Luận văn Khía cạnh pháp lý của hoạt động M&A các tổ chức tài chính ở Việt Nam

pdf 127 trang vuhoa 25/08/2022 6940
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Khía cạnh pháp lý của hoạt động M&A các tổ chức tài chính ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_khia_canh_phap_ly_cua_hoat_dong_ma_cac_to_chuc_tai.pdf

Nội dung text: Luận văn Khía cạnh pháp lý của hoạt động M&A các tổ chức tài chính ở Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT  NGUYỄN THỊ MAI HƯƠNG KHÍA CẠNH PHÁP LÝ CỦA HOẠT ĐỘNG M&A CÁC TỔ CHỨC TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số : 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Phạm Duy Nghĩa HÀ NỘI - 2009
  2. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT HĐQT : Hội đồng quản trị M&A : Sáp nhập và mua lại (Merges & Acquisitions) NH : Ngân hàng NHNN : Ngân hàng nhà nước NHTM : Ngân hàng thương mại NHTMCP : Ngân hàng thương mại cổ phần PwC : Công ty kiểm toán PricewaterhouseCoopers TMCP : Thương mại cổ phần WTO : Tổ chức thương mại thế giới (World Trade Organization)
  3. DANH MỤC BẢNG, BIỂU Trang Bảng 1.1: Các hợp đồng M&A lớn trong lĩnh vực ngân hàng ở 26 MỸ Hình 1.1: Giá trị giao dịch M&A trên toàn cầu (2005-quí I năm 2008 26 Bảng 1.2: Các hợp đồng M&A lớn trong năm 2007 29 Bảng 1.3: Các hợp đồng M&A lớn trong những tháng cuối năm 30 2008 (tính đến thời điểm tháng 9) Bảng 1.4: Diễn biến tình hình hoạt động mua lại, sáp nhập doanh 33 nghiệp ở Việt Nam Bảng 1.5: Một số thương vụ M&A giữa ngân hàng nông thôn và ngân hàng lớn ở đô thị tại Việt Nam giai đoạn 1999 – 2004 80 Bảng 1.6: Các thương vụ M&A giữa ngân hàng nội và NDT nước ngoài: 81 Bảng 1.7: Một số thương vụ mua bán giữa các ngân hàng trong nước từ năm 2005 đến 2008. 88 Bảng 3.1: Số lượng NHTM tại Việt Nam (tính đến 06/2009) 140
  4. MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Danh mục viết tắt Mục lục Danh mục bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG “MUA LẠI, SÁP NHẬP DOANH NGHIỆP” (MERGERS AND ACQUISITIONS – M&A) 5 1.1. Tổng quan về hoạt động M&A 5 1.2. Thực trạng của hoạt đông M&A 23 1.2.1 Diễn biến hoạt động M&A trên thế giới 23 1.2.2. Diễn biến của thị trường M&A ở Việt Nam 31 1.2.3. Những đặc điểm chính của thị trường mua lại, sáp nhập doanh 39 nghiệp Việt N 1.2.4. Những tác động tiêu cực tiềm ẩn trong hoạt động mua lại, sáp 52 nhập doanh nghiệp ở Việt Nam 1.2.5. Tác động của hoạt động M&A đối với hệ thống các tổ chức tài 58 chính và nền kinh tế Việt Nam 1.2.6. Điều kiện để hình thành và phát triển thị trường mua bán và sáp 61 nhập doanh nghiệp ở Việt Nam 1.2.7. Một số vấn đề đặt ra khi tiến hành hoạt động M&A ở Việt Nam 65 1.3. Xu hướng sáp nhập, mua lại các tổ chức tài chính 71
  5. Chương 2: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA ĐIỂN HÌNH VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG M&A TỔ CHỨC TÀI 92 CHÍNH 2.1. Các quy định của pháp luật một số quốc gia về hoạt động M&A các tổ chức tài chính 92 2.2. Các quy định của pháp luật Việt Nam điều chỉnh hoạt động sáp 112 nhập, mua lại 2.3. Khuôn khổ pháp lý cho M&A trong lĩnh vực tài chính ngân hàng 128 tạinViệt Nam Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG SÁP NHẬP, MUA LẠI CÁC TỔ CHỨC TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM 133 3.1. Sự cần thiết phải xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ điều chỉnh hoạt động sáp nhập, mua lại doanh nghiệp ở Việt Nam 133 3.2. Sự cần thiết phải xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ điều chỉnh hoạt động sáp nhập, mua lại các tổ chức trong ngành tài chính ở việt Nam 137 3.3 Cơ sở lý luận của việc hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh hoật động M&A các tổ chức tài chính ở Việt Nam 154 3.4. Xây dựng khung pháp lý điều tiết hoạt động M&A 159 3.5 Các nội dung chính sách trong việc xây dựng 166 KẾT LUẬN 174 TÀI LIỆU THAM KHẢO 175 PHỤ LỤC Trang
  6. MỞ ĐẦU Tính cấp thiết của đề tài: Mua lại và sáp nhập (M&A) là những hoạt động kinh doanh và quản trị không xa lạ ở các nền kinh tế phát triển trên thế giới. Bước vào thế kỷ XXI, nền kinh tế thế giới tiếp tục chứng kiến một làn sóng M&A mới, dưới những hình thức đa dạng và quy mô lớn chưa từng có. Đợt sóng này không chỉ bó hẹp trong phạm vi các nền kinh tế phát triển mà còn lan tỏa sáng các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển như Hàn Quốc, Singapore, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc, Trung Đông Mục tiêu các hoạt động M&A trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng có thể là để tối đa hóa lợi nhuận, đa dạng hóa và giảm rủi ro cho chủ sở hữu, hoặc gia tăng các lợi ích cho các nhà quản trị, cũng như có thể xuất phát từ mục tiêu của chính phủ nhằm tái cơ cấu lại hệ thống trong các cuộc khủng hoảng. Thực tế hoạt động của các TCTD ngân hàng và phi ngân hàng tại Việt Nam cho thấy, hoạt động M&A đã từng được thực hiện vào những năm đầu của thập niên 90 của thế kỉ XX sau cuộc đổ bể của các Hợp tác xã tín dụng. Được đánh giá là đất nước có nền kinh tế phát triển nhanh, nền chính trị ổn định, Việt Nam trở thành điểm thu hút đầu tư hấp dẫn và được trông đợi sẽ là một con rồng Châu Á trong tương lai. Chính vì thế, hoạt động M&A ở Việt Nam ngày càng trở nên hấp dẫn và hứa hẹn sẽ gia tăng nhanh chóng trong những năm tới. Các chuyên gia kinh tế nhận định rằng thị trường M&A ở Việt Nam đang trở thành một thị trường tiềm năng, với tốc độ phát triển lên tới 30- 40%/năm. Như một xu hướng tất yếu, cùng với sự hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu và sự mở cửa thị trường theo cam kết gia nhập WTO của Việt Nam, hoạt động M&A sẽ ngày càng sôi động. Đây được nhận định là 1
  7. một xu hướng tốt lành cho nền kinh tế nước ta. Tuy nhiên, với điều kiện, thị trường này phải hoạt động lành mạnh theo những quy định của luật pháp. Thời gian qua, dù khung pháp lý của thị trường M&A đã được cải thiện, Luật Doanh nghiệp, Luật Chứng khoán, Luật Đầu tư đều có những điều khoản quy định về hoạt động M&A nhưng vẫn chưa hoàn thiện. Các quy định liên quan đến hoạt động M&A mới chỉ dừng lại ở việc xác lập về mặt hình thức của hoạt động M&A, trong khi đó, các vấn đề về mặt nội dung cần phải được quy định đầy đủ hơn nữa vì hoạt động này còn có nhiều nội dung liên quan đến định giá Doanh nghiệp, giải quyết các vấn đề tài chính, cổ phần, cổ phiếu, người lao động, thuế, phí của Doanh nghiệp trong và sau quá trình M&A. Do đó, khung pháp lý phải tạo điều kiện để xác lập giao dịch, địa vị của bên mua, bên bán, hậu quả pháp lý sau khi kết thúc giao dịch. Trong số các giao dịch trên thế giới và của Việt Nam, thì giao dịch M&A chủ yếu tập trung vào các tổ chức tài chính như: NHTM, tổ chức kinh doanh chứng khoán, tổ chức kinh doanh bảo hiểm. Xuất phát từ vị trí, vai trò của các tổ chức này đối với nền kinh tế, cho nên việc định hướng, điều chỉnh hoạt động M&A đối với các tổ chức này là vô cùng cần thiết. Tác giả chọn đề tài nêu trên để nghiên cứu vì những lý do sau đây: 1. Mong muốn được nghiên cứu một cách có hệ thống và đầy đủ những quy định pháp luật của một số các quốc gia liên quan đến hoạt động M&A các tổ chức tài chính mà trọng tâm là hệ thống NHTM. 2. Mong muốn tìm hiểu rằng: với xu hướng phát triển của hoạt động này trong giai đoạn hiện nay và trong thời gian tới, thì vấn đề cần phải quan tâm là hệ thông pháp luật của Việt Nam đã thích ứng được với những đòi hỏi khách quan của các hoạt động này hay chưa? Những gì mà pháp luật Việt Nam đã có để điều chỉnh hoạt động này? Những vấn đề lưu ý khi áp dụng cho các Tổ chức tài chính 2
  8. 3. Thông qua việc nghiên cứu các quy định về M&A và thực tiễn áp dụng ở các nước khác và so sánh với Việt Nam sẽ giúp đưa ra những nhận xét và đề xuất phương hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong việc điều chỉnh lĩnh vực này để tạo ra một môi trường pháp lý tương đối thuận lợi để cho hoạt động này phát triển. Tình hình nghiên cứu đề tài: Hiện nay ở nước ta, ngoài một số bài báo đề cập hoặc nghiên cứu một số khía cạnh của vấn đề M&A các Tổ chức tài chính nói chung, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách sâu sắc, hệ thống và đầy đủ về vấn đề này cũng như riêng cho M&A NHTM, với nội dung gồm hai phần chính là nghiên cứu pháp luật quốc tế và các quy định của pháp luật Việt Nam về M&A các tổ chức tài chính. Trong xu thế hội nhập hiện nay, việc nghiên cứu một cách có hệ thống về vấn đề này mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Đề tài mang ý nghĩa lý luận cho việc xây dựng những quy phạm pháp luật đầy đủ, phù hợp với luật pháp quốc tế. Những kiến nghị của đề tài hy vọng sẽ đem lại những kết quả thiết thực cho việc hoàn thiện các quy định pháp luật của Việt Nam nhằm mục đích đảm bảo một môi trường pháp lý cho hoạt động này được phát triển một cách có định hướng. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài: Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu các vấn đề pháp lý cũng như cơ sơ sở lý luận của hoạt động M&A theo pháp luật quốc tế, pháp luật một số quốc gia điển hình và pháp luật của Việt Nam. Trong nội dung trình bày, tác giả sẽ đưa ra những nhận xét, đánh giá về pháp luật quốc tế, pháp luật quốc gia trong điểu chỉnh hoạt động này. Qua đó 3
  9. nêu lên những kiến nghị có thể áp dụng cho Việt Nam trong việc hoàn thiện pháp luật đối với lĩnh vực này Phương pháp nghiên cứu: Tác giả sẽ sử dụng phương pháp phân tích, so sánh các quy định pháp luật quốc tế và luật pháp của một số quốc gia, thu thập kinh nghiệm thực tiễn của một số quốc gia trong việc điều chỉnh hoạt động M&A các tổ chức tài chính mà trọng tâm là các ngân hàng từ đó rút ra những ưu điểm trong quy định của pháp luật quốc tế và luật pháp của một số nước điển hình trên thế giới về hoạt động M&A; xem xét tính phù hợp với điều kiện của Việt Nam để hướng tới việc hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam trong việc điều chỉnh hoạt động M&A trong các tổ chức tài chính nhằm tạo một môi trường pháp lý hoàn thiện cho hoạt động này phát triển một cách đồng bộ, có định hướng. Kết cấu của luận văn: Lời nói đầu Chương 1.Tổng quan về hoạt động mua lại, sáp nhập các tổ chức tài chính. Chương 2. Pháp luật của một số quốc gia và pháp luật Việt Nam về hoạt động mua lại, sáp nhập các tổ chức tài chính. Chương 3. Tiếp tục xây dựng hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động mua lại, sáp nhập các tổ chức tài chính. Kết luận. 4
  10. Chương 1 TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG MUA LẠI, SÁP NHẬP CÁC TỔ CHỨC TÀI CHÍNH 1.1. Tổng quan về hoạt động mua lại, sáp nhập các tổ chức tài chính “Merger and Acquisition” là một cụm từ tiếng Anh được dịch sang tiếng Việt là “mua lại và sáp nhập”. Thuật ngữ này thể hiện hoạt động hai Doanh nghiệp kết hợp lại với để nhằm đạt được những mục tiêu đã được xác định trước trong chiến lược kinh doanh của Doanh nghiệp, là một giao dịch có ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với cả hai Doanh nghiệp tham gia trực tiếp vào giao dịch mà còn đối với nhiều đối tượng khác như: người lao động, người quản lý của hai Doanh nghiệp, đối thủ cạnh tranh, cộng đồng và cả nền kinh tế. Sự thành công hay thất bại của hoạt động M&A có tầm quan trọng to lớn đối với cổ đông, chủ nợ cũng như các đối tượng nêu trên. Các công ty trên thế giới đã đầu tư hàng tỷ đôla để thực hiện các thương vụ M&A. Các tổ chức tài chính như: TCTD, tổ chức kinh doanh chứng khoán, tổ chức kinh doanh bảo hiểm là một loại hình Doanh nghiệp đặc biệt nên M&A các tổ chức tài chính cũng có bản chất như M&A doanh nghiệp nói chung: rất đa dạng, được diễn ra dưới nhiều hình thức và nội dung khác nhau: 1.1.1. Hoạt động mua lại tổ chức tài chính 1.1.1.1. Khái niệm Mua lại là hình thức kết hợp mà một Tổ chức tài chính mua lại một phần hoặc toàn bộ cổ phần của Tổ chức tài chính kia. Mục đích của hoạt động này nhằm hướng đến việc thâu tóm thị trường, mạng lưới phân phối hoặc tận dụng mạng lưới phân phối để đưa ra thị trường những sản phẩm, dịch vụ mới. Các đối tượng thường được chú ý đến trong trường hợp này là những Tổ chức tài chính đang hoạt động kinh doanh có hiệu quả, có thị phần ổn định. Tuy vậy, đôi khi hoạt động mua lại cũng gắn liền với việc mua bán nợ và các đối 5
  11. tượng được nhắm tới là các Tổ chức tài chính đang trong tình trạng chuẩn bị giải thể, phá sản, không có khả năng duy trì hoạt động kinh doanh của mình. Hoạt động này cũng có thể được gọi bằng cái tên khác là tái cấu trúc Tổ chức tài chính. 1.1.1.2. Các hình thức của hoạt động mua lại tổ chức tài chính Mua lại Tổ chức tài chính, về bản chất nó không là một hoạt động đưa đến việc thành lâp Tổ chức tài chính mới để dẫn đến sự hình thành một Tổ chức tài chính mới thay thế cho Tổ chức tài chính cũ. Mua lại Tổ chức tài chính là việc một Tổ chức tài chính mua lại Tổ chức tài chính khác và cổ phiếu của Tổ chức tài chính đi mua vẫn tồn tại trên thị trường, đối với Tổ chức tài chính bị mua lại có thể vẫn còn hoặc biến mất tùy theo mục tiêu và ý muốn của hai bên tham gia vào cuộc mua lại. Nếu xét về tính chất của giao dịch mua lại Tổ chức tài chính thì ta có thế phân hoạt động mua lại Tổ chức tài chính thành 2 loại: - Mua lại Tổ chức tài chính mang tính chất thân thiện (friendly acquisition): đây là hình thức mua bán được diễn ra trong sự đồng thuận của hai bên vì cả 2 đều cảm thấy thỏa mãn với thương vụ đó. - Mua lại Tổ chức tài chính mang tính chất thù địch (hostile acquisition): đây là vụ mua lại không được sự đồng ý và hợp tác của các người quản lý cấp cao của Tổ chức tài chính bị mua lại. Trong trường hợp này Tổ chức tài chính đi mua sẽ dùng tiềm lực tài chính của mình để mua lại Tổ chức tài chính khác, có thể hiểu rõ hơn đó là tiến hành thâu tóm Tổ chức tài chính mục tiêu. Nếu xét về hình thức thực hiện trong các giao dịch mua lại thì hoạt động mua lại Tổ chức tài chính cũng có 2 hình thức: - Tổ chức tài chính đi mua mua cổ phiếu của Tổ chức tài chính mục tiêu: Việc mua bán này sẽ làm thay đổi cơ cấu vốn chủ sỡ hữu của Tổ chức tài 6
  12. chính mục tiêu rồi lần lượt sự chuyển nhượng đó làm thay đổi đến cả tài sản của Tổ chức tài chính. Tuy nhiên, Tổ chức tài chính bị mua lại vẫn giữ nguyên các hoạt động kinh doanh, hình thức kinh doanh và Tổ chức tài chính phải gánh chịu tất cả các khoản nợ đã xảy ra trong quá khứ, và tất cả những rủi ro mà Tổ chức tài chính phải đối mặt trong môi trường kinh doanh của Tổ chức tài chính. Như vậy cổ phiếu của Tổ chức tài chính bị mua vẫn còn tồn tại trên thị trường. Tổ chức tài chính đi mua sẽ mua lại một phần hoặc toàn bộ tài sản của Tổ chức tài chính mục tiêu: Trong hình thức này, số tiền mặt mà Tổ chức tài chính mục tiêu nhận được từ vụ mua lại sẽ được chia cho các cổ đông của Tổ chức tài chính dưới hình thức tiền được trả lại hoặc dưới hình thức thanh toán những khoản nợ của Tổ chức tài chính mục tiêu đang gánh chịu. Đây là một hình thức giao dịch thường được thực hiện đối với những trường hợp Tổ chức tài chính bị mua lại là những Tổ chức tài chính có quy mô nhỏ. Người mua sẽ mua những tài sản mà họ muốn và tách loại những tài sản có liên quan đến việc thực hiện trách nhiệm pháp lý. Đây là một vấn đề rất quan trọng. Những trách nhiệm pháp lý đó không chỉ bao gồm không những trách nhiệm hiện tại và có thể có cả những thiệt hại cho tòa án ra quyết định trong tương lai và tài sản không thể đảm bảo được. Sự nổi lên của vấn đề toàn cầu hóa đã làm cho các vụ mua lại Tổ chức tài chính được thực hiện bởi các Tổ chức tài chính nước ngoài ngày càng gia tăng nhanh chóng. Những thương vụ giao dịch đó được gọi là mua lại Tổ chức tài chính xuyên quốc gia (transnational acquisitions) hoặc mua lại Tổ chức tài chính chéo (cross-border acquisitions). Các vụ giao dịch này được thúc đẩy bởi việc quan tâm đến sự đa dạng của chiến lược kinh doanh của Tổ chức tài chính. Tuy nhiên, các vụ mua lại Tổ chức tài chính chéo diễn ra khá là phức tạp hơn so với các vụ mua lại giữa các Tổ chức tài chính trong nước. Sự phức 7
  13. tạp đó là do sự khác nhau về môi trường chính trị, kinh tế, cách thức tổ chức Tổ chức tài chính, văn hóa, phong tục truyền thống, nguyên tắc thuế, kế toán giữa các nước của Tổ chức tài chính đi mua và Tổ chức tài chính mục tiêu. Các Tổ chức tài chính đi mua lại các Tổ chức tài chính khác cần phải quan tâm đến những sự khác biệt đó bởi vì nó thường là nguyên nhân dẫn đến sự thất bại cho Tổ chức tài chính đi mua sau khi hoạt động mua lại đã được tiến hành. 1.1.2. Hoạt động sáp nhập tổ chức tài chính 1.1.2.1. Khái niệm Sáp nhập Tổ chức tài chính là sự kết hợp của hai Tổ chức tài chính để trở thành một Tổ chức tài chính mới có giá trị lớn hơn hai Tổ chức tài chính đang hoạt động riêng lẻ. Hoạt động này đặc biệt hữu ích khi các Tổ chức tài chính rơi vào những thời kỳ khó khăn cho cạnh tranh, tác động thị trường hay bất kỳ yếu tố nào khác. Hoạt động sáp nhập Tổ chức tài chính thường là hành vi mang tính chất tự nguyện và được thực hiện bằng hình thức như hoán đổi chứng khoán – việc thực hiện giao dịch trong trường hợp này thường được sự đồng ý của cổ đông của hai Tổ chức tài chính để chia sẻ rủi ro có liên quan đến việc sáp nhập - hoặc bằng hình thức chi trả tiền mặt để đạt được mục tiêu sáp nhập. Như vậy, sáp nhập là hoạt động xảy ra khi các Tổ chức tài chính, thường là các Tổ chức tài chính trong cùng một ngành, đồng ý hợp lại thành một Tổ chức tài chính mới có quy mô lớn hơn và có sức cạnh tranh cao hơn. Kết quả của việc sáp nhập là cho ra đời một Tổ chức tài chính mới, khác biệt với Tổ chức tài chính trước khi hợp nhất. Tổ chức tài chính mới này có thể sử dụng một tên hoàn toàn khác so với các Tổ chức tài chính sáp nhập hoặc tên của Tổ chức tài chính mới là sự kết hợp tên của các Tổ chức tài chính sáp nhập. Cho dù có thay đổi hoặc không thay đổi tên Tổ chức tài chính sau khi 8
  14. sáp nhập, nhưng thương hiệu của Tổ chức tài chính cũ vẫn được duy trì và phát triển về sau. Có thể kể ra hàng loạt các động cơ chiến lược khác nhau đã đưa các Tổ chức tài chính đến việc M&A. Động cơ chính đằng sau những vụ sáp nhập bao gồm: - Để tận dụng cạnh tranh hoặc để đạt được lợi nhuận độc quyền; - Để tận dụng sức mạnh thị trường chưa được tận dụng hết; - Để đa dạng hoá nhằm giảm rủi ro trong kinh doanh; - Để đạt được quy mô đủ lớn nhằm tận dụng yếu tố kinh tế nhờ quy mô trong phân phối; - Để vượt qua được những mặt hạn chế trong một Tổ chức tài chính bằng cách mua lại những nguồn lực bổ sung cần thiết hoặc các nhân tố khác; - Nhằm đạt được quy mô đủ lớn để tiếp cận có hiệu quả tới thị trường vốn hoặc việc quảng cáo với giá phải chăng; - Để sử dụng một cách toàn diện hơn nữa những nguồn lực hoặc nhân lực cụ thể do Tổ chức tài chính kiểm soát, đặc biệt là năng lực quản lý; - Để sa thải đội ngũ quản lý hiện tại; - Để sử dụng các lợi ích về thuế mà nếu không có sáp nhập sẽ không có được; - Để mua lại những tài sản với giá thấp hơn giá thị trường; - Để tăng trưởng mà không phải trải qua thời kỳ chờ đợi . Tổng hợp lại, chúng ta có thể thấy ba động cơ chính của hoạt động M&A trên thế giới là: động cơ tài chính, động cơ đầu tư và động cơ chiến lược. 1.1.2.2. Các hình thức của hoạt động sáp nhập Tổ chức tài chính Sáp nhập được hiểu là việc kết hợp giữa hai hay nhiều Tổ chức tài chính và cho ra đời một Tổ chức tài chính mới thay thế cho sự biến mất của các Tổ 9
  15. chức tài chính cũ, thường nhằm để thực hiện mục tiêu đầu tiên là làm cho giá trị của Tổ chức tài chính lớn hơn so với khi hoạt động riêng lẻ. Qua nghiên cứu lịch sử của hoạt động sáp nhập Tổ chức tài chính của một số nước và khu vực có nền kinh tế phát triển trên thế giới có thể thấy rằng, hoạt động sáp nhập Tổ chức tài chính có rất nhiều hình thức khác nhau. Tùy theo khía cạnh đang nghiên cứu về hoạt động sáp nhập Tổ chức tài chính mà chúng sẽ được phân thành nhiều loại khác nhau: Phân loại theo mối quan hệ giữa các Tổ chức tài chính tiến hành sáp nhập: - Sáp nhập chiều ngang (horizontal acquisition) còn được gọi là sáp nhập cùng ngành, là hình thức sáp nhập giữa các Tổ chức tài chính cùng cạnh tranh trực tiếp và chia sẻ cùng dòng sản phẩm và thị trường. - Sáp nhập Tổ chức tài chính theo chiều dọc (vertical mergers): Đây là hình thức sáp nhập giữa Tổ chức tài chính khách hàng hoặc Tổ chức tài chính là nhà cung cấp của Tổ chức tài chính lại với nhau. - Sáp nhập kiểu tập đoàn (conglomerate mergers): xảy ra khi hai hay nhiều Tổ chức tài chính không có cùng lĩnh vực kinh doanh nhưng muốn đa dạng hóa hoạt động kinh doanh của mình – mở rộng kinh doanh sang những lĩnh vực khác không liên quan – tiến hành sáp nhập lại với nhau. Phân loại theo mục đích của thương vụ sáp nhập: Có rất nhiều lý do dẫn đến sự sáp nhập giữa các Tổ chức tài chính như nhằm cắt giảm lượng nhân công để giảm chi phí sản xuất, nhằm đạt được hiệu quả nhờ vào quy mô, được trang bị công nghệ mới, tăng thị phần và danh tiếng trong ngành, Trong đó mục tiêu mở rộng thị trường và mở rộng sản phẩm kinh doanh là 2 mục tiêu thường được đặt ra. Chính vì thế trong cách phân loại này có 2 hình thức sáp nhập: 10
  16. - Sáp nhập để mở rộng thị trường: đây là hình thức sáp nhập giữa hai hoặc nhiều Tổ chức tài chính kinh doanh trong cùng một loại sản phẩm nhưng hoạt động ở những thị trường khác nhau. Sự sáp nhập này sẽ giúp cho Tổ chức tài chính sáp nhập là Tổ chức tài chính kinh doanh hàng hóa này ở đồng thời trong nhiều thị trường. - Sáp nhập để mở rộng sản phẩm: diễn ra đối với các Tổ chức tài chính bán những sản phẩm khác nhau nhưng có liên quan với nhau trong cùng một thị trường. Kết quả của vụ sáp nhập này sẽ giúp cho Tổ chức tài chính sáp nhập vẫn tiếp tục hoạt động trong thị trường cũ nhưng lại kinh doanh đồng thời nhiều loại dịch vụ có liên quan với nhau. Dựa trên cách thức cơ cấu tài chính, có hai hình thức sáp nhập là: - Sáp nhập mua: Loại hình này xảy ra khi một Tổ chức tài chính mua lại một Tổ chức tài chính khác. Việc mua Tổ chức tài chính được tiến hành bằng tiền mặt hoặc thông qua một số công cụ tài chính. - Sáp nhập hợp nhất: Cả hai Tổ chức tài chính được hợp nhất dưới một pháp nhân mới và một thương hiệu Tổ chức tài chính mới được hình thành. Tài chính của hai Tổ chức tài chính sẽ được hợp nhất trong Tổ chức tài chính mới. 1.1.3. Sự khác nhau giữa hoạt động “mua lại” và “sáp nhập” các tổ chức tài chính Mặc dù “mua lại” và “sáp nhập” thường được đề cập cùng nhau thành một thuật ngữ "Mua lại, sáp nhập Tổ chức tài chính" nhưng đây là hai thuật ngữ hoàn toàn khác biệt nhau về bản chất. Khi một Tổ chức tài chính mua lại một Tổ chức tài chính khác và đặt mình vào vị trí chủ sở hữu mới thì thương vụ đó được gọi là mua lại. Về khía cạnh pháp lý, Tổ chức tài chính bị mua lại – Tổ chức tài chính mục tiêu – 11
  17. không còn tồn tại. Bên mua đã thôn tính bên bán và cổ phiếu của bên vẫn tiếp tục tồn tại. Khi hai Tổ chức tài chính đồng thuận gộp lại thành một Tổ chức tài chính mới thay vì hoạt động đơn lẻ thì gọi là sáp nhập. Cổ phiếu của cả hai Tổ chức tài chính sẽ ngừng giao dịch và cổ phiếu của Tổ chức tài chính mới sẽ được phát hành. Tóm lại, trong một vụ sáp nhập, một Tổ chức tài chính mới sẽ được hình thành thay cho cả hai Tổ chức tài chính đơn lẻ, ngược lại, trong một vụ mua lại thì Tổ chức tài chính bị mua trở thành một chi nhánh của Tổ chức tài chính đi mua. Nhưng cả hai đều cùng mong muốn đạt được lợi thế quy mô, tăng hiệu quả kinh doanh và thị phần Tuy nhiên có sự nhầm lẫn giữa hai thuật ngữ này. Bởi vì, trên thực tế hình thức sáp nhập, đặc biệt là hình thức sáp nhập ngang – sự sáp nhập của hai Tổ chức tài chính trong cùng ngành nghề có cùng quy mô – không thường xuyên xảy ra do nhiều lý do. Một trong những lý do chính là do việc truyền tải thông tin ra công chúng cần có lợi cho cả Tổ chức tài chính bị mua và Tổ chức tài chính mới sau khi sáp nhập. Thông thường, một Tổ chức tài chính mua một Tổ chức tài chính khác và trong thỏa thuận đàm phán sẽ cho phép Tổ chức tài chính bị mua tuyên bối với công chúng đây là một thương vụ sáp nhập ngang bằng cho dù về mặt bản chất nó là một vụ mua lại. Một vụ mua lại cũng có thể được gọi là sáp nhập khi mà bên mua đồng ý mua và bên bán đồng ý bán vì lợi ích của cả hai bên. Trong trường hợp Tổ chức tài chính bị mua không muốn bị xem là thị thâu tóm thì sẽ được xem là một vụ mua lại. Như vậy, một thương vụ được xem là “mua lại” hay “sáp nhập” hoàn toàn phụ thuộc vào việc nó được diễn ra một cách thân thiện giữa hai bên hay bị ép buộc thâu tóm nhau. Mặt khác nó còn phụ thuộc vào cách truyền tải thông tin ra bên ngoài và cách nhìn nhận của ban giám đốc, nhân viên và cổ đông của Tổ chức tài chính. 12
  18. 1.1.4. Mối quan hệ giữa hoạt động mua lại, sáp nhập với sự phát triển của Thị trường chứng khoán Sự phát triển của nền kinh tế đòi hỏi sự phát triển đồng bộ của thị trường tài chính. Một thị trường tài chính hoàn chỉnh cần phải bao gồm đầy đủ các bộ phận cấu thành nên nó và từng bộ phận cần phát triển để phát huy tác dụng của nó đối với nền kinh tế. Trong các bộ phận của thị trường tài chính thì TTCK giữ một vai trò đặc biệt quan trọng. Sự phát triển của TTCK tạo điều kiện cho sự phát triển của nền kinh tế nói chung và bản thân Tổ chức tài chính nói riêng. Sự phát triển của TTCK đến một giai đoạn nhất định sẽ dẫn đến sự xuất hiện của một thị trường mới đó là thị trường M&A Tổ chức tài chính. Bởi vì: TTCK ra đời tạo tính thanh khoản cho chứng khoán, trong đó có cổ phiếu. Với sự hoạt động của TTCK đã tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân dễ dàng tìm mua lại các cổ phiếu của Tổ chức tài chính với mục tiêu đầu cơ, đầu tư và cả giành quyền kiểm soát Tổ chức tài chính. Như vậy, sự phát triển của TTCK tạo điều kiện của sự ra đời hoạt động mua lại Tổ chức tài chính. TTCK tạo một áp lực phát triển đối với Tổ chức tài chính bởi vì TTCK là công cụ phản ảnh rất nhanh hoạt động của Tổ chức tài chính ra thị trường. Ngoài ra TTCK tạo ra một môi trường minh bạch buộc các Tổ chức tài chính phải tuân thủ theo những quy định của thị trường. Từ đó các Tổ chức tài chính muốn tồn tại và phát triển trong một môi trường cạnh tranh gây gắt thì Tổ chức tài chính cần tận dụng mọi nguồn nội lực để đạt được mục tiêu đó. Tuy nhiên, bản thân các Tổ chức tài chính đều bị giới hạn ở một số nguồn lực hoặc Tổ chức tài chính đã sử dụng hết nguồn nội lực của mình. Tổ chức tài chính cần huy động thêm để gia tăng các nguồn lực và khả năng cạnh tranh. Đây là tiền đề dẫn đến sự ra đời và phát triển của thị trường M&A Tổ chức tài chính. 13
  19. Tóm lại, sự phát triển của nền kinh tế là tiền đề cho sự phát triển của TTCK, sự phát triển của TTCK lại hỗ trợ cho sự phát triển của nền kinh tế. Đồng thời, sự phát triển của cả nền kinh tế và TTCK lại là tiền đề cho sự ra đời và phát triển của thị trường M&A. Như vậy sự có mặt của thị trường M&A là sự phát triển tất yếu, không thể từ chối sự có mặt của thị trường này trong tiến trình phát triển kinh tế. Cách duy nhất là cần phải chuẩn bị để đón nhận và kiểm soát hoạt động M&A để có thể phát huy được những mặt tích cực cũng như là kiểm soát và hạn chế những tác động tiêu cực của thị trường M&A đến với Tổ chức tài chính, thị trường và xã hội. 1.1.5. Các nội dung của hoạt động mua lại, sáp nhập các tổ chức tài chính 1.1.5.1. Xác định mục tiêu hoạt động mua lại, sáp nhập các tổ chức tài chính Việc ra quyết định thực hiện hay không thực hiện hoạt động M&A là một sự tự chủ hoàn toàn của Tổ chức tài chính. Một Tổ chức tài chính quyết định tham gia vào một thương vụ M&A, cho dù đứng ở vị thế nào trong thương vụ này, đều hướng đến một mục tiêu nhất định. Những mục tiêu đằng sau các vụ M&A mà nhà quản trị hướng đến: Tái cấu trúc Tổ chức tài chính: Tái cấu trúc Tổ chức tài chính là việc người quản trị Tổ chức tài chính thực hiện một số hoạt động nhằm để tháo gỡ một phần hoặc tái tổ chức lại các khía cạnh khác của Tổ chức tài chính nhằm mục đích cho Tổ chức tài chính hoạt động có hiệu quả hơn và đạt được mức lợi nhuận cao hơn. Việc tái cấu trúc Tổ chức tài chính có thể thực hiện bằng hình thức bán một phần Tổ chức tài chính hoặc cắt giảm lực lượng lao động của Tổ chức tài chính một cách nghiêm ngặt. Tái cấu trúc Tổ chức tài chính thường được thực hiện như một 14
  20. phần của sự phá sản Tổ chức tài chính, bán toàn bộ Tổ chức tài chính cho một chủ sở hữu mới, hoặc có thể là mua giành quyền kiểm soát đối với một Tổ chức tài chính khác. Một số trường hợp đặc biệt tái cấu trúc Tổ chức tài chính được thực hiện bằng hình thức thực hiện mua lại nợ của Tổ chức tài chính. Đôi khi nó cũng có thể là việc thuê một nhà quản trị mới cho Tổ chức tài chính, nhà quản trị mới này có thể đưa ra những quyết định khác mà nó có thể gây tranh cãi của nhiều người nhưng nhằm mục đích là cứu vãn tình hình hiện tại của Tổ chức tài chính hoặc là duy trì sự hoạt động của Tổ chức tài chính. Như vậy, tái cấu trúc Tổ chức tài chính là cần thiết và việc tái cấu trúc Tổ chức tài chính bằng hình thức M&A là con đường thường được các Tổ chức tài chính lựa chọn. Tổ chức tài chính không phải đợi đến lúc gặp khó khăn mới tính đến chuyện thực hiện tái cấu trúc Tổ chức tài chính mà có thể tiến hành tái cấu trúc Tổ chức tài chính để cho hoạt động kinh doanh của mình phù hợp với môi trường kinh doanh hiện tại thường xuyên thay đổi. Ngoài ra, việc Tổ chức tài chính thực hiện tái cấu trúc Tổ chức tài chính cũng góp phần làm giảm chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận, mở rộng thị trường, tăng lợi thế cạnh tranh, đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ, nâng cao hiệu quả vận hành, Đó cũng chính là những mục tiêu mà hoạt động M&A cố gắng hướng đến. Giảm áp lực cạnh tranh cho Tổ chức tài chính: Trong môi trường kinh doanh hiện nay, các Tổ chức tài chính phải thường xuyên đối chọi với các đối thủ cạnh tranh một cách trực tiếp. Điều đó luôn đặt Tổ chức tài chính dưới áp lực cạnh tranh gây gắt. Một phương thức để giảm bớt áp lực cạnh tranh từ đối thủ của mình đó là các Tổ chức tài chính sẽ thực hiện việc mua lại các đối thủ cạnh tranh đó. Việc mua lại này một mặt góp phần làm giảm áp lực cạnh tranh đồng thời biến Tổ chức tài chính trở thành một Tổ chức tài chính lớn hơn trong ngành nghề kinh doanh cũ, làm 15
  21. tăng lợi thế cạnh tranh của Tổ chức tài chính mới với các đối thủ cạnh tranh còn lại. Mục tiêu này thường được các Tổ chức tài chính hoạt động trong các ngành nghề kỹ thuật cao, đòi hỏi một khoảng chi phí lớn cho công tác nghiên cứu và phát triển. Chẳng hạn như các Tổ chức tài chính sản xuất linh kiện điện tử nhỏ bán lại Tổ chức tài chính cho những Tổ chức tài chính lớn hơn, có doanh thu cao và có cơ sở, kinh phí để thực hiện công tác nghiên cứu và phát triển tốt, nhằm hạn giảm bớt chi phí cho hoạt động nghiên cứu và tăng doanh thu ròng của Tổ chức tài chính. Nếu mục tiêu này thành công sẽ góp phần làm tăng giá chứng khoán của Tổ chức tài chính đi bán lại, còn đối với Tổ chức tài chính đi mua họ kỳ vọng từ giao dịch mua lại Tổ chức tài chính này là sự gia tăng dòng tiền mặt cho Tổ chức tài chính. Mở rộng thị trường: Một mục tiêu khác mà các nhà quản trị khi theo đuổi các thương vụ M&A muốn đạt được có thể là sự mở rộng thị trường. Tổ chức tài chính có thể tiến hành sáp nhập hay mua lại Tổ chức tài chính khác có lợi thế về khía cạnh marketing hay những Tổ chức tài chính mục tiêu đang hoạt động ở những thị trường có lợi nhuận cao nhưng Tổ chức tài chính thì chưa thâm nhập được. Việc thực hiện M&A lúc này sẽ giúp Tổ chức tài chính nhanh chóng thâm nhập vào thị trường mới và sớm đạt được sự gia tăng doanh thu. Đồng thời, sự liên kết giữa hai Tổ chức tài chính có thể cắt giảm bớt được lực lượng bán hàng, làm giảm chi phí nhưng vẫn đảm bảo gia tăng doanh thu. Giá cả cạnh tranh: Việc thực hiện M&A nhằm đạt được mục tiêu mở rộng thị trường sẽ kéo theo được một lợi thế mới cho Tổ chức tài chính đó là giảm được chi phí 16