Luận văn Kê biên nhà ở theo pháp luật thi hành án dân sự từ thực tiễn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Kê biên nhà ở theo pháp luật thi hành án dân sự từ thực tiễn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_ke_bien_nha_o_theo_phap_luat_thi_hanh_an_dan_su_tu.pdf
Nội dung text: Luận văn Kê biên nhà ở theo pháp luật thi hành án dân sự từ thực tiễn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐẶNG THỊ NGỌC HƯỞNG KÊ BIÊN NHÀ Ở THEO PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2018
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐẶNG THỊ NGỌC HƯỞNG KÊ BIÊN NHÀ Ở THEO PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 8380107 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHẠM KIM ANH HÀ NỘI - 2018
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH VỀ KÊ BIÊN NHÀ Ở THEO PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 9 1.1.Khái niệm, đặc điểm, những nội dung cơ bản về kê biên nhà ở 9 1.1.1. Khái niệm kê biên nhà ở 9 1.1.2. Đặc điểm kê biên nhà ở 11 1.1.3. Những quy định cơ bản về kê biên nhà ở 12 1.2. Những quy định chung của pháp luật thi hành án dân sự về kê biên nhà ở 15 1.2.1. Căn cứ pháp lý 15 1.2.2. Trình tự thủ tục trước khi tổ chức kê biên 18 1.2.3. Những quy định của pháp luật thi hành án dân sự về kê biên nhà ở trong từng trường hợp cụ thể 22 Chương 2: KÊ BIÊN NHÀ Ở THEO PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN NHỮNG GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ TỔ CHỨC THỰC THI 38 2.1. Kê biên nhà ở theo pháp luật thi hành án dân sự từ thực tiễn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An 38 2.1.1. Kê biên nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất không do người phải thi hành án đứng tên chủ quyền sử dụng 38 2.1.2. Kê biên nhà ở là tài sản chung của người phải thi hành án với người khác 42
- 2.1.3. Kê biên nhà ở trong trường hợp tài sản đã chuyển đổi, tặng, cho, bán, chuyển nhượng, thế chấp, cầm cố sau khi có bản án, quyết định của Tòa án 46 2.1.4. Kê biên nhà ở gắn liền quyền sử dụng đất thuộc quyền sử dụng của người khác 48 2.1.5. Kê biên nhà ở là tài sản duy nhất của người phải thi hành án 51 2.1.6. Kê biên nhà ở đang cầm cố, thế chấp tại các tổ chức tín dụng 52 2.2. Những giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực thi 57 2.2.1. Trường hợp kê biên nhà ở là tài sản chung: 57 2.2.2. Trường hợp kê biên nhà ở là tài sản duy nhất của người phải thi hành án 59 2.2.3. Trường hợp kê biên nhà ở đã chuyển nhượng sau khi có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật 62 2.2.4. Trường hợp kê biên nhà ở xây dựng trên đất do người khác đứng tên chủ quyền sử dụng 64 2.2.5. Trường hợp kê biên nhà ở đang đảm bảo khoản nợ xấu theo Nghị quyết số 42/2017/QH14 66 KẾT LUẬN 69 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
- DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TAND: Tòa án nhân dân THADS: Thi hành án dân sự
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong điều kiện nền khoa học và công nghệ phát triển rất mạnh, nhanh, nền kinh tế thị trường và tiến bộ công bằng xã hội, dân chủ và pháp quyền, hợp tác và đấu tranh vì lợi ích quốc gia, vì hoà bình và phát triển thì ổn định xã hội là điều kiện tiên quyết, có tính chất quyết định để có thể triển khai đồng bộ, toàn diện các giải pháp để phát triển kinh tế. Nhà nước phải bảo đảm thượng tôn pháp luật, các nguyên tắc pháp quyền, thúc đẩy đồng thuận xã hội, phòng chống tội phạm hiệu quả, xét xử công bằng các tranh chấp và thi hành nghiêm túc các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Nước ta hướng tới xây dựng “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ Nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” [19, Điều 2] và khẳng định yêu cầu “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, các cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân phải luôn tôn trọng và nêu cao tinh thần thượng tôn Hiến pháp và pháp luật” [19, Điều 8]. Tính thượng tôn của Hiến pháp và pháp luật trước hết thể hiện ở các bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành, các giá trị công lý phải được tôn vinh và bảo vệ [19, Điều 106]. Hoạt động THADS là hoạt động thực thi phán quyết của Tòa án liên quan đến các vấn đề về tài sản và nhân thân, trong các bản án hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính, hôn nhân và gia đình Để bản án, quyết định của Tòa án được thực thi trên thực tế, công tác THADS đóng vai trò rất quan trọng. Công tác THADS đang ngày càng có vị trí và ý nghĩa tích cực, quan trọng trong việc bảo vệ pháp chế Xã hội chủ nghĩa, thực thi công lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương và ổn định. Chính vì vậy, trong những năm qua, về hệ thống pháp luật THADS (Pháp lệnh THADS năm 1993, Pháp 1
- lệnh THADS năm 2004; Luật THADS năm 2008 và Luật THADS được sửa đổi, bổ sung năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành luật) ngày càng được hoàn thiện. Đảng và Nhà nước đặt ra các mục tiêu về công tác tư pháp như: một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới [1]; xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa [2]. Ngoài ra, công tác THADS xem như là một nhiệm vụ chính trị của cả nước, của từng địa phương đã được khẳng định tại Nghị quyết số 111/2015/QH13 của Quốc hội khóa XIII về công tác tư pháp, gắn với việc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII và Đại hội Đảng bộ các địa phương và Chỉ thị số: 05/CT-TTg ngày 06/02/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường công tác THADS. Trong những năm qua, thực hiện Luật THADS năm 2008, Luật THADS được sửa đổi, bổ sung năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành, công tác THADS trên địa bàn tỉnh Long An đã có những chuyển biến tích cực. Kết quả thi hành án hàng năm đạt khá cao và năm sau luôn cao hơn năm trước, cơ bản hoàn thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, góp phần vào việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh của tỉnh. Trong năm 2017, Chi cục THADS huyện Đức Hòa, tỉnh Long An thụ lý 5.410 việc, trong đó có điều kiện 3.925 việc, thi hành xong 2.748 việc đạt tỷ lệ 70.01% với số tiền là 111.695.601.000 đồng đạt tỷ lệ 31.5%. Kết quả thi hành án vượt chỉ tiêu ngành giao [6]. Để đạt được những kết quả đó là nhờ được sự đồng tình ủng hộ của cả hệ thống chính trị từ trung ương đến địa phương, các cơ quan có liên quan đến công tác thi hành án cũng như sự quan tâm lãnh đạo sâu sát của lãnh đạo ngành, sự cố gắng, nỗ lực, quyết tâm của tập thể, cán bộ công chức, người lao động của cơ quan THADS cũng như sự 2
- chỉ đạo của Ủy ban nhân dân huyện, Huyện ủy; sự phối hợp của ban ngành huyện và chính quyền địa phương. Công tác vận động thuyết phục trong THADS được Chi cục THADS huyện Đức Hòa chú trọng và đề cao bởi thực hiện tốt công tác này sẽ tạo được sự đồng tình và tự nguyện thi hành của người phải thi hành án (người phải thi hàn án là cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết định được thi hành án) [23, khoản 3 Điều 3] từ đó tiết kiệm được của thời gian và kinh phí. Bên cạnh đó, việc áp dụng các biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế THADS đóng vai trò rất quan trọng đảm bảo thực thi có hiệu quả các bản án, quyết định của tòa án có hiệu lực pháp luật khi người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án. Kê biên nhà ở là một trong 06 biện pháp cưỡng chế được quy định tại Luật THADS được sửa đổi, bổ sung năm 2014 (06 biện pháp cưỡng chế bao gồm: khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi xử lý tiền, giấy tờ có giá của người phải thi hành án; Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án; Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do người thứ ba giữ; Khai thác tài sản của người phải thi hành án; Buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ; Buộc người phải thi hành án thực hiện hoặc không thực hiện một công việc nhất định) [23, Điều 71]. Kê biên nhà ở thuộc biện pháp cưỡng chế xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do người thứ ba giữ [23, khoản 3 Điều 71]. Trong năm 2017, Chi cục THADS huyện Đức Hòa đã ban hành 32 quyết định về cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản, trong đó có 16 quyết định kê biên, xử lý tài sản là nhà ở. Nhà ở là một tài sản đặc biệt, bởi nó liên quan đến nơi ở, sinh sống của cá nhân, gia đình. Việc kê biên, xử lý nhà ở để đảm bảo thi hành án dẫn đến một số hậu quả pháp lý (như là người phải thi hành án sẽ không còn nơi ở, tổ chức cưỡng chế giao nhà khi có người mua tài sản bán đấu giá thành, ). Vì vậy, ngoài những quy định chung của biện pháp kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể 3
- cả tài sản đang do người thứ ba giữ thì kê biên nhà ở còn có những quy định riêng biệt. Trong quá trình áp dụng các biện pháp cưỡng chế THADS nói chung và việc kê biên nhà ở nói riêng có không ít những trở ngại cả về mặt pháp lý lẫn thực tiễn. Thực tế tổ chức thi hành, kê biên nhà ở có một vài điểm bất cập, vướng mắc, có những quy định chưa chặt chẽ, chưa rõ ràng cũng có những trường hợp không có quy định điều chỉnh nên thực tiễn áp dụng còn nhiều trường hợp chưa có hướng xử lý. Từ những điều đó, phần nào ảnh hưởng đến kết quả thi hành án, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật về kê biên nhà ở và quá trình áp dụng trên thực tế sẽ là cơ sở quan trọng hoàn thiện pháp luật để qua đó đảm bảo hiệu quả trong việc áp dụng biện pháp kê biên nhà ở góp phần nâng cao hiệu quả công tác THADS. Chính vì những lý do đó, học viên quyết định chọn đề tài “Kê biên nhà ở theo pháp luật thi hành án dân sự từ thực tiễn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An” để làm luận văn cao học luật. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trước đây đã có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu về cưỡng chế THADS như: - Nguyễn Công Long (2000), Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh; -Trần Công Thịnh (2008), Thực tiễn áp dụng cưỡng chế kê biên tài sản để thi hành án dân sự và một số khuyến nghị, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Kinh tế - Luật số 24. - Đỗ Công Thức (2017), Pháp luật về cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản là quyền sử dụng đất để thi hành các bản án, quyết định dân sự, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Kinh tế - Luật. 4
- Đã có nhiều bài viết về các biện pháp cưỡng chế; cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản; liên quan đến kê biên, xử lý nhà ở. Nhưng hiện chưa có đề tài nghiên cứu sâu về lĩnh vực kê biên nhà ở trong THADS. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài 3.1. Mục đích nghiên cứu Đề tài nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về kê biên nhà ở theo pháp luật THADS. Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích, đánh giá các qui định pháp luật về kê biên nhà ở theo pháp luật THADS và thực tiễn áp dụng tại địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực hiện về kê biên nhà ở - một trong những biện pháp cưỡng chế THADS. 3.2. Nhiệm vụ của luận văn Để đạt được mục đích nói trên, luận văn có các nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu sau đây: - Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về kê biên nhà ở theo pháp luật THADS thông qua việc nghiên cứu làm rõ khái niệm, đặc điểm, những nội dung cơ bản về kê biên nhà ở - Biện pháp bảo đảm THADS. - Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về kê biên nhà ở theo pháp luật THADS trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Chỉ ra những tồn tại, vướng mắc trong quá trình giải quyết kê biên nhà ở để đảm bảo THADS hiện nay và nguyên nhân khách quan, chủ quan của những tồn tại, vướng mắc đó. - Nêu phương hướng và đề xuất các giải pháp cụ thể, góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật THADS về kê biên nhà ở và áp dụng pháp luật kê biên nhà ở để đảm bảo THADS. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài 4.1. Về đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật THADS Việt Nam về kê biên nhà ở - một biện pháp cưỡng chế THADS và thực tiễn áp dụng các 5
- quy định pháp luật đó trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An thông qua một số vụ việc cụ thể trong những năm gần đây. 4.2. Về phạm vi nghiên cứu Luận văn sẽ tập trung vào thực tiễn áp dụng để làm rõ những quy định chặt chẽ, khả thi bên cạnh những tồn tại, vướng mắc gặp phải trong quá trình áp dụng pháp luật THADS về kê biên nhà ở. Luận văn chỉ dừng lại ở nội dung phần kê biên nhà ở mà không nghiên cứu về nội dung phần xử lý nhà ở sau khi kê biên. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu đề tài 5.1. Cơ sở lý luận Để giải quyết các yêu cầu mà đề tài đặt ra, trong quá trình nghiên cứu luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, các quan điểm, đường lối chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò của công tác THADS trong chiến lược cải cách tư pháp. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình hoàn thành luận văn, tác giả sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó chú trọng các phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp thống kê, so sánh . Các phương pháp này được sử dụng cụ thể như sau; - Phương pháp phân tích, tổng hợp được tác giả sử dụng để tìm hiểu các khái niệm, phân tích, tổng hợp các quy định của pháp luật hiện hành về kê biên nhà ở theo luật THADS nhằm mục đích khái quát hóa các quy định của pháp luật về vấn đề này, làm cơ sở cho việc đánh giá pháp luật. Trên cơ sở này, tác giả sử dụng phương pháp bình luận để nhận xét, đánh giá các các bản án, quyết định thi hành án kê biên nhà ở cụ thể phục vụ cho mục đích nghiên 6
- cứu của đề tài. - Phương pháp so sánh: được sử dụng để so sánh làm nổi bật bản chất của kê biên nhà ở là một hình thức của biện pháp cưỡng chế THADS. - Phương pháp thống kê: dùng để thống kê các số liệu có liên quan đến kê biên nhà ở theo luật THADS trên thực tế tại huyện Đức Hòa, tỉnh Long An làm cơ sở cho các kết luận, đề xuất của luận văn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn thạc sỹ luật học với đề tài: “Kê biên nhà ở theo pháp luật thi hành án dân sự từ thực tiễn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An” khi hoàn thành có thể coi là công trình nghiên cứu chuyên sâu và toàn diện về kê biên nhà ở theo pháp luật THADS qua thực tiễn áp dụng pháp luật tại một địa phương. Thông qua việc phân tích đánh giá các quy định của pháp luật và thực tiễn giải quyết việc kê biên nhà ở đảm bảo thi hành án để nhận diện các nguyên nhân vướng mắc trong quá trình tổ chức THADS nói chung và cưỡng chế kê biên nhà ở nói riêng qua đó làm cơ sở cho các kiến nghị hoàn thiện pháp luật THADS. Những kết luận và đề xuất, kiến nghị mà luận văn nêu ra là có cơ sở khoa học và thực tiễn. Vì vậy, chúng có giá trị tham khảo trong việc sửa đổi pháp luật về THADS, đặc biệt là những quy định về cưỡng chế THADS trong đó có việc kê biên nhà ở để đảm bảo việc thi hành án giúp công tác THADS ngày càng đạt hiệu quả hơn. Những kết quả nghiên cứu của luận văn cũng có giá trị tham khảo đối với những người làm công tác THADS. Ngoài ra luận văn còn có giá trị giúp bản thân tác giả nâng cao nhận thức, lý luận và thực tiễn trong công việc của mình và có thể làm tài liệu tham khảo cho các cá nhân và tổ chức muốn tìm hiểu về việc kê biên nhà ở để đảm bảo thi hành án, để từ đó vận dụng vào thực tiễn, nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự. 7
- 7. Cơ cấu luận văn Luận văn gồm có ba phần: Lời nói đầu, nội dung và kết luận. Phần nội dung chính được thiết lập thành hai chương như sau: Chương 1: Một số vấn đề lý luận và quy định về kê biên nhà ở theo pháp luật THADS. Chương 2: Kê biên nhà ở theo pháp luật THADS từ thực tiễn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Những giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực thi. 8
- Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH VỀ KÊ BIÊN NHÀ Ở THEO PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 1.1. Khái niệm, đặc điểm, những nội dung cơ bản về kê biên nhà ở 1.1.1. Khái niệm kê biên nhà ở “Kê biên tài sản” là thuật ngữ pháp lý được sử dụng nhiều trong pháp luật tố tụng dân sự đã được ghi nhận trong nhiều văn bản pháp luật của nước ta như Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự 1989, Pháp lệnh THADS năm1993, Pháp lệnh THADS năm 2004, Luật THADS năm 2008, Luật THADS được sửa đổi, bổ sung năm 2014, Trong cuốn từ điển các thuật ngữ pháp lý thông dụng cũng của nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh năm 1999 có định nghĩa kê biên tài sản như sau: “Kê biên tài sản là việc ghi lại từng tài sản, cấm việc tẩu tán, phá hủy, để đảm bảo cho việc xét xử và thi hành án”. Như vậy, kê biên tài sản là một thuật ngữ pháp lý chỉ việc tính toán và ghi chép lại tài sản theo một trật tự nhất định nhằm mục đích cụ thể. Tài sản kê biên sẽ phục vụ cho mục đích là để cấm việc tẩu tán, phá hủy tài sản và để thực hiện nghĩa vụ của người có tài sản bị kê biên cả trong quá trình xét xử và thi hành án. Trong quá trình tố tụng dân sự nhiều chủ thể có quyền áp dụng biện pháp kê biên tài sản nhưng việc áp dụng ấy có tính chất và mục đích hoàn toàn khác nhau, không phải lúc nào kê biên tài sản cũng được áp dụng với tính chất là một biện pháp cưỡng chế để thi hành án. Hiện nay, chúng ta chưa có một khái niệm khát quát về tài sản mà chỉ có một định nghĩa mang tính chất liệt kê: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản; tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai” [24, Điều 105]. Tại Bộ Luật dân sự năm 2015 có quy định bất động sản bao gồm: Đất đai; Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai; Tài sản khác gắn liền 9
- với đất đai, nhà, công trình xây dựng; Tài sản khác theo quy định của pháp luật [24, khoản 1 Điều 107]. Khái niệm nhà ở được quy định tại Luật Nhà ở 2014 và được giải thích tại khoản 1 Điều 3 như sau: "Nhà ở là công trình xây dựng với mục đích để ở và phục vụ các nhu cầu sinh hoạt của hộ gia đình, cá nhân". Như vậy, "Nhà ở" theo Luật Nhà ở năm 2014 bao gồm: Nhà ở riêng lẻ, nhà chung cư, nhà ở thương mại, nhà ở công vụ, nhà ở để phục vụ tái định cư, nhà ở xã hội. Theo đó, việc xác định đâu là nhà ở phụ thuộc vào mục đích sử dụng của nó chứ không phụ thuộc vào thực tế sử dụng. Pháp luật THADS không có khái niệm thế nào là kê biên nhà ở. Tại Điều 71 Luật THADS được sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định về các biện pháp cưỡng chế thi hành án, trong đó có biện pháp kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do người thứ ba giữ. Luật THADS năm được sửa đổi, bổ sung 2014 có hẳn một điều riêng quy định về kê biên nhà ở [23, Điều 95]. Vậy kê biên nhà ở là một hình thức cưỡng chế THADS. Cưỡng chế THADS là biện pháp thi hành án dùng quyền lực của Nhà nước buộc người phải thi hành án thực hiện nghĩa vụ của họ do Chấp hành viên áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành [32, tr 195]. Như vậy, kê biên nhà ở của người phải thi hành án là một trong 06 biện pháp cưỡng chế thi hành án được ghi nhận tại Điều 71 của Luật THADS được sửa đổi, bổ sung năm 2014 để bảo đảm thực hiện trách nhiệm dân sự hay nghĩa vụ dân sự của người phải thi hành án theo bản án, quyết định của tòa án. Người trực tiếp áp dụng là Chấp hành viên. Nhà nước đã trao cho Chấp hành viên quyền định đoạt tài sản của người phải thi hành án để nhằm mục đích đảm bảo các nghĩa vụ thi hành bằng tiền mà người phải thi hành án không tự nguyện thi hành. Đây là một biện pháp mang tính cưỡng bức bởi nằm ngoài ý chí và sự mong muốn của người phải thi 10
- hành án. Dù người phải thi hành án không đồng ý hay chống đối thì Chấp hành viên khi đủ những căn cứ về mặt pháp lý là có thể áp dụng. 1.1.2. Đặc điểm kê biên nhà ở - Về tính chất: Kê biên nhà ở trước hết là một biện pháp cưỡng chế thi hành án, là một biện pháp nghiêm khắc được áp dụng trên cơ sở quyền lực Nhà nước, thể hiện quyền năng đặc biệt của Nhà nước và được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh Nhà nước. Ở nước ta, thẩm quyền tổ chức cưỡng chế thi hành án dân sự thuộc về cơ quan THADS của Nhà nước. Cơ quan thi hành án sử dụng quyền lực nhà nước để buộc người phải thi hành án thi hành nghĩa vụ mà bản án, quyết định đã tuyên. Đây là một biện pháp mang tính cưỡng bức bằng quyền lực Nhà nước bởi nằm ngoài ý chí và sự mong muốn của người phải thi hành án. Dù người phải thi hành án không đồng ý hay chống đối thì vẫn bị áp dụng khi có đủ những căn cứ về mặt pháp lý. - Về chủ thể áp dụng: do Chấp hành viên thực hiện. Ngoài Chấp hành viên ra thì không ai có thể áp dụng biện pháp kê biên nhà ở. Bởi Chấp hành viên là người được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định theo quy định tại Điều 2 của Luật THADS được sửa đổi, bổ sung năm 2014. Chấp hành viên có ba ngạch là Chấp hành viên sơ cấp, Chấp hành viên trung cấp và Chấp hành viên cao cấp [23, Điều 17]. Nhưng Chấp hành viên ở ngạch nào thì cũng vẫn có quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án trong đó có biện pháp kê biên nhà ở. - Chủ thể bị áp dụng: là người phải thi hành án. Người phải thi hành án là cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết định được thi hành. Việc kê biên nhà ở không những có hiệu lực đối với người phải thi hành án mà còn có hiệu lực với các nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan (người thuê nhà, người đang quản lý nhà của người phải thi hành án; cơ quan có thẩm quyền trong việc đăng ký, quản lý; người đứng tên chủ quyền sử dụng đất mà có nhà của người phải thi hành án xây dựng trên đất; ). 11
- - Đối tượng bị áp dụng: tài sản là nhà ở. Nhà ở bị kê biên là tài sản của người phải thi hành án, kể cả nhà ở đang do người thứ ba giữ. Khi kê biên nhà ở thì Chấp hành viên phải kê biên quyền sử dụng đất gắn liền với nhà ở [23, khoản 2 Điều 95]. - Hậu quả pháp lý: khi áp dụng biện pháp cưỡng chế THADS nói chung và kê biên nhà ở nói riêng thì người bị áp dụng ngoài việc phải thực hiện các nghĩa vụ trong bản án, quyết định do tòa án tuyên, họ còn phải chịu chi phí cưỡng chế thi hành án dân sự. Các chi phí cưỡng chế bao gồm: Chi phí thông báo về cưỡng chế thi hành án; Chi phí mua nguyên liệu, nhiên liệu, thuê phương tiện, thiết bị bảo vệ, y tế, phòng, chống cháy, nổ, các thiết bị, phương tiện cần thiết khác cho việc cưỡng chế thi hành án; Chi phí cho việc định giá, giám định tài sản, bán đấu giá tài sản; chi phí định giá lại tài sản; Chi phí cho việc thuê, trông coi, bảo quản tài sản; chi phí bốc dỡ, vận chuyển tài sản; chi phí thuê nhân công và khoản chi phục vụ cho việc xây ngăn, phá dỡ; chi thuê đo đạc, xác định mốc giới để thực hiện việc cưỡng chế thi hành án; Chi phí cho việc tạm giữ, thu giữ tài sản, giấy tờ; Tiền bồi dưỡng cho những người trực tiếp tham gia cưỡng chế và bảo vệ cưỡng chế thi hành án [23, khoản 1 Điều 73]. 1.1.3. Những quy định cơ bản về kê biên nhà ở Kê biên nhà ở là một biện pháp cưỡng chế và Chấp hành viên tác động trực tiếp đến tài sản của người phải thi hành án là nhà ở. Do vậy, việc kê biên nhà ở sẽ làm ảnh hưởng đến quyền sử dụng, quyền sở hữu của người phải thi hành án, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan (người có quyền sở hữu, sử dụng chung; người đang nhận bảo đảm từ tài sản của người phải thi hành án, ). Chính vì vậy, các quy định của pháp luật THADS về cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án rất chặt chẽ và cụ thể. Chấp hành viên căn cứ vào nội dung bản án, quyết định; tính chất, mức độ, nghĩa vụ 12
- thi hành án; điều kiện của người phải thi hành án; đề nghị của đương sự và tình hình thực tế của địa phương để lựa chọn việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án thích hợp. Khi kê biên nhà ở, Chấp hành viên phải đảm bảo các quy định sau: Thứ nhất, việc áp dụng biện pháp kê biên nhà ở phải tương ứng với nghĩa vụ của người phải thi hành án và các chi phí cần thiết [23, khoản 3 Điều 104]. Nên khi lựa chọn tài sản để kê biên, Chấp hành viên phải cân nhắc chọn nhà ở có giá trị ít nhất là lớn hơn hoặc bằng nghĩa vụ thi hành án và các khoản chi phí khác. Trường hợp người phải thi hành án chỉ có một tài sản duy nhất lớn hơn nhiều lần so với nghĩa vụ phải thi hành án mà tài sản đó không thể phân chia được hoặc việc phân chia làm giảm đáng kể giá trị của tài sản thì Chấp hành viên vẫn có quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế để thi hành án. Công tác xác minh điều kiện thi hành án là khâu quan trọng giúp Chấp hành viên nắm rõ tất cả các tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng của người phải thi hành án. Do vậy, khi xác minh đòi hỏi Chấp hành viên phải vận dụng các kiến thức, kỹ năng, chuyên môn nghiệp vụ. Trong quá trình xác minh, Chấp hành viên cần làm rõ về loại tài sản, giá trị tài sản. Trên cơ sở kết quả xác minh, Chấp hành viên sẽ lựa chọn biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thích hợp. Việc quy định nguyên tắc tương ứng khi cưỡng chế nhằm đảm bảo quyền lợi cũng như nghĩa vụ của người phải thi hành án, người được thi hành án tránh trường hợp Chấp hành viên cưỡng chế, xử lý tài sản vượt quá so với tiền phải thi hành án và các chi phí cần thiết hoặc cưỡng chế, xử lý tài sản không đủ thực hiện nghĩa vụ phải thi hành án. Thứ hai, cơ quan THADS áp dụng biện pháp kê biên nhà ở khi đã hết thời gian tự nguyện thi hành án. Trừ trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh việc thi hành án. Theo Luật THADS được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người phải thi hành án có thời gian tự nguyện thi hành án là 10 (mười) ngày kể từ ngày nhận 13
- được quyết định thi hành án hoặc nhận được thông báo hợp lệ quyết định thi hành án [23, khoản 1 Điều 45]. Đây là khoảng thời gian để người phải thi hành án thi hành nghĩa vụ của mình mà theo bản án, quyết định đã tuyên. Hết thời gian tự nguyện thi hành án, xem như người phải thi hành án không tự nguyện thi hành và phải chịu sự cưỡng chế của cơ quan thi hành án. Thời hạn tự nguyện thi hành án được tính trên cơ sở Chấp hành viên đã thực hiện thông báo cho người phải thi hành án theo các quy định của pháp luật THADS. Trên thực tế, nhiều trường hợp người phải thi hành án lợi dụng thời gian tự nguyện thi hành án để trốn tránh nghĩa vụ của mình nên tẩu tán tài sản, hủy hoại tài sản. Luật THADS được sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định Chấp hành viên có thể cưỡng chế trong trường hợp người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản dù thời gian tự nguyện thi hành án vẫn còn. Khi áp dụng biện pháp cưỡng chế trong thời gian tự nguyện thi hành án vẫn còn thì phải chứng minh người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản thi hành án hoặc trốn tránh trách nhiệm thi hành án. Nhưng để chứng minh được thì hiện còn gặp rất nhiều khó khăn trong khi Luật THADS được sửa đổi, bổ sung năm 2014 chưa quy định rõ trách nhiệm chứng minh thuộc về ai. Thứ ba, khi kê biên nhà ở có huy động lực lượng thì không được thực hiện trong thời gian mà theo quy định của pháp luật không được tiến hành cưỡng chế như: không được cưỡng chế thời gian từ lúc 22h đến 06h sáng ngày hôm sau; các ngày nghỉ, lễ theo quy định của pháp luật; Ngoài ra không tổ chức cưỡng chế có huy động lực lượng trong thời gian từ 15 ngày trước và sau tết Nguyên đán; các ngày truyền thống đối với các đối tượng chính sách, nếu họ là người phải thi hành án; các trường hợp đặc biệt khác ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội, phong tục, tập quán tại địa phương [8, khoản 2 Điều 13]. 14
- Thứ tư, việc kê biên nhà ở là nơi ở duy nhất của người phải thi hành án chỉ được thực hiện sau khi xác định người đó không có các tài sản khác hoặc có nhưng không đủ để thi hành án, trừ trường hợp người phải thi hành án đồng ý kê biên nhà ở để thi hành án [23, khoản 1 Điều 95]. Thứ năm, Khi kê biên nhà ở phải kê biên cả quyền sử dụng đất gắn liền với nhà ở. Trường hợp nhà ở gắn liền với đất thuộc quyền sử dụng của người khác thì Chấp hành viên chỉ kê biên nhà ở và quyền sử dụng đất để thi hành án nếu người có quyền sử dụng đất đồng ý. Trường hợp người có quyền sử dụng đất không đồng ý thì chỉ kê biên nhà ở của người phải thi hành án, nếu việc tách rời nhà ở và đất không làm giảm đáng kể giá trị căn nhà [23, khoản 2 Điều 95]. Thứ sáu, khi kê biên nhà ở của người phải thi hành án đang cho thuê, cho ở nhờ thì Chấp hành viên phải thông báo ngay cho người đang thuê, đang ở nhờ biết. Trường hợp tài sản kê biên là nhà ở, cửa hàng đang cho thuê được bán đấu giá mà thời hạn thuê hoặc thời hạn lưu cư vẫn còn thì người thuê có quyền tiếp tục được thuê hoặc lưu cư theo quy định của Bộ luật dân sự [23, khoản 3 Điều 95]. 1.2. Những quy định chung của pháp luật THADS về kê biên nhà ở 1.2.1. Căn cứ pháp lý Tại Điều 70 Luật THADS được sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định các căn cứ để cưỡng chế thi hành án gồm các căn cứ sau: Bản án, quyết định; Quyết định thi hành án; Quyết định cưỡng chế thi hành án, trừ trường hợp bản án, quyết định đã tuyên kê biên, phong tỏa tài sản, tài khoản và trừ trường hợp thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án. Như vậy, căn cứ để cưỡng chế kê biên nhà ở gồm có ba căn cứ như sau: Thứ nhất, phải có bản án, quyết định. Các bản án, quyết định được thi hành án định quy định tại Điều 1 của Luật THADS được sửa đổi, bổ sung 15
- năm 2014 có hiệu lực pháp luật bao gồm: Bản án, quyết định hoặc phần bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm; Bản án, quyết định của Toà án cấp phúc thẩm; Quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Toà án; Bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài đã được Toà án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam; Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh mà sau 30 ngày kể từ ngày có hiệu lực pháp luật đương sự không tự nguyện thi hành, không khởi kiện tại Toà án; Quyết định của Trọng tài thương mại. Ngoài ra những bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm được thi hành ngay, mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị: Bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tổn thất về tinh thần, nhận người lao động trở lại làm việc; Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời [23, Điều 2]. Căn cứ này xuất phát từ nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan THADS là tổ chức thi hành các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Nên căn cứ đầu tiên là phải căn cứ vào bản án, quyết định. Như vậy, căn cứ đầu tiên là các bản án, quyết định phải thuộc các dạng nêu trên. Các bản án, quyết định không thuộc quy định nêu trên thì không thuộc thẩm quyền của cơ quan THADS và không được cơ quan THADS thụ lý thi hành. Thứ hai, phải có quyết định thi hành án của cơ quan THADS. Quyết định thi hành án có thể là quyết định theo đơn yêu cầu hoặc là quyết định thi hành án chủ động. Người ra quyết định thi hành án là thủ trưởng cơ quan THADS và thủ trưởng sẽ phân công Chấp hành viên tổ chức thi hành. Mỗi loại quyết định có quy định cụ thể về thời hạn ra quyết định. Đối với quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu thời hạn ra quyết định là 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu thi hành án. Thời hạn ra quyết định chủ 16