bố, có sự chứng kiến của khách hàng. Ngoài ra, Nghị định số 37/2006/NĐ-CP còn quy định riêng chương trình khuyến mại mang tính may rủi có phát hành vé số dự thưởng phải bảo đảm: vé số dự thưởng phải in đủ các nội dung về số lượng vé số phát hành, số lượng giải thưởng, giá trị từng loại giải thưởng, địa điểm phát thưởng, thời gian, địa điểm mở thưởng và các nội dung liên quan quy định tại Điều 97 Luật thương mại năm 2005; việc mở thưởng chỉ áp dụng cho các vé số đã được phát hành. Trong trường hợp không có người trúng thưởng trong thời 14
  18. hạn 30 ngày kể từ ngày hết thời hạn trao giải thưởng, thương nhân có nghĩa vụ trích nộp 50% giá trị giải thưởng, thương nhân có nghĩa vụ trích nộp 50% giá trị giải thưởng đã công bố vào ngân sách nhà nước. Quy định này nhằm tăng hiệu quả các chương trình khuyến mại và hạn chế các chương trình khuyến mại thiếu tính minh bạch. 1.4.7. Tổ chức chương trình khách hàng thường xuyên Tương tự như hình thức khuyến mại bán hàng, cung ứng dịch vụ kèm theo việc tham dự các chương trình mang tính may rủi, tổ chức chương trình khách hàng thường xuyên là hình thức khuyến mại được bổ sung vào Luật thương mại năm 2005, theo đó thương nhân thực hiện khuyến mại theo hình thức này phải tuân thủ quy định về thông báo các thông tin liên quan tại Điều 97 Luật thương mại năm 2005, có trách nhiệm xác nhận kịp thời, chính xác sự tham gia của khách hàng vào chương trình khách hàng thường xuyên thông qua thẻ khách hàng, phiếu ghi nhận việc mua hàng hóa, dịch vụ. 1.4.8.Tổ chức cho khách hàng tham gia các chương trình văn hóa, nghệ thuật, giải trí và các sự kiện khác vì mục đích khuyến mại Đây cũng là một hình thức khuyến mại được bổ sung vào Luật thương mại năm 2005 nhằm mục tiêu thu hút khách hàng, hướng tới khách hàng tiềm năng của thương nhân thông qua hình thức khuyến mại phí vật chất. 1.4.9. Các hình thức khuyến mại khác Luật thương mại năm 2005 đã đưa ra quy định “mở”, ngoài các hình thức khuyến mại nêu trên, thương nhân có thể tiến hành các hình thức khuyến mại khác nếu được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chấp thuận. Nghị định số 37/2006/NĐ-CP đã bổ sung thêm một hình thức khuyến mại ngoài các hình thức khuyến mại được quy định tại Luật thương mại năm 2005, đó là “khuyến mại hàng hóa, dịch vụ thông quan internet và các phương tiện điện tử khác”. 15
  19. Tóm lại với mục tiêu bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, đồng thời giúp cơ quan quản lý nhà nước có hiệu quả, khuyến khích các thương nhân tham gia hoạt động khuyến mại lành mạnh, hợp pháp và có hiệu quả. Việt Nam đã ban hành hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động khuyến mại, ngoài các quy định về nguyên tắc thực hiện khuyến mại và các hình thức khuyến mại nêu trên pháp luật còn điều về chủ thể thực hiện khuyến mại, hàng hóa thực hiện khuyến mại, các hành vi cấm trong hoạt động khuyến mại 1.5. Kinh nghiệm một số nước trên thế giới quy định về hoạt động khuyến mại 1.5.1. Nghiên cứu kinh nghiệm của Trung Quốc Quản lý hoạt động khuyến mại của Trung Quốc được quy định tại Nghị định số 18 quy định về các biện pháp quản lý các hành vi khuyến mại của các nhà bán lẻ, được ban hành và có hiệu lực từ ngày 15 tháng 10 năm 2006. 1.5.1.1. Các quy định chung Các biện pháp quản lý các hoạt động khuyến của các nhà bán lẻ nhằm điều chỉnh các hành vi xúc tiến bán hàng của các nhà bán lẻ, bảo đảm quyền và lợi ích của người tiêu dùng hợp pháp, duy trì trật tự của sự cạnh tranh công bằng và lợi ích của công chúng nói chung, và thúc đẩy những giá trị và phát triển có trật tự của các ngành công nghiệp bán lẻ, các biện pháp hiện nay được xây dựng theo các luật và quy định liên quan. Thuật ngữ "nhà bán lẻ" được đề cập trong Nghị định có nghĩa là các doanh nghiệp và các chi nhánh của doanh nghiệp cũng như các hộ kinh doanh cá thể đã đăng ký tại các cơ quan hành chính của ngành công nghiệp và thương mại và bán hàng cho người tiêu dùng. 1.5.1.2. Các quy định cụ thể a) Nguyên tắc hoạt động khuyến mại Nhà bán lẻ, khi thực hiện các hoạt động khuyến mại, phải theo các nguyên tắc: hợp pháp, công bằng, đức tin tốt và chuẩn mực đạo đức thương 16
  20. mại; đồng thời không thể thực hiện bất kỳ vi phạm đạo lý xã hội trong hoạt động xúc tiến bán hàng, làm ảnh hưởng đến trật tự cạnh tranh thị trường và trật tự xã hội công cộng hay ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng và các nhà kinh doanh khác. b) Quy định về an toàn và trật tự trong hoạt động khuyến mại Nhà bán lẻ, khi thực hiện các hoạt động khuyến mại, phải có thiết bị an toàn, các biện pháp quản lý tương ứng và đảm bảo sự thông suốt các phương án an toàn cho việc điều hành hiệu quả. Liên quan đến hoạt động khuyến mại bán hàng quy mô lớn như: bắt đầu kinh doanh, lễ kỷ niệm, lễ hội hay kỷ niệm kinh doanh, sẽ được đặt ra một chương trình cấp bách về an toàn để bảo đảm trật tự mua sắm và ngăn chặn các hoạt động khuyến mại gây ách tắc giao thông, mất trật tự, truyền nhiễm bệnh tật, gây thương tích hoặc thiệt hại tài sản. c) Quy định về bảo vệ quyền và lợi ích của người tiêu dùng Nội dung quảng cáo hoặc tuyên truyền nhằm khuyến mại của Nhà bán lẻ phải được xác thực, hợp pháp, rõ ràng và dễ hiểu, trong đó các nhà bán lẻ không được sử dụng ngôn ngữ, từ ngữ, hình ảnh mơ hồ hoặc gây hiểu nhầm. Các nhà bán lẻ không thể lấy cớ giữ lại lời giải thích cuối cùng làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng. d) Quy định về thực hiện hoạt động khuyến mại Nhà bán lẻ, khi thực hiện các hoạt động khuyến mại, phải niêm yết các nội dung khuyến mại tại một nơi bắt mắt ở địa điểm kinh doanh của mình, trong đó bao gồm: lý do, hình thức, quy tắc, thời hạn, phạm vi hàng hóa khuyến mại và các điều kiện hạn chế khác. Nhà bán lẻ phải thông báo rõ các quầy hoặc hàng hóa không thuộc các hoạt động khuyến mại và không thể khai báo chương trình khuyến mại toàn bộ cửa hàng. Khi đó nêu rõ các mặt hàng đặc biệt hoặc các quy định khuyến mại với điều kiện hạn chế hoặc điều kiện bổ sung, các tính chất tương đối hoặc hình ảnh được hiển nhiên và rõ ràng. 17