Luận văn Hủy phán quyết trọng tài thương mại theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Hủy phán quyết trọng tài thương mại theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_huy_phan_quyet_trong_tai_thuong_mai_theo_phap_luat.pdf
Nội dung text: Luận văn Hủy phán quyết trọng tài thương mại theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐỖ HỮU CHIẾN HỦY PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2017
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐỖ HỮU CHIẾN HỦY PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số: 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN NHƯ PHÁT HÀ NỘI - 2017
- LỜI CAM ĐOAN Tôi: Đỗ Hữu Chiến Học viên Cao học - Khóa VI.1 (2015 – 2017) Chuyên ngành: Luật kinh tế Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, dữ liệu và một số kiến thức của các tác giả khác trong luận văn này được sử dụng trung thực, có đầy đủ nguồn dữ liệu đáng tin cậy theo quy định của một công trình khoa học. Kết qủa nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố tại bất kỳ công trình khoa học nào.
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁN QUYẾT VÀ HỦY PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI 6 1.1. Khái quát chung về trọng tài 6 1.1.1. Khái niệm trọng tài thương mại 6 1.1.2. Đặc điểm của trọng tài thương mại 6 1.1.3. Tranh chấp thương mại và giải quyết tranh chấp bằng trọng tài 8 1.1.4. Vai trò của trọng tài trong việc giải quyết tranh chấp thương mại . 13 1.1.5. Thẩm quyền của trọng tài thương mại 15 1.1.6. Các hình thức trọng tài 17 1.2. Khái quát về phán quyết trọng tài thương mại 20 1.2.1. Khái niệm và đặc điểm phán quyết trọng tài 20 1.2.2. Nội dung, hình thức và hiệu lực của phán quyết trọng tài 22 1.3. Nhu cầu và điều kiện hủy phán quyết trọng tài thương mại 24 1.3.1. Khái niệm và đặc điểm của hủy phán quyết trọng tài 24 1.3.2. Bản chất và nhu cầu hủy phán quyết trọng tài 25 1.3.3. Căn cứ huỷ phán quyết trọng tài 26 1.3.4. Trình tự, thủ tục giải quyết yêu cầu hủy phán quyết trọng tài 32 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ HỦY PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 38 2.1. Đánh giá thực trạng về hủy phán quyết trọng tài thương mại theo pháp luật Việt Nam 38 2.1.1. Những quy định về điều kiện có hiệu lực của phán quyết trọng tài 38 2.1.2. Những quy định về điều kiện hủy phán quyết trọng tài 39
- 2.1.3. Những quy định về trình tự và thủ tục hủy phán quyết trọng tài 45 2.2. Thực trạng áp dụng hủy phán quyết trọng tài thương mại theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh 47 2.2.1. Nét đặc trưng của các trung tâm trọng tài tại thành phố Hồ Chí Minh so với trung tâm trọng tài khác tại Việt Nam 47 2.2.2. Đánh giá chung về thực trạng áp dụng hủy phán quyết trọng tài thương mại theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh 56 2.2.3. Nguyên nhân tình trạng hủy phán quyết trọng tài thương mại theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh 57 2.3. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh 65 2.3.1. Yêu cầu và định hướng hoàn thiện pháp luật 65 2.3.2. Một số giải pháp hoàn thiện các quy định về hủy phán quyết Trọng tài thương mại theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh 70 KẾT LUẬN 75 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 77 PHỤ LỤC
- DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT BLTTDS: Bộ luật tố tụng dân sự HĐTT: Hội đồng trọng tài ICC: Phòng thương mại quốc tế NQ: Nghị quyết PIAC: Pacfic international arbitration centre (Trung tâm trọng tài thương mại quốc tế Thái Bình Dương) PQTT: Phán quyết trọng tài QĐTT: Quyết định trọng tài Tp.HCM: Thành phố Hồ Chí Minh TTTM: Trọng tài thương mại TTTT: Thỏa thuận trọng tài TTV: Trọng tài viên VIAC: Vietnam International Arbitration Centre (Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam)
- DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1: Số lượng vụ tranh chấp 1 Bảng 2.2: Tính chất tranh chấp 2 Bảng 2.3: Lĩnh vực tranh chấp 4 Bảng 2.4: Trị giá tranh chấp 5 Bảng 2.5: Thời gian giải quyết tranh chấp 5 Bảng 2.6: Trọng tài viên 6
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hủy PQTT là đề tài mang tính cấp bách được đặt ra trong nền kinh tế thị trường hội nhập quốc tế toàn diện của Việt Nam, vấn đề nan giải hiện nay đã tác động tiêu cực đến hoạt động của TTTM ở Việt Nam nói chung và đặc biệt thực tiễn tại TP.HCM. Trong giai đoạn từ năm 2003 đến năm 2015, theo thống kê của Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam (“VIAC”), có 46 quyết định/phán quyết trọng tài của VIAC đã bị yêu cầu Tòa án xem xét hủy, trong số đó có 19 PQTT đã bị Tòa án tuyên hủy thì có 14 PQTT bị Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội tuyên hủy và 5 PQTT bị Tòa án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh tuyên hủy. Nhưng, chỉ tính riêng giai đoạn 2011-2015, khi mà Luật TTTM 2010 có hiệu lực thi hành, có đến 50% số đơn yêu cầu hủy PQTT đã được Tòa án chấp nhận (hủy 10 PQTT trong số 20 vụ yêu cầu). Đây là một tình trạng đáng báo động vì tỷ lệ PQTT bị hủy trong tổng số bị yêu cầu cao một cách không bình thường, chưa thấy ở nước ngoài. Điều đáng lưu ý đó là theo báo cáo ngày ngày 27 tháng 01 năm 2015 của Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh về kết quả Hội thảo hủy PQTT tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh ngày 20 tháng 1 năm 2015 Số lượng phán quyết trọng tài bị hủy có xu hướng tăng, trong khi căn cứ hủy phán quyết trọng tài còn thiếu thuyết phục điều này làm giảm uy tín,hiệu quả của hoạt động trọng tài. Môi trường đầu tư, kinh doanh của Việt Nam cũng bị ảnh hưởng. Với chủ trương xã hội hóa và hội nhập quốc tế, Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương khuyến khích sử dụng trọng tài để giải quyết tranh chấp thông qua Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/06/2005 và Nghị quyết số 09- NQ/TW ngày 9/12/2011. Tại Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ 1
- Chính trị đã khẳng định chủ trương “Khuyến khích việc giải quyết một số tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài; Tòa án hỗ trợ bằng quyết định công nhận việc giải quyết đó”. Tuy nhiên, tình trạng hủy PQTT như hiện nay không phải là sự khuyến khích giải quyết bằng trọng tài và Tòa án chưa hỗ trợ trọng tài. Thực trạng hủy PQTT ở nước ta trong thời gian qua đã có nhiều tác động rất tiêu cực. Hủy PQTT tùy tiện sẽ “giết chết” TTTM non trẻ của Việt Nam; làm giảm lòng tin của các nhà kinh doanh đối với trọng tài, giảm lòng tin của các TTV, luật sư, doanh nghiệp và các tổ chức, cá nhân có liên quan vào hệ thống Tòa án. Nếu các nhà kinh doanh e ngại lựa chọn trọng tài thì trọng tài sẽ không thể chia sẻ gánh nặng giải quyết tranh chấp kinh doanh với Tòa án như mục đích ban hành Luật TTTM 2010. Nếu TTTM không thể phát triển thì sẽ tác động tiêu cực đến các doanh nghiệp Việt Nam khi họ phải chọn trọng tài nước ngoài và ra nước ngoài giải quyết tranh chấp. Việc Tòa án nhân dân hủy PQTT tùy tiện sẽ làm tốn kém thời gian và chi phí cho các bên, có thể làm mất cơ hội kinh doanh và phát triển của doanh nghiệp, làm xấu môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam. Vậy, đâu là nguyên nhân của tình trạnh hủy PQTT trong thời gian vừa qua. Tác giả quyết định lựa chọn đề tài: “Hủy phán quyết trọng tài thương mại theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” để góp phần làm sáng tỏ về mặt lý luận các vấn đề liên quan đến chế định hủy PQTT, đánh giá thực trạng và đề xuất hướng hoàn thiện pháp luật về chế định này. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Anh Tuấn “ Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài theo luật trọng tài thương mại năm 2010” năm 2014; Luận văn thạc sĩ luật học của Phạm Huy Hoàng “ Thi hành phán quyết của trọng tài thương mại theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí 2
- Minh” năm 2014; Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Thị Liên “So sánh pháp luật về trọng tài thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ” năm 2015; Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Minh Giáp “Thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài bằng trọng tài thương mại Việt Nam” năm 2015. Những công trình nghiên cứu trên đây ít nhiều đều có đề cập đến nội dung có liên quan đến đề tài này. Tuy nhiên, nghiên cứu chuyên sâu về hủy phán quyết trọng tài thương mại từ thực tiễn TP. Hồ Chí Minh là đề tài chưa được thực hiện trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ luật học vào thời điểm hiện nay. Vì vậy, những công trình nghiên cứu trên đây sẽ được tham khảo tích cực để thực hiện nhiệm vụ của Đề tài này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài Mục đích nghiên cứu của luận văn là nhằm phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về “Hủy phán quyết trọng tài thương mại theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” để từ đó đề xuất các kiến nghị, các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hủy PQTT trong hiện tình hội nhập sâu rộng vào kinh tế thương mại quốc tế. Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, luận văn có các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau: 3.1. Đánh giá thực trạng về hủy phán quyết trọng tài thương mại theo pháp luật Việt Nam; 3.2. Thực trạng áp dụng hủy phán quyết trọng tài thương mại theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh; 3.3. Yêu cầu và định hướng hoàn thiện pháp luật; 3.4. Một số giải pháp hoàn thiện các quy định về hủy phán quyết Trọng tài thương mại theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh. 3
- 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định về hủy PQTT theo Luật TTTM 2010, NQ 01/2014/HĐTP và thực tiễn áp dụng pháp luật về hủy PQTT tại một trong những trung tâm trọng tài lớn nhất của Thành phố Hồ Chí Minh là Trung tâm Trọng tài thương mại quốc tế Thái Bình Dương PIAC và Trung tâm trọng tài lớn nhất nước Việt Nam là Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC). Về mặt thời gian, Luận văn sẽ nghiên cứu số liệu trong những năm gần đây, từ khi có Luật TTTM 2010. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như thống kê, tổng hợp, so sánh, phân tích để nghiên cứu vấn đề. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về hủy PQTT tại Việt Nam; đánh giá thực trạng về hủy PQTT theo pháp luật Việt Nam; đánh giá thực trạng áp dụng hủy PQTT theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh; đưa ra một số giải pháp hoàn thiện các quy định về hủy PQTT theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh nhằm hạn chế các bất cập liên quan đến việc hủy PQTT ở Việt Nam, góp phần thúc đẩy TTTM Việt Nam phát triển và làm cho TTTM trở lên phổ biến hơn tại Việt Nam như mục tiêu của Đảng và Nhà nước đã đặt ra. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu; Kết luận chương 1 và 2; Kết luận chung; Phần Tài liệu tham khảo, Luận văn được chia làm 2 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về phán quyết và hủy phán quyết trọng tài thương mại. 4
- Chương 2: Thực trạng pháp luật, thi hành và hoàn thiện pháp luật về hủy phán quyết trọng tài thương mại theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh. 5
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁN QUYẾT VÀ HỦY PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI 1.1. Khái quát chung về trọng tài 1.1.1. Khái niệm trọng tài thương mại Theo khoản 1 điều 3 Luật TTTM 2010 thì “Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thoả thuận và được tiến hành theo quy định của Luật này”. Tranh chấp ở đây liên quan đến tranh chấp thương mại. Một cách đơn giản có thể hiểu “tranh chấp thương mại” là tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực thương mại. Điều 238 Luật TTTM2010 nêu ra khái niệm về tranh chấp thương mại "là tranh chấp phát sinh do việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng trong hoạt đồng thương mại". Trong kinh tế thị trường, xuất phát từ quyền tự do định đoạt của các bên tham gia tranh chấp, các quốc gia đều thiết lập nhiều phương thức giải quyết tranh chấp khác nhau, trong đó, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài có những ưu việt hơn so với những phương thức khác. Đó là : tự nguyện, tự định đoạt, nhanh chóng và giữ bí mật kinh doanh 1.1.2. Đặc điểm của trọng tài thương mại 1.1.2.1. Trọng tài là cơ chế giải quyết tranh chấp dựa trên sự thỏa thuận Đây là một đặc điểm cơ bản của Trọng tài. Khoản 1 điều 5 Luật TTTM 2010 quy định về điều kiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài “các bên phải có thỏa thuận trọng tài”. Thỏa thuận này, trước hết, là điều kiện tiên quyết để quá trình giải quyết tranh chấp tại trọng tài có thể diễn ra một cách hợp lệ. Nội dung của một TTTT bao gồm nhiều yếu tố, tùy thuộc vào hoàn cảnh phát sinh tranh chấp và vào ý chí của các bên. Một TTTT đơn giản có thể chỉ cần quy định rằng các tranh chấp phát sinh liên quan đến hợp đồng sẽ được giải 6
- quyết tại một Trung tâm Trọng tài hoặc tại một HĐTT vụ việc. Mặt khác, các bên còn có thể thỏa thuận về việc lựa chọn TTV, ngôn ngữ sử dụng trong tố tụng trọng tài, hoặc một số vấn đề khác mà Luật cho phép sự thỏa thuận. Ngoài ra, một TTTT cũng ảnh hưởng đến việc công nhận và cho thi hành PQTT. Điều V công ước New York, tại khoản 1 điểm a quy định, việc công nhận và thi hành phán quyết trọng tài có thể bị từ chối khi các bên ký kết TTTT không đủ năng lực ký kết hoặc TTTT không có giá trị. Sự tự do thỏa thuận là đặc điểm phân biệt tố tụng Trọng tài với tố tụng Tòa án, nếu tranh chấp được giải quyết tại Tòa án, các bên hoàn toàn không có quyền lựa chọn một vị thẩm phán mà các bên có đủ tin tưởng để giải quyết vụ tranh chấp của mình thì tại Trọng tài, chọn một TTV thích hợp cho vụ tranh chấp cụ thể là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt, bới vì không phải người nào cũng có đủ kiến thức và kinh nghiệm để đưa ra một phán quyết công bằng, nhất là trong trường hợp tranh chấp đòi hỏi một sự hiểu biết sâu rộng về lĩnh vực có liên quan. Ngoài ra, các bên còn có thể thỏa thuận về một số trình tự, thủ tục hoặc thời hạn mà Luật cho phép sao cho thuận tiện với mỗi bên, giúp hạn chế tối đa những ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động kinh doanh thường xuyền của họ. Điều này không xảy ra trong tố tụng tài Tòa án vì các bên phải tuân thủ trình tự, thủ tục do pháp luật về tố tụng dân sự quy định. Thỏa thuận trọng tài là cơ sở khước từ tố tụng tại Tòa án, thật vậy, Điều 6 Luật TTTM 2010 quy định rằng trong trường hợp các bên tranh chấp đã có TTTT mà một bên khởi kiện tại Tòa án thì Tòa án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp TTTT vô hiệu hoặc TTTT không thể thực hiện được. Điều này cho ta thấy rằng pháp luật cho phép các bên thỏa thuận về việc giải quyết tranh chấp tại Trọng tài và cũng tôn trọng sự thỏa thuận đó. 1.1.2.2. Trọng tài là hình thức “tài phán tư” 7
- Sở dĩ ta có kết luận như vậy là vì, nếu đem so sánh hai thiết chế Tòa án và Trọng tài, ta sẽ thấy được một số điểm tương đồng giữa chúng. Tính chất “tư” được thể hiện ở chỗ, nếu như quyền xét xử tranh chấp mà Thẩm phán có được là do Nhà nước trao cho thì các TTV trong HĐTT lại được nhận quyền này từ chính các bên tranh chấp. Nguyên tắc của luật tư được bắt đầu từ sự tự do thỏa thuận trọng lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp là trọng tài trong hợp đồng hoặc sau khi có tranh chấp phát sinh. Thứ nữa, các bên tham gia tranh chấp có quyền tự lựa chọn thẩm phán cho mình là TTV và ấn định một số vấn đề về tố tụng. 1.1.2.3. Kết quả giải quyết tranh chấp là một phán quyết có giá trị ràng buộc các bên tranh chấp Cơ sở pháp lý cho đặc điểm này được quy định tại khoản 5 điều 61 Luật TTTM 2010 “Phán quyết trọng tài là chung thẩm và có hiệu lực kể từ ngày ban hành”. PQTT là đối tượng được đảm bảo thi hành theo quy định tại Điều 1 của Luật Thi hành án dân sự 2014 có hiệu lực từ ngày 01/7/2015. Đây là đặc điểm quan trọng của của giải quyết tranh chấp bằng trọng tài khác biệt so với tòa án. Theo đó, tại trọng tài không có trình tự xét xử theo hai cấp. Kể cả trong trường hợp có sự can thiệp của tòa án thì về nguyên tắc, tòa án không thể là cấp phúc thẩm của trọng tài. Thông lệ quốc tế cho thấy, sự hỗ trợ của tòa án chỉ là tạo điều kiện để các phán quyết của tòa án được thi hành một cách thuận lợi. Việc hủy phán quyết trọng tài thương mại của tòa án như ở Việt Nam là trường hợp hi hữu theo những quy định của pháp luật và kể cả khi đó, quyết định của tòa án cũng không có giá trị của bản án phúc thẩm. 1.1.3. Tranh chấp thương mại và giải quyết tranh chấp bằng trọng tài Khái niệm tranh chấp thương mại lần đầu tiên được quy định trong Luật Thương mại năm1997 . Tại Điều 238 Luật Thương mại quy định: Tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh do việc không thực hiện hoặc thực 8
- hiện không đúng hợp đồng trong hoạt động thương mại. Theo đó, nội hàm hoạt động thương mại theo quy định của Luật Thương mại năm 1997 rất hẹp so với quan niệm quốc tế về thương mại. Hoạt động thương mại chỉ bao gồm ba nhóm: Hoạt động mua bán hàng hóa; cung ứng dịch vụ thương mại và các hoạt động xúc tiến thương mại [13, điều 5]. Tranh chấp thương mại và hoạt động thương mại theo quy định của Luật Thương mại năm 1997 đã loại bỏ rất nhiều tranh chấp mà xét về bản chất thì các tranh chấp đó có thể được coi là các tranh chấp thương mại. Vì vậy đã dẫn đến các xung đột pháp luật trong hệ thống pháp luật, giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế, trong đó có cả những Công ước quốc tế quan trọng mà Việt Nam đã là thành viên (Công ước New York năm 1958) gây không ít những trở ngại, rắc rối trong thực tiễn áp dụng và chính sách hội nhập [9]. Trong nền kinh tế thị trường, các tranh chấp thương mại có thể được giải quyết bằng nhiều phương thức như thương lượng, hòa giải, trọng tài và tòa án. Như vậy, trọng tài chỉ là một trong các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại mà các bên tranh chấp có thể lựa chọn. Với tính chất là phương thức giải quyết tranh chấp, trọng tài được hiểu là một phương thức, trong đó các bên tranh chấp tự nguyện thỏa thuận với nhau để ủy thác việc giải quyết tranh chấp đã hoặc sẽ phát sinh giữa họ cho trọng tài, trên cơ sở các tình tiết khách quan của tranh chấp, trọng tài được quyền đưa ra phán quyết cuối cùng và phán quyết này có giá trị bắt buộc thi hành đối với các bên. Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) quan niệm tranh chấp thương mại là tranh chấp ở phạm vi quốc tế, được dùng để chỉ các bất đồng giữa các nước thành viên WTO khi một nước cho rằng quyền lợi của mình theo một hiệp định nào đó của WTO bị triệt tiêu đi hay bị xâm hại do việc một nước thành viên khác áp dụng một biện pháp thương mại hoặc không thực hiện một nghĩa vụ (khiếu kiện vi phạm); hoặc khi việc đạt được mục tiêu của hiệp định 9
- bị cản trở, triệt tiêu hoặc suy giảm quyền lợi thương mại do biện pháp thương mại của một thành viên bất kể là biện pháp này có trái với nghĩa vụ thành viên hay không (khiếu kiện không có vi phạm); hoặc khi có bất kỳ tình tiết nào đem lại thiệt hại về quyền lợi hay cản trở đạt mục tiêu hiệp định (khiếu kiện tình huống). Hơn nữa, một bất đồng chỉ trở thành một tranh chấp của WTO khi nó được chính thức thông báo cho Ban thư ký WTO. Như vậy, trong khuôn khổ WTO, tranh chấp thương mại được hiểu là bất đồng giữa các thành viên WTO liên quan đến việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo các Hiệp định và thỏa thuận của WTO và bất đồng này được thông báo chính thức cho Ban thư ký WTO. Như vậy, tranh chấp thương mại trong khuôn khổ WTO có một số đặc điểm sau: (i) tranh chấp thương mại trong khuôn khổ WTO là tranh chấp thương mại quốc tế liên quốc gia, liên Chính phủ; (ii) các bên tranh chấp là thành viên WTO. Các tổ chức quốc tế, các cá nhân, pháp nhân không thể là một bên của tranh chấp; (iii) khách thể của tranh chấp luôn liên quan đến việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo các hiệp định và thỏa thuận của WTO và (iv) tranh chấp phải được giải quyết theo cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO (DSM). Tranh chấp liên quan đến cơ quan Nhà nước. Khi Pháp lệnh Trọng tài ra đời, phạm vi thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài rất ẹp do bị giới hạn về chủ thể là “cá nhân, tổ chức kinh doanh”. Do đó, các tranh chấp có liên quan đến các cơ quan, tổ chức thuộc công quyền không được phép lựa chọn trọng tài để giải quyết vì cơ quan, tổ chức thuộc công quyền đó không phải là tổ chức, cá nhân kinh doanh. Ví dụ như trường hợp các ban quản lý dự án, cơ quan hanh chính- sự nghiệp tham gia đấu thầu hoặc giao kết các hợp đồng, kể cả các hợp đồng mua sắm chính phủ. Tuy nhiên, đối với những tranh chấp này, trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp được khuyến nghị bởi các nhà tài trợ, các định chế tài chính 10
- quốc tế như Ngân hàng thế giới, Ngân hàng phát triển Châu Á,v.v trong thực tiễn thương mại quốc tế. Và sau đó, Luật Đầu tư 2005 được ban hành lại quy định về việc giải quyết tranh chấp giữa các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài với cở quan quản lý nhà nước Việt Nam liên quan đến hoạt động đầu tư trên lãnh thổ Việt Nam. Theo đó, tranh chấp có thể được giải quyết bằng con đường Trọng tài (Điều 12 Luật Đầu tư). Ở đây, ta thấy có sự mâu thuẩn giữa các quy định của pháp luật. Thực tiễn cho thấy khi một tranh chấp về đầu tư phát sinh giữa nhà đầu tư với cơ quan quản lý Nhà nước Việt Nam, các bên mang tranh chấp ra giải quyết tại Trọng tài thì Hội đồng trọng tài không thụ lý vì cơ quan quản lý nhà nước không phải là tổ chức kinh doanh. Chính vì thế, trong quá trình soạn thảo Luật 2010, các nhà làm luật đã bỏ quy định về việc các bên là “cá nhân, tổ chức kinh doanh”, thay vào đó, “các bên tranh chấp là cá nhân, cơ quan, tổ chức Việt Nam hoặc nước ngoài ”. Hởn nữa, kết hợp quy định trên với quy định tại khoản 2 điều 2 Luật Trọng tài, có thể thấy rằng trong quan hệ tranh chấp mà một bên là chủ thể có hoạt động thương mại với một bên là cơ quan quản lý nhà nước Việt Nam, thì các bên có quyền đêm tranh chấp ra Trọng tài để giải quyết. Điều đáng chú ý là trong quan hệ thương mại quốc tế, Nhà nước hoàn toàn có thể tham gia với tư cách là một chủ thể đặc biệt, với đầy đủ các quyền miễn trừ, bao gồm quyền miễn trừ tai phán, quyền miễn trừ đối với các biện pháp đảm bảo cho vụ kiện, quyền miễn trừ áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án, quyền miễn trừ đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của quốc gia và quyền miễn trừ khỏi sự chi phối, điều chỉnh của pháp luật nước ngoài. Ngay cả khi Quốc gia từ bỏ các quyền miễn trừ của mình, thì việc giải quyết tranh chấp trong hoạt động thương mại tại Tòa án của quốc gia đó cũng khó có thể được coi là một phương thức an toàn đối với bên tranh chấp kia. Thay vì vậy, Trọng tài được nhận định là một bên hoàn toàn độc lập, đảm bảo cho 11
- tranh chấp được giải quyết một cách khách quan nhất. Việc lựa chọn Trọng tài làm phương thức giải quyết tranh chấp, trước hết, đã tạo sự tin tưởng trong quan hệ thương mại giữa các bên, từ đó, thúc đẩy quan hệ giao thương quốc tế phát triển mạnh mẽ. Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật được quy định giải quyết bằng Trọng tài Pháp lệnh 2003 đã ghi nhận toàn bộ quy định của Luật Mẫu về “ hoạtđộng thương mại”. Phạm vi các hoạt động thương mại theo điều 2 khoản 2 Pháp lệnh 2003 bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý thương mại; ký gửi; thuê, cho thuê; mua thuê; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; li-xăng; đầu tư; tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác; vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường hàng không, đường biển, đường sắt, đường bộ và các hành vi thương mại khác theo quy định của pháp luật. Về nguyên tắc, nội hàm “hoạt động thương mại” theo Pháp lệnh là rất rộng vì ngoài những hoạt động thương mại đã liệt kê, còn có “các hành vi thương mại khác theo quy định của pháp luật”. Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng, phạm vi đó lại vô cùng hạn hẹp, vì người ta chỉ căn cứ vào danh sách các hoạt động thương mại được liệt kê tại điều 2 khoản 2 Pháp lệnh mà không chấp nhận hành vi thương mại khác theo quy định của pháp luật. Để khắc phục điểm hạn chế này, một số văn bản pháp luật chuyên ngành được ban hành sau Pháp lệnh 2003 có ghi nhận một số hoạt động có thể giải quyết bằng Trọng tài. Chính vì thế, việc Luật 2010 quy định rằng thẩm quyền giải quyết của Trọng tài cũng bao gồm các tranh chấp khác mà pháp luật quy định giải quyết bằng Trọng tài là một sự ghi nhận từ thực tiễn, tạo ra sự thống nhất trong hệ thống pháp luật. Các tranh chấp này bao gồm có: - Yêu cầu hủy bỏ quyết định của Đại hội đồng cổ đông (Luật Doanh nghiệp Điều 107) 12
- - Tranh chấp hàng hải (Bộ luật Hàng hải- Điều 241) - Tranh chấp liên quan đến hoạt động đầu tư tại Việt Nam (Luật Đầu tư- Điều 12) - Tranh chấp phát sinh trong hợp đồng vận chuyển hàng hóa. Một sỗ tranh chấp phát sinh từ hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người vận chuyển (Luật Hàng không dân dụng- Điều 173) - Tranh chấp về công cụ chuyển nhượng. (Luật các công cụ chuyển nhượng- Điều 79) - Tranh chấp phát sinh trong hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán tại Việt Nam (Luật Chứng khoán- Điều 131) - Tranh chấp hợp đồng trong hoạt động xây dựng (Luật xây dựng- Điều 110) - Giải quyết bồi thường thiệt hại về môi trường (Luật Bảo vệ môi trường- Điều 133) - Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ (Luật Sở hữu trí tuệ- Điều 198) 1.1.4. Vai trò của trọng tài trong việc giải quyết tranh chấp thương mại Thực tiễn thương mại hàng trăm năm trên thế giới chứng tỏ rằng trọng tài là một phương thức hữu hiệu để giải quyết các tranh chấp thương mại. Thực tế này xuất phát từ những lợi thế to lớn mà trọng tài mang lại cho các nhà kinh doanh khi họ lựa chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp phát sinh giữa họ với nhau hoặc với người khác có liên quan. Xét trong quan hệ so sánh với các phương thức giải quyết tranh chấp khác thì phương thức trọng tài có những lợi thế sau: Là một phương thức mang tính tài phán, trọng tài được quyền đưa ra quyết định cuối cùng có giá trị cưỡng chế thi hành đối với các bên. Trọng tài có khả năng giúp các bên giải quyết triệt để tranh chấp đã phát sinh. Đây là 13
- một ưu điểm nổi bật của trọng tài so với phương thức thương lượng, hòa giải vốn chỉ trông chờ vào sự tự nguyện mà không có tính bất buộc cưỡng chế giữa các bên. Việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thường nhanh chóng, kịp thời. Các nhà kinh doanh không vì việc giải quyết tranh chấp mà bỏ lỡ cơ hội kinh doanh của mình. Trọng tài ra đời chính từ yêu cầu giải quyết tranh chấp nhanh chóng, kịp thời và cũng chính từ yêu cầu này mà trọng tài thích hợp nhất để giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các hoạt động kinh doanh. Hoạt động giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đảm bảo tôn trọng ở mức độ cao quyền từ định đoạt của các bên tranh chấp. Điều này thể hiện ở chỗ các bên tranh chấp được lựa chọn hình thức trọng tài là trọng tài vụ việc hoặc trọng tài quy chế (trung tâm trọng tài) và TTV để giải quyết tranh chấp. Trong khi giải quyết tranh chấp, các bên tranh chấp có thể tác động đến quá trình trọng tài, ví dụ, các bên có thể lựa chọn địa điểm tiến hành phiên hợp của trọng tài; yêu cầu sớm mở phiên họp khi đã có đầy đủ chứng cứ và khi không còn cơ hội hòa giải với nhau. Quyền được chọn TTV giúp các bên lựa chọn được TTV phù hợp với tính chất tranh chấp để giải quyết tranh chấp chính xác, nhanh chóng, đúng pháp luật và tôn trọng sự thật khách quan. Do tính “không công khai” trong hoạt động giải quyết tranh chấp bằng trọng tài mà uy tín và bí mật kinh doanh của các bên tranh chấp không bị ảnh hưởng. Là “Tòa án tư”, trọng tài không đại diện cho quyền lực tư pháp quốc gia và vì vậy, trọng tài rất thích hợp để giải quyết các tranh chấp mang tính quốc tế giữa các bên có quốc tịch khác nhau. 14
- 1.1.5. Thẩm quyền của trọng tài thương mại So với Pháp lệnh TTTM 2003, phạm vi thẩm quyền của Trọng tài được mở rộng hơn theo quy định của Luật TTTM 2010. Sự mở rộng này bao gồm việc mở rộng về chủ thể trong tranh chấp (được hiểu là các bên trong tranh chấp) và cả về phạm vi các tranh chấp có thể giải quyết bằng Trọng tài. Cụ thể, “các bên tranh chấp” theo Luật TTTM 2010 là các cá nhân, cơ quan, tổ chức Việt Nam hoặc nước ngoài tham gia tố tụng trọng tài với tư cách nguyên đơn, bị đơn và thay thế cho khái niệm đã gây nhiều tranh cãi được quy định trong Pháp lệnh TTTM 2003 là “cá nhân, tổ chức kinh doanh”. Ngoài ra, khoản 1 điều 2 Pháp lệnh quy định Trọng tài được giải quyết “các tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại”. Trong khi đó, theo điều 2 Luật TTTM 2010, thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài bao gồm ba dạng sau: (1) Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại; (2) Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó có ít nhất một bên có hoạt động thương mại; (3) Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng trọng tài. Vấn đề thẩm quyền xét xử trọng tài hiện nay vẫn còn nhiều tranh cãi do quy định của Luật Trọng tài thương mại 2010 về thẩm quyền trọng tài chưa giải quyết triệt để vấn đề này. Thứ nhất, theo luật trọng tài thương mại 2010, thẩm quyền trọng tài được xác định dựa trước hết vào các lĩnh vực mà tranh chấp phát sinh, chứ không phải dựa vào ý chí của các bên khi lựa chọn phương thức giải quyết. Trọng tài, thẩm phán dễ có ý kiến khác nhau về lĩnh vực tranh chấp. Trong nhiều trường hợp, điều này xảy ra do sự nhận thức khác nhau về hoạt động thương mại. Cụ thể là trong nhiều vụ kiện hoạt động thương mại được giải thích khác nhau bởi các trọng tài viên, và sau đó bởi các thẩm phán. Luật Trọng tài thương mại 2010 không định nghĩa về hoạt động thương mại. 15
- Trong Luật Thương mại 2005, hoạt động thương mại được hiểu là “hoạt động nhằm mục đích sinh lợi”. Khái niệm về hoạt động thương mại dựa trên tiêu chí "nhằm mục đích sinh lợi" đã gây ra những quan điểm và cách tiếp cận không phù hợp trong việc xác định thẩm quyền xét xử trọng tài theo quy định của pháp luật trọng tài thương mại trước đây. Đáng tiếc, Luật Trọng tài thương mại năm 2010 không giải quyết vấn đề này một cách triệt để, để rồi nó là một trong những lý do cho việc hủy các quyết định trọng tài trong những năm gần đây. Thẩm quyền trọng tài bắt nguồn từ sự tin tưởng và ủy thác của các bên dựa trên sự đồng thuận về ý chí, phù hợp với các nguyên tắc, các quyền tự do và quyền dân chủ trong các hoạt động kinh tế. Có thể thấy, pháp luật trọng tài thương mại hiện hành chưa xuất phát từ sự thoả thuận của các bên về lựa chọn phương thức trọng tài để giải quyết các tranh chấp. Thứ hai, thẩm quyền của Hội đồng trọng tài hoặc Trọng tài viên duy nhất với các trung tâm trọng tài đang là một vấn đề. Trung tâm trọng tài có vai trò nhất định trong hoạt động của hội đồng trọng tài, bao gồm trước hết là thành lập hội đồng trọng tài hoặc chỉ định trọng tài viên duy nhất. Mặc dù đóng vai trò như thế nào thì Trung tâm trọng tài không bao giờ có thể là một bên trong tranh tụng trọng tài, một thiết chế giám sát và phúc thẩm các vụ kiện mà hội đồng trọng tài xét xử. Luật Trọng tài thương mại 2010 chưa xử lý trọn vẹn thẩm quyền của hội đồng trọng tài và trung tâm trọng tài. Đây là lý do trong thực tiễn trọng tài của đất nước ta những năm gần đây, đã xảy ra các vụ kiện mà ở đó thẩm phán nhầm lẫn thẩm quyền của hội đồng trọng tài và thẩm quyền của trung tâm trọng tài. Tòa án khi xem xét quyết định việc hủy phán quyết trọng tài thường có xu hướng tiến hành các thủ tục tố tụng với các trung tâm, thay vì với hội đồng trọng tài. Đối với các tòa án, thẩm quyền của hội đồng trọng tài chấm dứt sau khi công bố phán quyết. Do bỏ 16