Luận văn Khó khăn tâm lý trong định hướng nghề nghiệp của học sinh trung học phổ thông
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Khó khăn tâm lý trong định hướng nghề nghiệp của học sinh trung học phổ thông", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_kho_khan_tam_ly_trong_dinh_huong_nghe_nghiep_cua_ho.pdf
Nội dung text: Luận văn Khó khăn tâm lý trong định hướng nghề nghiệp của học sinh trung học phổ thông
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN VIỆT DŨNG KHÓ KHĂN TÂM LÝ TRONG ĐỊNH HƢỚNG NGHỀ NGHIỆP CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Chuyên ngành : Tâm lý học Mã số : 60 31 04 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. ĐẶNG THỊ VÂN HÀ NỘI - 2016
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu và kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào. Tác giả luận văn Nguyễn Việt Dũng
- LỜI CẢM ƠN! Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các thầy cô giáo trong Khoa Tâm lý - Học viện Khoa Học Xã Hội, đã quan tâm giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến cô giáo, TS. Đặng Thị Vân người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Đồng thời tôi xin gửi lời cảm ơn đến Ban giám hiệu nhà trường, các thầy cô giáo, và các em học sinh của 2 ngôi trường: THPT Lê Quý Đôn, THPT Đoàn Kết đã cộng tác tận tình trong suốt thời gian tôi nghiên cứu và hoàn thành luận văn này. Do điều kiện thời gian và năng lực còn hạn chế, chắc chắn luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô và các bạn để luận văn hoàn thiện hơn. Hà Nội, tháng 7 năm 2016 Học viên Nguyễn Việt Dũng
- DANH MỤC VIẾT TẮT Viết đầy đủ Viết tắt Định hướng nghề nghiệp ĐHNN Học sinh HS Điểm trung bình ĐTB Độ lệch chuẩn ĐLC Trung học phổ thông THPT Khó khăn tâm lý KKTL Nhà xuất bản NXB
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHÓ KHĂN TÂM LÝ TRONG ĐỊNH HƢỚNG NGHỀ NGHIỆP CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 12 1.1. Một số khái niệm công cụ 12 1.2. Lý luận về định hướng nghề nghiệp và khó khăn tâm lý trong định hướng nghề nghiệp 17 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến khó khăn tâm lý trong định hướng nghề nghiệp của học sinh trung học phổ thông 27 Tiểu kết chƣơng 1 32 Chƣơng 2: TỔ CHỨC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 33 2.1. Nghiên cứu lý luận 33 2.2. Phương pháp nghiên cứu 33 Tiểu kết chƣơng 2 39 Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN KHÓ KHĂN TÂM LÝ TRONG ĐỊNH HƢỚNG NGHỀ NGHIỆP CỦA HỌC SINH TRUNG PHỔ THÔNG HUYỆN TRỰC NINH- TỈNH NAM ĐỊNH 40 3.1.Thực trạng khó khăn tâm lý trong định hướng nghề nghiệp của học sinh trung học phố thông huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định 40 3.2. Định hướng nghề nghiệp tương lai của học sinh trung học phổ thông 59 3.3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến khó khăn tâm lý trong định hướng nghề nghiệp của học sinh trung học phổ thông 64 Tiểu kết chƣơng 3 72 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 74 1. Kết luận 74 2. Kiến nghị 75 TÀI LIỆU THAM KHẢO 79
- DANH MỤC BẢNG Bảng 3.1: Sự khác biệt về KKTL trong định hướng nghề nghiệp của học sinh 41 Bảng 3.2: Thực trạng khó khăn trong định hướng nghề nghiệp của HS biểu hiện qua nhận thức 44 Bảng 3.3: Khó khăn tâm lý trong định hướng nghề nghiệp của HS biểu hiện qua thái độ 48 Bảng 3.4: Khó khăn tâm lý trong định hướng nghề nghiệp của học sinh THPT biểu hiện qua hành vi 53 Bảng 3.5: Dự định nghề nghiệp sau khi tốt nghiệp của học sinh THPT 59 Bảng 3.6: Hiểu biết của HS về thông tin các ngành nghề cơ bản 61 Bảng 3.7: Lý do chọn nghề nghiệp của học sinh THPT 63 Bảng 3.8: Ảnh hưởng của những yếu tố chủ quan 67 Bảng 3.9: Ảnh hưởng của những yếu tố khách quan 69 Bảng 3.10: Các yếu tố dự báo mức độ khó khăn tâm lý trong ĐHNN của HS 70
- DANH MỤC BIỂU ĐỒ Biểu đồ 3.1: Đánh giá chung khó khăn tâm lý của học sinh trong ĐHNN 41 Biểu đố 3.2: Nhận thức của học sinh về tầm quan trọng của ĐHNN 43 Biểu đồ 3.3: Thái độ của học sinh trong việc định hướng nghề nghiệp 47 Biểu đồ 3.4: Hành vi của học sinh trong định hướng nghề nghiệp 52 DANH MỤC SƠ ĐỒ Sơ đồ 1: Mối tương quan giữa các mặt biểu hiện khó khăn tâm lý trong định hướng nghề nghiệp 58
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nghề nghiệp chính là phương tiện để đảm bảo vật chất cũng như tinh thần của con người, mỗi cá nhân đều phải lựa chọn cho mình một nghề nhất định để tồn tại và phát triển. Đây không chỉ là phương thức sinh tồn mà còn là nơi mỗi người thực hiện mơ ước, lý tưởng của mình đồng thời góp phần vào sự phát triển của quê hương đất nước. Sự phát triển không ngừng của xã hội tạo ra sự phong phú về nghề nghiệp, tạo cho người lao động nói chung và học sinh Trung học phổ thông (THPT) nói riêng có nhiều cơ hội để tìm kiếm việc làm. Chính vì vậy, đối với người lao động hiện nay vấn đề không chỉ là có nghề, mà là tìm cho mình một nghề nghiệp phù hợp. Bản thân người lao động hay các bạn học sinh THPT không dễ dàng làm tốt công việc lựa chọn nghề này, họ luôn nảy sinh những khó khăn cần sự giúp đỡ định hướng trong công tác hướng nghiệp. Bước vào bậc THPT và đặc biệt là những năm cuối cấp, tuổi trẻ học đường luôn có những hoài bão gắn liền với cuộc sống và tương lai của họ. Trong suy nghĩ của học sinh (HS) luôn xuất hiện những câu hỏi như “ Mình sẽ làm gì ?”, “Mình nên chọn nghề gì ?”, “ Nghề nào sẽ phù hợp nhất với mình ?”, Đây là những trăn trở, những băn khoăn ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý của các em, buộc các em phải đắn đo suy nghĩ . Điều này cho thấy, các em rất cần có sự giúp đỡ, định hướng để có thể vượt qua rào cản tâm lý, có những kiến thức nhất định để lựa chọn cho mình nghề nghiệp phù hợp phát triển bản thân. Vì vậy, công tác ĐHNN cho học sinh nhất là học sinh THPT ngày càng được quan tâm, kể cả trong gia đình trong nhà trường và xã hội. Sự định hướng nghề nghiệp giúp cho các em có cơ sở để lựa chọn chính xác, có nhận thức đúng đắn đối với nghề nghiệp của mình. Tuy nhiên trên thực tế, công tác 1
- định hướng nghề nghiệp tuy đã được đầu tư nhưng tính hiệu quả chưa được cao, ít có sự tác động đến việc lựa chọn nghề nghiệp của học sinh bởi hầu hết các em mới được tiếp cận thông tin cơ bản về các khối thi, điểm thi. Điều đó mới chỉ mang tính chất tham khảo cung cấp thông tin mà không thể đáp ứng được chiều sâu của việc định hướng nghề nghiệp. Nhìn lại tổng quan quá trình phát triển của việc định hướng nghề nghiệp cho học sinh nhiều năm qua. Đã có rất nhiều những công trình nghiên cứu về vấn đề định hướng nghề nghiệp như “Nhu cầu tham vấn nghề nghiệp của học sinh THPT”; “Nghiên cứu nhận thức nghề và lựa chọn nghề của học sinh THPT”; Trong thực tế, nhiều em chưa nhận thức được đầy đủ hay còn gặp rất nhiều khó khăn tâm lý trong việc lựa chọn nghề nghiệp. Huyện Trực Ninh là một huyện nằm cách trung tâm thành phố Nam Định khoảng 20km về phía Nam.Vì vậy, điều kiện tiếp cận thông tin nghề nghiệp của học sinh còn tương đối khó khăn. Trong khi đó nhu cầu cần được định hướng nghề nghiệp của các em học sinh là rất cao. Mặc dù, các em có thể tìm đến các thầy cô giáo cũng như những người có kiến thức trong việc định hướng nghề nghiệp để tìm sự giúp đỡ, hỏi đáp, nhưng học sinh vẫn gặp không ít khó khăn trong việc định hướng nghề nghiệp của bản thân, các em do dự, băn khoăn, lo lắng rằng mình chọn ngành nào? trường nào? Nếu các em lựa chọn ngành nghề không phù hợp sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình tham gia đào tạo nghề nghiệp. Trên thực tế, tại các trường THPT trên địa bàn Huyện Trực Ninh cũng đã được đầu tư và rất chú trọng đến vấn đề định hướng nghề nghiệp cho học sinh. Tuy nhiên, hiệu quả của hoạt động này chưa được cao, các em chỉ được cung cấp thông tin tối thiểu về các ngành nghề tuyển sinh của các trường đại học và cao đẳng mà chưa thực sự quan tâm nhiều đến những yếu tố có liên quan khác. 2
- Vì vậy, các em gặp không ít khó khăn tâm lý khi lựa chọn nghề nghiệp, các em khó xác định được nghề nào, phù hợp với khả năng của bản thân. Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi xin lựa chọn đề tài: “Khó khăn tâm lý trong định hướng nghề nghiệp của học sinh trung học phổ thông” để tiến hành nghiên cứu. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài 2.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu khó khăn tâm lý ở nước ngoài Các nghiên cứu ở nước ngoài về khó khăn tâm lý chủ yếu được đề cập theo 2 hướng chính: Khó khăn tâm lý trong giao tiếp và khó khăn tâm lý trong học tập. Dưới đây chúng tôi sẽ dẫn cụ thể về các nghiên cứu này. - Khó khăn tâm lý trong giao tiếp: E.V.Sucanova (1987) đã đánh dấu cột mốc quan trọng trong vấn đề nghiên cứu khó khăn tâm lý trong giao tiếp bằng ra đời cuốn sách :“Những khó khăn của giao tiếp liên nhân cách”. Trong công trình nghiên cứu này tác giả đã đề cập đến những vấn đề sau: + Bản chất tâm lý của những khó khăn trong giao tiếp liên nhân cách + Vị trí của hiện tượng giao tiếp, khó khăn trong cấu trúc của vấn đề tâm lý xã hội; + Những đặc điểm của việc nhận thức các nguyên nhân gây ra những khó khăn trong công việc; + Nghiên cứu thực nghiệm về những ảnh hưởng của các yếu tố khó khăn đến quá trình giao tiếp công việc. Trong nghiên cứu này, tác giả đã phát hiện ra một số khó khăn tâm lý trong quá trình giao tiếp và nguyên nhân nảy sinh chúng, nêu được bản chất của khó khăn tâm lý. Tuy nhiên, cũng như các tác giả khác, ông vẫn chưa phân loại được KKTL một cách cụ thể [6]. 3
- Cùng năm 1987, trong công trình nghiên cứu về nhân cách sư phạm của giáo viên, V.A.Cancalic đã nêu ra một số khó khăn trong giao tiếp của sinh viên sư phạm như: + Không biết dàn xếp, tổ chức một cuộc tiếp xúc; + Không hiểu lập trường của đối tượng giao tiếp; + Có tâm trạng lo lắng sợ hãi; + Lúng túng khi điều khiển trạng thái tâm lý của bản thân trong giao tiếp; + Không biết cách xây dựng mối quan hệ qua lại và đổi mới mối quan hệ đó theo nghiệp vụ sư phạm; + Bắt chước máy móc ứng xử của các giáo viên khác [19]. Tuy tác giả này đã có công trong việc tìm ra các khó khăn tâm lý trong giao tiếp nhưng tác giả không đi vào nghiên cứu lý luận về vấn đề này. Tóm lại: Đã có nhiều tác giả bàn về vấn đề khó khăn tâm lý trong giao tiếp, các tác giả đã phát hiện và kể ra được một số khó khăn tâm lý, nguyên nhân làm nảy sinh những khó khăn tâm lý trong giao tiếp và có tác giả đã chỉ ra được bản chất của khó khăn tâm lý. Tuy nhiên, các tác giả vẫn chưa đưa ra được khái niệm cụ thể về khó khăn tâm lý. - Khó khăn tâm lý trong học tập: Bên cạnh những nghiên cứu về khó khăn tâm lý trong giao tiếp thì những nghiên cứu về khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập cũng được nhiều tác giả ở nước ngoài quan tâm nghiên cứu nhiều cụ thể như sau: Trước hết, phải đề cập đến nghiên cứu của tác giả Petrovxki A.V. Khi bàn về khó khăn tâm lý của trẻ đi học lớp 1, ông cho rằng có 3 loại khó khăn sau: Loại 1: Những khó khăn có liên quan đến đặc điểm của chế độ học tập; Loại 2: Khó khăn trong việc thiết lập quan hệ với thầy cô giáo và bạn bè; Loại 3: Khó khăn trong việc thích nghi với hoạt động mới, lúc đầu trẻ được chuẩn bị của gia đình, nhà trường và xã hội nên trẻ có tâm lý vui, thích, sẵn sàng đi học, về sau giảm dần khát vọng và chán học. 4
- Ngoài ra, tác giả cũng đề cập những nguyên nhân dẫn đến khó khăn và ảnh hưởng của chúng đến đời sống của trẻ đồng thời đề xuất biện pháp giải quyết khó khăn cho trẻ. Như vậy, tác giả đã đi sâu nghiên cứu khó khăn tâm lý với hoạt động học tập nhưng mới chỉ dừng lại ở nghiên cứu học sinh lớp 1[14]. Theo Binaka Zazzo (1990) cùng cộng sự của bà thuộc trung tâm nghiên cứu trẻ em của đại học Paris, 10 công trình nghiên cứu về bước chuyển từ mẫu giáo lên lớp 1 của trẻ em. Tác giả đã chỉ ra KKTL lớn nhất mà trẻ gặp phải làm cản trở sự thích ứng với hoạt động học tập của trẻ là:“Sự thay đổi môi trường hoạt động một cách triệt để, gọi là chuyển dạng hoạt động chủ đạo, vừa chơi trở thành hoạt động đa dạng, tính tùy tự do tùy hứng của cá nhân nặng hơn tính chỉ đạo của giáo viên. Bước sang lớp 1, học tập chủ đạo của học sinh phải nghiêm chỉnh theo sự chỉ đạo của giáo viên, theo nguyên tác lớp học” [1.tr15]. Như vậy, ở các công trình nghiên cứu này các tác giả đã phát hiện ra 1 số nguyên nhân làm nảy sinh các khó khăn tâm lý giao tiếp, nhưng để đưa ra khái niệm khó khăn tâm lý trong giao tiếp là gì thì tác tác giả chưa đề cập tới. Một số tác giả như: Maurice Debesse, Bianka Zazzo đã nghiên cứu về khó khăn tâm lý của trẻ khi đi học lớp 1. Các tác giả đã phát hiện được khó khăn tâm lý và xác định được một số nguyên nhân làm cản trở trẻ thích ứng với hoạt động mới, hoạt động học tập. Tóm lại, các tác giả nước ngoài khi nghiên cứu về khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập hay giao tiếp của học sinh ít nhiều chỉ ra vấn đề lí luận trong bản chất của khó khăn tâm lý, nguyên nhân dẫn đến khó khăn đó, đồng thời tác giả cũng chỉ ra được ảnh hưởng của nó tới hoạt động của học sinh, Tuy nhiên, so với lĩnh vực khác, vấn đề khó khăn tâm lý trong học tập hay giao tiếp còn được ít các nhà khoa học nước ngoài quan tâm nghiên cứu. Đặc biệt, nghiên cứu khó khăn tâm lý trong định hướng nghề nghiệp của học 5
- sinh THPT thì hầu như chưa được nghiên cứu nhiều. Vì vậy, nghiên cứu khó khăn tâm lý trong học tập của học sinh nói chung hay nghiên cứu khó khăn tâm lý trong định hướng nghề nghiệp của học sinh nói riêng cần được các nhà khoa học nghiên cứu toàn diện hơn nữa để tìm ra nguyên nhân dẫn tới thực trạng khó khăn tâm lý đó và đồng thời đưa ra những giải pháp nhằm khắc phục thực trạng này trong định hướng nghề nghiệp cho học sinh. 2.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu khó khăn tâm lý ở trong nước Ở Việt Nam, có khá nhiều công trình nghiên cứu về khó khăn tâm lý nhưng chủ yếu là những nghiên cứu về khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập và giao tiếp, dưới đây là một số nghiên cứu cụ thể: - Khó khăn tâm lý trong học tập: Trong tác phẩm “Nỗi khổ của con em chúng ta”, Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện đã nêu ra một loạt những khó khăn tâm lý mà trẻ em lớp 1 gặp phải đó là: trẻ phải giữ kỷ luật lớp học; trẻ phải học một chương trình nặng hơn so với tuổi mẫu giáo; trẻ ít được bố mẹ vỗ về âu yếm hơn trước và trẻ luôn chịu sự kiểm tra đánh giá của bố mẹ[17]. Năm 1992, trong tác phẩm“6 tuổi vào lớp 1” tác giả Nguyễn Thị Nhất đã nêu lên một số khó khăn tâm lý của trẻ lớp 1 phải vượt qua. Tác giả cho rằng: “Trong quá trình lớn lên của trẻ em có những bước ngoặt chuyển từ giai đoạn này sang giai đoạn khác đòi hỏi trẻ em phải thay đổi phương thức sinh hoạt một cách triệt để ”. Đồng thời, tác giả cũng nêu ra một số khó khăn tâm lý cụ thể mà trẻ phải vượt qua: trẻ gặp khó khăn trong quan hệ với giáo viên, trẻ bị “vỡ mộng” khi vào lớp một vì sự hân hoan hân hoan hồi hộp chờ đón những điều hấp dẫn được thay bằng những điều khác xa với tưởng tượng của trẻ [13]. Năm 1995, Tác giả Nguyễn Minh Hải trong bài “Những khó khăn tâm lý trong quá trình giải toán của học sinh tiểu học” đã đề cập đến các nguyên nhân khác nhau hạn chế năng lực giải toán của học sinh tiểu học [8, tr25]. 6
- Tác giả Nguyễn Xuân Thức (2006) ngoài việc quan tâm đến những KKTL của học sinh mà còn chỉ ra nguyên nhân cơ bản. Trong bài viết “Các nguyên nhân dẫn đến khó khăn tâm lý của học sinh đi học lớp một” đã nêu ra các nguyên nhân cụ thể sau: Các nguyên nhân chủ quan: Trẻ chưa hiểu rõ nội quy; trẻ chưa được chuẩn bị tâm thế trước khi tới trường. Nhóm nguyên nhân thuộc về gia đình; nhóm nguyên nhân thuộc về nhà trường; nhóm nguyên nhân thuộc về xã hội. Tác giả cho rằng, các nguyên nhân chủ quan là những nguyên nhân gây ra khó khăn tâm lý nhiều hơn cho học sinh lớp một. Ngoài ra tác giả cũng đưa ra một số giải pháp sư phạm để tháo gỡ những khó khăn tâm lý cho trẻ [16, tr.12-15]. - Khó khăn tâm lý trong giao tiếp: Tác giả Nguyễn Thanh Sơn (1998) trong bài viết “Những khó khăn của học sinh miền núi khi học tác phẩm văn học cổ điển Việt Nam’’ đã phân tích những khó khăn của học sinh miền núi khi học tác phẩm văn học cổ điển Việt Nam và chỉ ra những khó khăn mà học sinh gặp phải là: + Hoàn cảnh giao tiếp thông tin của học sinh miền núi bị hạn chế; + Vốn từ năng lực của học sinh miền núi còn yếu; + Năng lực cảm thụ một câu thơ, đoạn văn còn yếu, Theo tác giả, nguyên nhân dẫn đến khó khăn của học sinh miền núi khi học tác phẩm văn học cổ điển Việt Nam là do tầm văn hóa, vốn sống, vốn hiểu biết của các em còn hạn chế. Vì vậy, muốn nâng cao năng lực cảm thụ văn học của các em phải mở rộng tầm hiểu biết cuộc sống, xã hội cho các em. Những hoạt động ngoại khóa, du lịch, câu lạc bộ văn hóa, là những hoạt động có tác dụng tốt đối với học sinh [15]. Ngoài ra, còn có rất nhiều những công trình nghiên cứu về khó khăn tâm lý chẳng hạn như: Tác giả Cao Xuân Liễu (2006) với đề tài “Một số khó khăn tâm lý trong học tập của học sinh lớp 1 người dân tộc K’ho ở Lâm Đồng”. Tác giả đã chỉ 7
- ra những khó khăn tâm lý của học sinh dân tộc K’ho là: Khó khăn tinh thần chi phối việc tiếp thu kiến thức, khó khăn ngôn ngữ, khó khăn trong giao tiếp, [12]. Đề tài “Khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên năm nhất đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Nguyễn Thị Thiên Kim (2007) đã chỉ ra một số khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Tác giả đã đề xuất một số biện pháp nhằm giảm bớt những khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên[11]. Tác giả Trương Thanh Chí (2011) với đề tài: “Khó khăn tâm lý trong công tác tham vấn học đường tại Thành Phố Hồ Hồ Chí Minh” đã đề cập đến những khó khăn tâm lý mà học sinh mắc phải khi thực hiện công tác tham vấn học đường [2]. Nghiên cứu “Khó khăn tâm lý và nhu cầu tham vấn của học sinh trung học phổ thông” của tác giả Dương Thị Diệu Hoa (2008) đưa ra kết quả nghiên cứu rằng hầu hết học sinh được khảo sát đều có trạng thái tâm lý lo lắng với các mức độ khác nhau về các lĩnh vực có liên quan tới học tập, quan hệ và sự phát triển của bản thân; nhận thức của học sinh phổ thông cho rằng hoạt động tham vấn với các em là cần thiết [10, tr36-42]. Tóm lại, nghiên cứu khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập là một vấn đề phức tạp, vấn đề này cũng được nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu kể trên đã ít nhiều xây dựng được hệ thống lí luận và thực tiễn về khó khăn tâm lý nói chung. Tuy nhiên, hầu hết các tác giả đã và đang quan tâm nhiều đến khó khăn tâm lý trong học tập mà chưa chú trọng nghiên cứu về khó khăn tâm lý trong định hướng nghề nghiệp của học sinh. Chính vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu vấn đề này từ phương diện tâm lý học là thực sự cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. 8
- 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Làm rõ những biểu hiện, mức độ khó khăn tâm lý (KKTL) của học sinh THPT trong ĐHNN. Trên cơ sở đó, nêu lên được bức tranh về thực trạng khó khăn tâm lý của học sinh THPT trong ĐHNN, những nguyên nhân căn bản và đề xuất những kiến nghị nhằm giúp học sinh THPT giảm bớt khó khăn tâm lý trong ĐHNN. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu cơ sở lí luận về khó khăn tâm lý của học sinh THPT trong ĐHNN; - Đánh giá thực trạng khó khăn tâm lý của học sinh THPT trong ĐHNN tại huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định; - Đề xuất một số kiến nghị nhằm giảm bớt khó khăn tâm lý cho học sinh THPT trong ĐHNN. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Biểu hiện và mức độ khó khăn tâm lý của học sinh THPT trong định hướng nghề nghiệp. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn khảo sát: 300 học sinh của hai trường THPT Lê Quý Đôn và THPT Đoàn Kết huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định. Cụ thể nghiên cứu được tiến hành trên 3 khối lớp: khối lớp 10, khối lớp 11, khối lớp 12. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Để giải quyết nhiệm vụ nghiên cứu đã nêu ở đề tài, chúng tôi kết hợp sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau: 5.1. Phương pháp luận 9
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của Tâm lý học. Nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở một số nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của tâm lý học sau đây: - Nguyên tắc hoạt động thực tiễn: Để xác định những khó khăn tâm lý của học sinh trường THPT huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định trong ĐHNN cần tìm hiểu thông qua việc chọn trường, chọn ngành học hay chọn những ngành nghề của học sinh. Qua đó, xác định được những khó khăn tâm lý các em phải đối mặt. - Nguyên tắc tiếp cận hệ thống: Cấu trúc tâm lý của con người rất đa dạng và phức tạp, vì vậy khi nảy sinh khó khăn tâm lý này có thể kéo theo khó khăn tâm lý khác. Có nhiều yếu tố chi phối đến tâm lý của học sinh trong định hướng nghề nghiệp như: gia đình, bạn bè, nhà trường, xã hội hay bản thân học sinh. Vì vậy, nguyên tắc hệ thống – cấu trúc sẽ là cơ sở xác định thực trạng các khó khăn tâm lý căn bản và nguyên nhân của thực trạng đó. 5.2. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu văn bản, tài liệu - Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn: + Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi + Phương pháp phỏng vấn sâu + Phương pháp chuyên gia - Phương pháp xử lý số liệu Đề tài sử dụng phương pháp thống kê toán học qua sự hỗ trợ của phần mềm SPSS (phiên bản 20.0) để phân tích dữ liệu thu được từ phiếu điều tra. 6. Ý nghĩa luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa luận + Hệ thống hóa về khó khăn tâm lý của học sinh trong công tác định hướng nghề nghiệp 10
- + Xác định một số khó khăn tâm lý cơ bản. Nhận thức, thái độ, hành vi của học sinh khi tham gia hoạt động định hướng nghề nghiệp và chỉ ra một số nguyên nhân dẫn đến những khó khăn đó. + Các yếu tố chi phối hoạt động định hướng nghề nghiệp của học sinh THPT 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Đa số học sinh hai trường THPT Lê Quý Đôn và THPT Đoàn Kết huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định đều có khó khăn tâm lý trong định hướng nghề nghiệp thể hiện ở cả 3 mặt: Nhận thức, thái độ, hành vi với các mức độ khác nhau. Tuy nhiên, mức độ khó khăn chi phối toàn bộ cả ba mặt đó và dễ nhận thấy nhất chính là mặt hành vi của học sinh. Có nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan dẫn đến khó khăn tâm lý của học sinh trường THPT huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định trong ĐHNN, nhưng nguyên nhân chủ quan là nguyên nhân chủ đạo dẫn đến khó khăn tâm lý của học sinh trong ĐHNN. 7. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm 3 chương. Chương 1: Cơ sở lý luận về khó khăn tâm lý trong định hướng nghề nghiệp của học sinh THPT. Chương 2: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu. Chương 3: Kết quả nghiên cứu thực tiễn khó khăn tâm lý trong định hướng nghề nghiệp của học sinh THPT, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định 11
- Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHÓ KHĂN TÂM LÝ TRONG ĐỊNH HƢỚNG NGHỀ NGHIỆP CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 1.1. Một số khái niệm công cụ 1.1.1. Khó khăn tâm lý 1.1.1.1. Khái niệm khó khăn tâm lý Khái niệm “khó khăn tâm lý” vẫn chưa được hiểu thống nhất, vì vậy khi nghiên cứu đề tài này chúng tôi xây dựng khái niệm “khó khăn tâm lý ”dựa trên cơ sở khái niệm trong từ điển vận dụng vào lĩnh vực tâm lý và tham khảo một số khái niệm mà các tác giả trước đã bàn đến. Khái niệm khó khăn Theo từ điển Tiếng Việt thì “ khó khăn” có nghĩa là sự trở ngại làm mất nhiều công sức thiếu thốn[20, tr.357]. Theo từ điển láy Việt thì “khó khăn” có nghĩa là nhiều trở ngại. Từ điển Anh - Việt thì “difficulty” hoặc “hardship” đều dùng để chỉ sự khó khăn, gay go, khắc nghiệt đòi hỏi nhiều nỗ lực để khắc phục[21,tr.335]. Khái niệm khó khăn tâm lý Căn cứ vào mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu, có nhiều cách lí giải khác nhau cơ bản trong việc giải thích khái niệm khó khăn tâm lý, dưới đây là một vài khái niệm khó khăn tâm lý. Trong từ điển Tâm lý học, tác giả Vũ Dũng cho rằng: “Hàng rào tâm lý là trạng thái tâm lý thể hiện ở tính thụ động quá mức của chủ thể, gây cản trở trong việc thực hiện hành động”[5, tr.89] Theo tác giả Cao Xuân Liễu năm (2006): “Khó khăn tâm lý là tổ hợp các thuộc tính, các trạng thái, các đặc điểm nhân cách không phù hợp với đối tượng hoạt động làm cho quá trình hoạt động gặp khó khăn, làm cho chủ thể không phát huy được khả năng của mình, dẫn đến kết quả hoạt động bị hạn chế”[12, tr.12]. 12
- Tác giả Vũ Ngọc Hà năm (2010): “Khó khăn tâm lý cuả học sinh đầu lớp 1”, dựa trên tổng hợp ý kiến khác nhau của nhiều tác giả về khó khăn tâm lý, tác giả cho rằng: “Khó khăn tâm lý là sự thiếu hụt phẩm chất tâm lý của cá nhân thể hiện ở chỗ cá nhân có những phẩm chất tâm lý cần thiết cho hoạt động nhưng những phẩm chất tâm lý này chưa phù hợp với mức độ của các phẩm chất tâm lý, chưa đáp ứng được yêu cầu của hoạt động”[7, tr16]. Xuất phát từ quan điểm trên, bên cạnh tham khảo các quan điểm đi trước khó khăn tâm lý trong đề tài này được hiểu như sau: “Khó khăn tâm lý là những biểu hiện tâm lý của chủ thể, nảy sinh trong quá trình hoạt động gây cản trở, ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình và hiệu quả hoạt động của chủ thể”. 1.1.1.2. Những biểu hiện cơ bản của khó khăn tâm lý Khó khăn tâm lý là những nét tâm lý cá nhân mang tính tiêu cực nảy sinh, tồn tại trong quá trình hoạt động của chủ thể, làm cho quá trình hoạt động của chủ thể bị chểnh mảng, bị cản trở, dẫn tới hiệu quả không cao. Những khó khăn tâm lý này có thể được biểu hiện ở khía cạnh sau: Về nhận thức Nhận thức là một trong những thành tố quan trọng của đời sống tâm lý con người. Nhận thức giúp con người hiểu biết về sự vật, sự việc hiện tượng, từ đó bày tỏ thái độ tình cảm và có hành vi tương ứng. Trong thực tế, con người không phải bao giờ cũng có nhận thức đúng đắn trước các vấn đề của cuộc sống. Chính vì vậy, khó khăn tâm lý trong nhận thức là sự hiểu biết không đầy đủ về nội dung, đối tượng, hoàn cảnh và mục đích của vấn đề mà con người đang quan tâm. Có thể lấy ví dụ về khó khăn tâm lý trong giao tiếp của con người: Khó khăn tâm lý trong giao tiếp là sự hiểu biết chưa đầy đủ về nội dung, đối tượng của cuộc giao tiếp do chưa được rèn luyện kỹ năng giao tiếp; chưa nhận thức đúng về bản thân thường đánh giá mình quá cao dẫn đến tự tin thái quá; hoặc đánh giá mình quá thấp dẫn đến thiếu tự tin, tự ti, mặc cảm với chính khả 13
- năng của bản thân. Hay cá nhân chưa nhận thức đúng đắn về vai trò, tác dụng của giao tiếp, dẫn đến tình trạng căng thẳng, sợ mắc phải những sai lầm hoặc thờ ơ, vô cảm, chủ quan, thiếu tích cực trong quá trình giao tiếp, Căn cứ vào quan niệm của các tác giả về bản chất của khó khăn tâm lý trong giao tiếp, chúng tôi mạnh dạn đưa ra quan niệm về KKTL trong định hướng nghề nghiệp của học sinh ở khía cạnh nhận thức là sự hiểu biết không đầy đủ về định hướng nghề nghiệp, có những nhận thức không đúng về nghề nghiệp. Ngoài ra, còn là sự thiếu hiểu biết về thông tin nghề nghiệp, yêu cầu của nghề, lĩnh vực việc làm của nghề, xu thế phát triển của của nghề năng lực sở thích của cá nhân liên quan đến nghề nghiệp, dẫn đến hoang mang, mất phương hướng ảnh hưởng đến tâm lý. Về thái độ Thái độ chính là mặt xúc cảm, tình cảm của con người được thể hiện qua quá trình hoạt động của chủ thể. Thông thường những người ít gặp phải khó khăn tâm lý là những người biết làm chủ trạng thái cảm xúc bản thân, biểu hiện ở việc biết kiểm soát cảm xúc, biết tạo ra cảm hứng thì xúc cảm tích cực, biết điều chỉnh, điều khiển các diễn biến tâm lý của mình. Lấy ví dụ ở người có khó khăn tâm lý trong giao tiếp liên quan đến thái độ được biểu hiện như sau: Không chú ý, quan tâm, say mê trong giao tiếp, tỏ thái độ thờ ơ, không tích cực trong giao tiếp hay không thể hiện những thái độ tình cảm thân thiện, thiện chí khi giao tiếp, không làm chủ được trạng thái cảm xúc của mình luôn tỏ ra e ngại, rụt rè, thậm chí là sợ hãi, chân tay run rẩy khi tham gia giao tiếp chỗ đông người. Tương tự như trong giao tiếp thì khó khăn tâm lý trong ĐHNN của học sinh được biểu hiện qua thái độ như sau: Sự thiếu quan tâm, thờ ơ với vấn đề định hướng nghề nghiệp ngoài ra là những cảm xúc lo lắng, bất an hoang 14
- mang không biết chọn ngành nghề nào cho bản thân, Chính những yếu tố này sẽ tạo ra rất nhiều những khó khăn ảnh hưởng đến tâm lý của bản thân mỗi học sinh. Về hành vi Hành vi chính là “bộ mặt” của con người, thông qua hành vi mà con người thể hiện đời sống tâm lý của họ. Cá nhân gặp phải khó khăn tâm lý trong hành vi thường có những biểu hiện: lúng túng; thiếu tự tin, diễn đạt nội dung thiếu chính xác, chưa có khả năng xây dựng kế hoạch hay cho một hoạt động cụ thể nào đó, chưa có phương pháp phù hợp, Chẳng hạn như trong hoạt động giao tiếp khó khăn tâm lý được biểu hiện như sau: Sự lúng túng, hấp tấp, vội vàng khi nói, biểu lộ cử chỉ và điệu bộ tư thế không tự nhiên thoải mái, mắt không dám nhìn trực tiếp vào người đối diện mà nhìn lên trần nhà, nhìn xuống đất nhìn vu vơ. Ngoài ra, còn là sự hạn chế trong vốn từ khả năng giao tiếp, Dựa vào quan niệm của các tác giả nghiên cứu về khó khăn tâm lý biểu hiện qua hành vi, chúng tôi cho rằng khó khăn tâm lý trong định hướng nghề nghiệp của học sinh thể hiện qua mặt hành vi đó là sự lúng túng, thiếu tự tin trong việc lựa chọn ngành nghề, khối thi trường thi. Ngoài ra, các em lựa chọn nghề nghiệp phụ thuộc vào gia đình, bạn bè, cũng là biểu hiện của khó khăn về mặt hành vi. Tóm lại, khó khăn tâm lý được biểu hiện thông qua ba mặt cơ bản trên. Chúng có mối quan hệ, tác động qua lại lẫn nhau là một chỉnh thể thống nhất tạo ra cấu trúc tâm lý của con người. Thông thường, nhận thức đúng dẫn đến thái độ đúng và sau cùng là hành vi đúng. Do vậy, trong hoạt động ĐHNN cho học sinh THPT muốn tháo gỡ khó khăn tâm lý cho học sinh cần chú ý quan tâm đến ba mặt trên. 1.1.1.3. Yếu tố ảnh hưởng đến khó khăn tâm lý Khó khăn tâm lý của con người là một vấn đề phức tạp, do vậy việc tìm hiểu nguyên nhân của nó cũng là một vấn đề không hề đơn giản. Cho đến nay 15
- trên thế giới cũng như Việt Nam chưa có một công trình nghiên cứu nào nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống toàn diện về lý luận cho vấn đề này. Vì vậy, có thể khái quát yếu tố gây ra khó khăn tâm lý là do sự thiếu hiểu biết về đối tượng, nội dung của chủ thể với một hoạt động cụ thể nào đó gây ra những khó khăn tâm lý, có thể lấy ví dụ như trong hoạt động học tập, hoạt động giao tiếp hay trong chính hoạt động định hướng nghề nghiệp. Về nguyên nhân dẫn đến khó khăn tâm lý trong định hướng nghề nghiệp thì có hai nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan: Yếu tố khách quan Về yếu tố khách quan xuất phát từ nhiều yếu tố, có thể kể tới do nội dung công tác hướng nghiệp ở trường THPT còn nặng về lí thuyết mà yếu về thực hành kỹ năng, do giáo viên chưa quan tâm, chú trọng tạo điều kiện mở ra nhiều những gợi ý định hướng trong nghề nghiệp cho học sinh. Ngoài ra, còn là do ảnh hưởng mạnh của các phương tiện thông tin đại chúng với rất nhiều ngành nghề khiến cho học sinh hoang mang và khó có thể lựa chọn một ngành nghề phù hợp với bản thân. Một số yếu tố cũng ảnh hưởng không nhỏ đến ĐHNN của học sinh như gia đình. Trong gia đình có thể là sự ủng hộ, cũng có thể là sự ép buộc con cái phải lựa chọn một ngành nghề nhất định mà không cho con cái quyền tự quyết tương lai của mình. Yếu tố chủ quan Ngoài các yếu tố khách quan dẫn tới những khó khăn tâm lý trong ĐHNN của học sinh thì yếu tố chủ quan có thể nói cũng là yếu tố chiếm ưu thế. Cụ thể: Học sinh chưa xác định được rõ sự cần thiết của công tác định hướng nghề nghiệp đối với việc lựa chọn ngành nghề trong tương lai hay do bản thân chưa có nhiều những kiến thức kinh nghiệm liên quan đến các ngành nghề xã hội. Ngoài ra, các em chưa có sự quan tâm đúng mức đến việc định hướng nghề nghiệp của cá nhân, chưa chủ động tìm hiểu về thông tin, yêu cầu của nghề nghiệp, 16