Luận văn Hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa theo quyết định của pháp luật Việt Nam

pdf 121 trang vuhoa 25/08/2022 6020
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa theo quyết định của pháp luật Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_hop_dong_uy_thac_mua_ban_hang_hoa_theo_quyet_dinh_c.pdf

Nội dung text: Luận văn Hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa theo quyết định của pháp luật Việt Nam

  1. N g u y Trường đại học Quố gia Hà nội ễ n Khoa luật T h ị & Thu H hi ề n Nguyễn Thị Thu Hiền L U HỢP ĐỒNG ỦY THÁC MUA BÁN HÀNG Ậ TKINH T HÓA THEO QUYẾT ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM Ế Luận văn thạc sĩ Luật học Hà N Hà ộ i - 201 1 Hà Nội - 2011
  2. Trường đại học Quốc Gia Hà Nội Khoa luật & Nguyễn Thị Thu Hiền HỢP ĐỒNG ỦY THÁC MUA BÁN HÀNG HÓA THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật Kinh tế Mã số : 60 38 50 Luận văn thạc sĩ Luật học Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Bá Diến Hà Nội - 2011
  3. MỤC LỤC Lời cam đoan Trang Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1. LÝ LUẬN CHUNG VÊ HỢP ĐỒNG UỶ THÁC MUA BÁN HÀNG HOÁ 8 1.1 Khái niệm HĐMBHH 8 1.2 Khái niệm HĐUTMBHH 10 1.3 Đặc điểm của HĐUTMBHH 15 1.4 Phân biệt HĐUTMBHH và một số hoạt động TGTM khác 18 1.5 Một số nguyên tắc cơ bản của HĐUTMBHH 25 1.6 Giao kết và thực hiện HĐUTMBHH 27 1.7 Vai trò và ‎‎ý nghĩa của HĐUTMBHH 36 1.8 Nguồn luật điều chỉnh 38 Kết luận chương 1 39 Chƣơng 2. CÁC ĐIỀU KIỆN HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐÔNG UỶ THÁC MUA BÁN HÀNG HOÁ THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM TRONG TƢƠNG QUAN SO SÁNH VỚI PHÁP LUẬT MỘT SỐ NƢỚC 41 2.1 Khái niệm điều kiện hiệu lực của hợp đồng 41 2.2 Điều kiện hiệu lực của HĐUTMBHH 41 2.2.1 Điều kiện hiệu lực của HĐUTMBHH theo quy định của pháp luật Việt Nam 42 2.2.1.1 HĐUTMBHH thông thường 42 2.2.1.2 HĐUTMBHH có yếu tố nước ngoài 50 2.2.2 Điều kiện hiệu lực của hợp đồng theo quy định pháp luật của một số nước 59 2.2.2.1 Các nước theo hệ thống thông luật (Common Law) 59
  4. 2.2.2.2 Các nước theo hệ thống dân luật(Civil Law) 74 Kết luận chương 2 85 Chƣơng 3. THỰC TRẠNG THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG UỶ THÁC MUA BÁN HÀNG HOÁ VÀ GIẢI PHÁP ĐỀ XUÂT 87 3.1 Thực trạng thực thi HĐUTMBHH giữa các thương nhân trong nước 89 3.2 Thực trạng thực thi HĐUTMBHH có yếu tố nước ngoài 94 3.3 Tranh chấp và giải quyết tranh chấp về HĐUTMBHH 99 3.4 Giải pháp đề xuất 103 Kết luận chương 3 109 KẾT LUẬN 111 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 115
  5. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hoạt động UTMBHH là chế định quan trọng của LTM. Các quy định pháp luật về hoạt động UTMBHH đã khẳng định vai trò và ý nghĩa to lớn của nó trong sử dụng TGTM như một kênh không thể thiếu trong giao thương. Trên thế giới, TGTM được sử dụng từ lâu và được xem là thiết yếu, đặc biệt trong lĩnh vực MBHH. Khoảng thế kỷ XIII, nhu cầu của việc mở rộng quy mô và cường độ buôn bán hàng hoá của thương nhân từ nước này sang nước khác qua đường biển, thương nhân thay vì theo hàng hoá giao tại cảng đến, họ uỷ thác cho các thương nhân khác thực hiện công việc đó thay mình và trả thù lao. Đó là khởi nguồn của việc sử dụng uỷ thác trong thương mại. Ở Việt Nam, trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung, uỷ thác khẳng định vai trò và ý nghĩa của nó chủ yếu trong hoạt động xuất nhập khẩu. Đến nay, uỷ thác được tìm thấy trong mọi lĩnh vực của kinh doanh và là giải pháp lý tưởng cho các thương nhân không muốn mất toàn bộ chi phí vào việc mua bán hàng hoá hay đầu tư mà không đem lại hiệu quả. Khi một người hay tổ chức (pháp nhân) không có đủ điều kiện cần thiết để thực hiện các hoạt động thương mại, họ cần đến một thương nhân có năng lực thực tế để thực hiện các hoạt động đó một cách chuyên nghiệp và hiệu quả nhất, đặc biệt đối với MBHHQT, lĩnh vực đòi hỏi người mua phải nắm vững thị trường, am hiểu pháp luật, phong tục tập quán nước sở tại và rõ ràng, nếu thiếu một trong các kỹ năng này người mua sẽ gặp khó khăn, thậm chí thất bại ở một thị trường xa lạ. Uỷ thác qua trung gian là giải pháp cho những đòi hỏi này. Các quy định pháp luật về hoạt động UTMBHH là hành lang pháp lý quan trọng, Tuy nhiên, chế định này chưa được quy định hoàn thiện và tương xứng với vị trí, vai trò của nó và đòi hỏi của thực tiễn kinh doanh, khi được thực hiện nó bộc lộ nhiều hạn chế: 1
  6. Mâu thuẫn giữa nguyên tắc chung và quy định cụ thể Nguyên tắc thiện chí được coi là một trong những nguyên tắc nền tảng khi xác lập và thực hiện các quyền, nghĩa vụ dân sự và là điều kiện căn bản để các bên giao kết và thực hiện hợp đồng. Song nguyên tắc chung lại không thống nhất với các quy định cụ thể của LTM. Thiện chí là yêu cầu đòi hỏi tinh thần hợp tác giữa các bên khi tạo lập và thực hiện các quyền, nghĩa vụ hợp đồng. Như vậy, về nguyên tắc nếu việc thực hiện quyền pháp lý của một bên chủ thể có khả năng gây thiệt hại cho chủ thể phía bên kia hoặc ảnh hưởng đến quan hệ hợp đồng thì hành vi đó phải được loại trừ. Tuy nhiên, LTM quy định bên nhận uỷ thác có thể nhận uỷ thác mua bán hàng hoá của nhiều bên uỷ thác khác nhau. Trong thực tế, nếu bên nhận uỷ thác nhận uỷ thác bán hàng cho nhiều bên uỷ thác mà hàng hoá nhận uỷ thác cùng chủng loại, cùng tính năng sử dụng, dẫn đến khả năng không thể thực hiện đúng cam kết, vi phạm nghĩa vụ hợp đồng đã ký kết hoặc gây áp lực tăng phí uỷ thác. Như vậy, trong một chừng mực, đã vi phạm yêu cầu của nguyên tắc thiện chí. Vấn đề xử lý hàng hoá uỷ thác không được tiếp nhận Trong thực tế, hàng hoá được uỷ thác mua đã sẵn sàng giao nhận theo yêu cầu của bên uỷ thác nhưng người chủ uỷ, vì nhiều lý do khác nhau, không tiếp nhận hàng hoá được uỷ thác mặc dù người nhận uỷ thác, trong quá trình thực hiện hợp đồng, đã thực hiện theo các chỉ dẫn và đã nhận thù lao. Điều này có thể dẫn đến nhiều rắc rối cho người nhận uỷ thác trong việc giải phóng hàng và thanh lý hợp đồng (thời hạn cập cảng, phí thuê tàu, địa điểm và phí lưu kho ). Đây cũng là những đòi hỏi bức thiết cần có quy định cụ thể của pháp luật xử lý trường hợp hàng hóa uỷ thác mua không được tiếp nhận. Vấn đề phạm vi uỷ thác LTM Việt Nam giới hạn hoạt động uỷ thác trong lĩnh vực MBHH trong khi các nước quy định hoạt động đại diện trong tất cả các lĩnh vực 2
  7. thương mại. Trong thực tiễn, hoạt động uỷ thác đầu tư, uỷ thác cho vay tín dụng là hoạt động thương mại quan trọng và phổ biến song lại chưa được quy định cụ thể trong LTM và các văn bản pháp luật liên quan. Với phạm vi uỷ thác được quy định như hiện nay trong LTM sẽ là bất cập lớn khi các chủ thể, trong hoạt động thương mại muốn sử dụng uỷ thác như một hành vi kinh doanh (uỷ thác đầu tư xây dựng, uỷ thác cho vay tín dụng, uỷ thác cho thuê tài sản ) nhưng không có hình thức pháp lý phù hợp. Rõ ràng, không thể mượn hình thức UTMBHH áp dụng cho cho vay tín dụng hay uỷ thác đầu tư. Yêu cầu cần phải có quy định hoặc chỉ dẫn áp dụng pháp luật đối với những trường hợp tương tự trong LTM là vô cùng cần thiết. Hướng tới hoàn thiện chế định HĐUT trong LTM, đây cũng là điểm cần sửa đổi, bổ sung. Về khái niệm HĐUTMBHH Hoạt động UTMBHH thể hiện đầy đủ các yếu tố của một giao dịch thương mại và là giao dịch thương mại chủ yếu, quan trọng, cơ sở pháp lý cho HĐUTMBHH được thực hiện nhưng không được quy định là giao dịch hay hợp đồng UTMBHH trong LTM. Hơn nữa, LTM sử dụng thuật ngữ uỷ thác trong khi BLDS dùng thuật ngữ uỷ quyền mà không có sự phân định rõ ràng. Tại sao LTM không sử dụng thuật ngữ uỷ quyền MBHH? Tuy bản chất của uỷ quyền trong dân sự khác uỷ thác trong thương mại ở tư cách pháp lý của người thụ uỷ khi thực hiện nghĩa vụ uỷ nhiệm, nhân danh người chủ uỷ (trong uỷ quyền) và nhân danh chính người thụ uỷ (trong uỷ thác). Tuy vậy, ranh giới phân định giữa uỷ thác trong thương mại và uỷ quyền trong dân sự vẫn mờ nhạt và không thể chỉ dựa trên căn cứ đó. Như vậy, trong trường hợp vẫn giữ nguyên thuật ngữ này, LTM cần có sự phân định cụ thể giữa uỷ thác trong LTM và uỷ quyền trong BLDS. Đây không chỉ là vấn đề mang tính học thuật về một khái niệm trong khoa học pháp lý, đó còn là yêu cầu khách quan và sự phù hợp với tinh thần của BLDS. Do đó, chế định HĐUTMBHH cần 3
  8. được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện tương xứng với vị trí, vai trò của nó và đòi hỏi của thực tiễn kinh doanh. Trong bối cảnh đó, nghiên cứu và đề xuất những giải pháp mang tính tổng thể cho việc bổ sung, hoàn thiện chế định pháp luật về HĐUTMBHH là một việc làm có ‎ý nghĩa. Tác giả lựa chọn đề tài “HĐUTMBHH theo quy định của pháp luật Việt Nam” cho luận văn với mong muốn giải quyết những yêu cầu đó. 2.Tình hình nghiên cứu HĐUTMBHH là một lĩnh vực nghiên cứu mới. Trong nước, đã có một số tác giả viết về đại diện thương mại, uỷ quyền thương mại như, TS Ngô Huy Cương, Chế định đại diện thương mại theo quy định của pháp luật Việt Nam, nhìn từ góc độ luật so sánh; PGS. TS Phạm Duy Nghĩa, Chuyên khảo Luật Kinh tế; Cao Văn Tuân, Đại diện trong giao kết hợp đồng. Ở nước ngoài, hiện cũng chưa có công trình khoa học chuyên sâu nào nghiên cứu HĐUTMBHH ở bình diện l‎ý luận cơ bản cũng như các điều kiện hiệu lực và thực trạng thực thi pháp luật về HĐUTMBHH ở Việt Nam. Đi vào lĩnh vực nghiên cứu mới trên cả phương diện lý luận và thực tiễn là một điểm khó, cần thời gian và nỗ lực không nhỏ trong khảo sát, nghiên cứu các quy định pháp luật và năng lực tư duy trong phân tích, đánh giá tình hình thực tiễn. Trong khuôn khổ thời gian và phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả đã tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản nhất của HĐUTMBHH, trên cơ sở đó, từ bình diện so sánh điều kiện hiệu lực của HĐUTMBHH theo quy định của pháp luật Việt Nam với pháp luật của một số nước về điều kiện hiệu lực của hợp đồng và thực trạng thực thi pháp luật về HĐUTMBHH ở Việt Nam đưa ra những kiến nghị, đề xuất góp phần hoàn thiện chế định. 4
  9. 3. Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu của đề tài 3.1 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài Đề tài tập trung nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về HĐUTMBHH cũng như vai trò và ý nghĩa của UTMBHH đối với hoạt động kinh doanh và sự vận động, phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Mặt khác, nghiên cứu và phân tích điều kiện hiệu lực của HĐUTMBHH theo quy định của pháp luật Việt Nam trong tương quan so sánh với pháp luật của một số nước và thực trạng thực thi pháp luật về HĐUTMBHH ở Việt Nam, nhằm phát hiện và đề xuất một số giải pháp bước đầu góp phần hoàn thiện chế định pháp luật về HĐUTMBHH. 3.2 Phạm vi nghiên cứu của đề tài Đề tài giới hạn ở việc nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản của HĐUTMBHH, điều kiện hiệu lực của HĐUTMBHH theo quy định của pháp luật Việt Nam trong tương quan so sánh với pháp luật của một số nước điển hình cho hai hệ thống pháp luật lớn trên thế giới, Common Law và Civil Law và thực trạng thực thi pháp luật về HĐUTMBHH ở Việt Nam. Tuy nhiên, luận văn có chiều sâu, trong một chừng mực nhất định, những chuẩn mực và kinh nghiệm pháp lý của một số nước phát triển cũng được đề cập đến. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài được cụ thể hoá trong việc giải quyết những nhiệm vụ sau: 1) Nghiên cứu l‎ý luận chung về HĐUTMBHH. 2) Nghiên cứu các điều kiện hiệu lực của HĐUTMBHH theo quy định của pháp luật Việt Nam trong tương quan so sánh với pháp luật của một số nước. 3) Nghiên cứu thực trạng thực thi pháp luật về HĐUTMBHH ở Việt Nam. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài Phép biện chứng duy vật của Triết học Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh được sử dụng với tư cách là phương pháp luận cho việc nghiên cứu. 5
  10. Ngoài ra, các phương pháp nghiên cứu cụ thể phù hợp với từng vấn đề, từng lĩnh vực của đề tài cũng được vận dụng như: phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp phân tích quy phạm, phương pháp luận giải và diễn dịch, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh. 6. Đóng góp của luận văn Về mặt lý luận - Có thể nói đây là công trình khoa học nghiên cứu một cách có hệ thống và tương đối toàn diện về HĐUTMBHH dưới giác độ luật học. Luận văn xây dựng một số khái niệm trên cơ sở phân tích các quy định của BLDS và LTM như, HĐUTMBHH, HĐUTMBHH có yếu tố nước ngoài. Đây không chỉ là những vấn đề có tính chất phương pháp luận cho việc nghiên cứu, hoạch định, xây dựng chế định pháp luật về HĐUTMBHH mà còn là tư liệu cho việc xác định và xây dựng các khái niệm khác. - Luận văn so sánh và luận giải một cách có hệ thống và có chiều sâu HĐUTMBHH với HĐUQ, HĐDV và các hoạt động TGTM khác nhằm làm rõ đặc điểm pháp lý của UTMBHH trong mối liên hệ với việc xác định bản chất của uỷ thác, vấn đề mà từ trước đến nay còn nhiều ý kiến khác nhau trong quá trình giải thích và áp dụng pháp luật. - Lần đầu tiên, luận văn với tính chất là công trình khoa học nghiên cứu chuyên sâu về điều kiện hiệu lực của HĐUTMBHH theo quy định của pháp luật Việt Nam trong tương quan so sánh với pháp luật của một số nước điển hình cho hai hệ thống pháp luật lớn trên thế giới, Common Law và Civil Law, phát hiện những điểm tương đồng và khác biệt, những chuẩn mực và kinh nghiệm pháp lý làm cơ sở cho việc đề xuất một số kiến nghị bước đầu góp phần hoàn thiện chế định pháp luật về HĐUTMBHH ở Việt Nam. - Trên cơ sở nghiên cứu, khảo sát thực trạng thực thi pháp luật về HĐUTMBHH ở Việt Nam, luận văn đã chỉ rõ nguyên nhân của những tồn tại 6
  11. cũng như tranh chấp trong giao kết và thực hiện HĐUTMBHH và xu hướng lựa chọn cơ chế giải quyết tranh chấp HĐUTMBHH ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó đề ra phương hướng và giải pháp nhằm sửa đổi, bổ sung hoàn thiện chế định. Về mặt thực tiễn - Nội dung và các kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tư liệu tham khảo cho các nhà hoạch định chính sách trong việc sửa đổi, bổ sung góp phần hoàn thiện chế định pháp luật về HĐUTMBHH ở Việt Nam. - Ngoài ra, luận văn có thể được sử dụng làm tư liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu, giảng dạy và học tập cho cán bộ, giáo viên và sinh viên chuyên ngành luật. 7. Bố cục của luận văn Ngoài mở đầu, kết luận và tư liệu tham khảo, luận văn chia làm ba chương: Chương 1. Lý luận chung về HĐUTMBHH. Chương 2. Điều kiện hiệu lực của của HĐUTMBHH theo quy định của pháp luật Việt Nam trong tương quan so sánh với pháp luật của một số nước. Chương 3. Thực trạng thực thi pháp luật về HĐUTMBHH ở Việt Nam và giải pháp đề xuất. 7
  12. Chƣơng 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG UỶ THÁC MUA BÁN HÀNG HOÁ Hoạt động UTMBHH là chế định quan trọng trong pháp luật thương mại. Để hiểu rõ chế định này, trước tiên luận văn sẽ tìm hiểu khái niệm HĐMBHH. Từ đó, luận văn sẽ đề cập tới khái niệm, định nghĩa và các đặc điểm của HĐUTMBHH. Các mục tiếp theo của luận văn sẽ trình bày về các nguyên tắc cơ bản, giao kết và thực hiện, vai trò, ý nghĩa và nguồn luật điều chỉnh HĐUTMBHH. 1.1 KHÁI NIỆM HĐMBHH Mua bán hàng hoá có lịch sử phát triển lâu đời, tiền thân của nó gắn liền với sự xuất hiện của xã hội loài người thời cổ đại, trao đổi đồ vật. Đó là hình thức giao dịch cổ xưa của buổi bình minh sơ khai, con người lấy đó làm cơ sở cho sự sinh tồn. Khi đồng tiền xuất hiện thì vật đổi tiền trở thành hình thức trung gian cơ bản, sau này Adam Smith xây dựng trong công thức gắn với tên tuổi của ông H-T-H, đánh dấu sự phát triển của lịch sử xã hội loài người trong sử dụng vật trung gian để trao đổi tài sản. Khi giao thương phát triển, trao đổi hàng hoá không chỉ diễn ra trong phạm vi vùng, lãnh thổ, nó vượt ra ngoài biên giới quốc gia và trở thành động lực chính cho sự ra đời của mua bán hàng hóa quốc tế. Pháp luật Việt Nam hiện hành có hai đạo luật cơ bản điều chỉnh quan hệ mua bán hàng hoá, BLDS 2005 và LTM 2005. Quan hệ mua bán hàng hoá được xác lập và thực hiện thông qua hình thức pháp lý là hợp đồng mua bán hàng hoá, một dạng riêng của hợp đồng mua bán tài sản trong giao lưu dân sự. Hợp đồng mua bán hàng hoá có bản chất chung của hợp đồng, là sự thoả thuận nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong 8
  13. quan hệ mua bán hàng hoá. LTM không đưa ra định nghĩa về HĐMBHH song có thể xác định bản chất pháp lý của HĐMBHH trên cơ sở quy định của BLDS về hợp đồng mua bán tài sản [§ 428]. HĐMBHH là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hoá cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hoá theo thoả thuận. Quan niệm về HĐMBHH của Pháp và Nhật Bản có nhiều nét tương đồng với Việt Nam. Điều này xuất phát từ truyền thống pháp luật của ba nước theo hệ thống Civil Law mà điểm mấu chốt là, với lợi thế xây dựng pháp luật sau, Việt Nam đã tham khảo pháp luật của nhiều nước, trong đó có Pháp và Nhật Bản. Do vậy, pháp luật về hợp đồng của ba nước cơ bản là giống nhau. Quan niệm pháp luật của Anh và một số nước chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Common Law như, Mỹ, Australia, Canada, New Zealand, Ấn Độ và Nam Phi thì HĐMBHH được hiểu là thoả thuận được tạo ra và xác định bởi các nghĩa vụ (obligations) giữa hai hoặc nhiều bên về việc mua hoặc bán các sản phẩm (products), dịch vụ (services) có thanh toán hoặc bù đắp (compensation) [37]. Các nước theo hệ thống thông luật xác định HĐMBHH hình thành khi có thoả thuận được xác lập giữa các bên về việc mua bán các sản phẩm, dịch vụ có thanh toán hoặc bù đắp. Như vậy, nội hàm của khái niệm được hiểu rộng hơn với hai tiêu chí, các nghĩa vụ được xác lập trên cơ sở thoả thuận mua bán hàng hoá hay dịch vụ và có thanh toán hay bù đắp. Trong khi đó, pháp luật Việt Nam xác định nội hàm của khái niệm cụ thể và hẹp hơn, ngoài nghĩa vụ giao nhận hàng hoá và thanh toán còn quy định tiêu chí chuyển quyền sở hữu hàng hoá, thêm đó dịch vụ không được coi là hàng hoá [§ 3.2 LTM]. 9
  14. Tiểu kết Nền kinh tế càng phát triển, xã hội càng văn minh thì chế định hợp đồng càng được coi trọng và hoàn thiện. Khái niệm hợp đồng ở các hệ thống pháp luật khác nhau quan niệm khác nhau. Tuy nhiên, hầu hết pháp luật các nước đều thừa nhận bản chất của hợp đồng là sự thoả thuận có nguồn gốc căn bản là sự thống nhất ý chí, nền tảng pháp lý cho các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng thực hiện các quyền, nghĩa vụ. 1.2 KHÁI NIỆM HĐUTMBHH Trên thế giới, các hoạt động trung gian thương mại đã xuất hiện từ lâu, do nhu cầu của việc mở rộng quy mô và cường độ buôn bán hàng hoá của thương nhân. Có thể nói, khởi nguồn của việc sử dụng hoạt động trung gian này bắt nguồn từ thời kỳ mà việc vận chuyển hàng hoá từ nước này sang nước khác bắt đầu được thực hiện bằng đường biển (khoảng thế kỷ XIII). Các thương nhân, thay vì theo hàng hoá giao tại cảng đến, họ uỷ thác cho thương nhân khác thực hiện công việc đó thay mình và trả thù lao. Đó là khởi nguồn của việc sử dụng uỷ thác trong thương mại. Cùng với sự phát triển của thương mại toàn cầu, đặc biệt từ nửa sau thế kỷ XIX, khi các quan hệ quốc tế gia tăng đáng kể thì uỷ thác trong thương mại, đặc biệt uỷ thác mua bán hàng hoá hay xuất nhập khẩu và một số hoạt động trung gian khác càng trở nên có ý nghĩa. Đến nay, ở hầu hết các nước đều tồn tại các hoạt động thương mại qua trung gian, trong đó có uỷ thác (đại diện) mua bán hàng hoá. Ở Việt Nam, uỷ thác là hoạt động thương mại qua trung gian được lưu ý sớm nhất. Trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung, uỷ thác thương mại chủ yếu tồn tại trong khu vực kinh tế có yếu tố nước ngoài. Các khu vực kinh tế khác, hoạt động này chưa có điều kiện để hình thành. Thời kỳ này, một số văn bản pháp luật của Bộ ngoại thương (sau này là Bộ Thương Mại) dưới hình 10
  15. thức Thông tư, được ban hành để điều chỉnh các hoạt động uỷ thác xuất nhập khẩu và đặt đại lý mua bán hàng hoá ở nước ngoài [2, 3]. Khi đất nước tiếp nhận nền kinh tế thị trường, trước những đòi hỏi bức thiết của việc sử dụng các hoạt động thương mại qua trung gian, LTM 1997 ra đời, có những quy định cơ bản về hoạt động UTMBHH và một số hoạt động trung gian thương mại khác như, đại lý mua bán hàng hoá, môi giới thương mại, đại diện cho thương nhân. Sau hơn bảy năm thi hành, LTM năm 1997 bộc lộ nhiều bất cập cần phải sửa đổi, bổ sung, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển thương mại trong nước và quốc tế. LTM 2005 được ban hành đã có những sửa đổi, bổ sung, quy định mới, đặc biệt đối với các hoạt động trung gian thương mại, trong đó có UTMBHH. Theo quy định của LTM, UTMBHH là hoạt động thương mại, theo đó bên nhận uỷ thác thực hiện công việc mua bán hàng hoá với danh nghĩa của mình theo những điều kiện đã thoả thuận với bên uỷ thác và được nhận thù lao uỷ thác [§ 155]. Bản chất của UTMBHH là một quan hệ hợp đồng, trở lại với nguồn gốc ban đầu của hợp đồng, đó là sự xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền, nghĩa vụ pháp lý. Cụ thể trong quan hệ này là các quyền, nghĩa vụ liên quan đến công việc mua bán hàng hóa, được tiến hành trên cơ sở thoả thuận uỷ thác giữa hai bên, bên uỷ thác và bên nhận uỷ thác. LTM không đưa ra định nghĩa về HĐUTMBHH, song với biểu hiện đầy đủ các yếu tố của một hợp đồng dịch vụ [§ 518 BLDS], HĐUTMBHH được hiểu là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên nhận uỷ thác thực hiện công việc mua bán hàng hoá với danh nghĩa của mình theo những điều kiện đã thoả thuận với bên uỷ thác và được nhận thù lao uỷ thác. HĐUTMBHH được xác lập trên cơ sở có đề nghị giao kết và có chấp nhận đề nghị giao kết hay thoả thuận được tạo ra và xác định bởi nghĩa vụ về công việc mua, bán hàng hoá có điều kiện giữa bên uỷ thác và bên nhận uỷ thác. 11
  16. Như vậy, HĐUTMBHH mang bản chất của hợp đồng dịch vụ nhưng chứa đựng trong đó các dấu hiệu của hợp đồng uỷ quyền. HĐUTMBHH mang bản chất của hợp đồng dịch vụ hay HĐUTMBHH là HĐDV dân sự trong thương mại. Về phương diện chủ thể, bên nhận uỷ thác, thực thể cung ứng dịch vụ thương mại chuyên nghiệp được thuê thực hiện công việc mua bán hàng hoá, nhân danh chính mình cho bên thuê và được trả thù lao theo thoả thuận. Về đối tượng, công việc MBHH là đối tượng đặc thù của dịch vụ dân sự trong thương mại. Về nội dung, HĐUTMBHH chứa đựng các điều khoản của HĐDV, thoả thuận về công việc phải làm, thời hạn, thù lao Yếu tố uỷ quyền được thể hiện ở nghĩa vụ thực hiện công việc của người thụ uỷ trong phạm vi được uỷ quyền và được nhận thù lao theo thoả thuận. Tuy nhiên, uỷ thác không đồng nhất với uỷ quyền. Về bản chất của hành vi, uỷ quyền trong dân sự là hành vi giao cho người khác sử dụng một số quyền mà pháp luật đã trao cho mình; uỷ thác trong MBHH là hành vi giao cho người khác làm thay công việc MBHH cho mình. Do đó, về tư cách chủ thể khi thực hiện hành vi, bên được uỷ quyền thực hiện công việc được uỷ quyền nhân danh bên uỷ quyền; bên nhận uỷ thác thực hiện công việc được uỷ thác nhân danh chính mình. Về phạm vi, bên được uỷ quyền có thể được uỷ quyền thực hiện một hoặc nhiều hành vi thương mại trong khi UTMBHH mang tính vụ việc, thu hẹp trong lĩnh vực MBHH. Về năng lực pháp lý, bên được uỷ quyền có thể là cá nhân, thương nhân hay tổ chức, tuỳ thuộc vào hành vi được uỷ quyền; bên nhận uỷ thác phải là thương nhân, đặc biệt phải có giấy phép kinh doanh phù hợp với hàng hoá được uỷ thác mua bán. Như vậy, uỷ thác có dấu hiệu của uỷ quyền dân sự nhưng không phải uỷ quyền dân sự trong thương mại. Đối với HĐMBHH (thông thường), HĐUTMBHH cũng có những điểm tương đồng và khác biệt. Về bản chất, quan hệ HĐUTMBHH là quan hệ ba 12
  17. bên, sử dụng dịch vụ TGTM; quan hệ HĐMBHH là quan hệ mua bán trực tiếp. Về phương diện chủ thể, bất kỳ cá nhân, thương nhân hay tổ chức cũng có thể trở thành chủ thể của HĐMBHH trong khi HĐUTMBHH có yêu cầu đặc thù đối với năng lực chủ thể của bên nhận uỷ thác. Về hình thức, HĐMBHH có thể được thể hiện dưới bất kỳ hình thức nào trong khi HĐUTMBHH bắt buộc về hình thức. Tuy nhiên, chúng có điểm tương đồng đáng lưu ý, cùng hướng đến MBHH. Điều này dẫn đến trong hợp đồng có nhiều điều khoản quy định tương tự nhau, chẳng hạn: chủng loại hàng hoá, số lượng, chất lượng, quy cách, giá, địa điểm, phương thức, thời hạn giao hàng. Như vậy, HĐUTMBHH, HĐUQ và HĐDV cùng có chung đặc điểm là sử dụng trung gian trong thực hiện các quyền, nghĩa vụ pháp lý. Điểm khác biệt thể hiện trên phương diện bản chất hợp đồng, các yếu tố chủ thể, đối tượng và hình thức. HĐMBHH không được xếp vào nhóm các hợp đồng trên, bởi đây là quan hệ mua bán trực tiếp giữa các bên giao kết hợp đồng, không sử dụng yếu tố trung gian. Tuy nhiên, giữa HĐMBHH và HĐUTMBHH có chung nhiều điều khoản, việc phân biệt các loại hợp đồng này trong mối liên hệ với HĐUQ và HĐDV có ý nghĩa quan trọng trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. Tại sao phải uỷ thác MBHH? UTMBHH có phải uỷ quyền dân sự trong thương mại? HĐUTMBHH có phải một loại HĐDV? Bất kỳ chủ thể nào cũng có thể tự mình thực hiện hành vi MBHH thông thường. Tuy nhiên, ở những điều kiện nhất định, do hạn chế về khả năng tự nhiên hoặc khả năng pháp lý, các chủ thể không thể thực hiện được hành vi đó, họ phải thông qua thực thể có khả năng thực hiện hành vi này. Do vậy đòi hỏi tất yếu phải có uỷ thác. UTMBHH mang bản chất của uỷ quyền nhưng không đồng nhất với uỷ quyền bởi bên nhận uỷ thác không nhân danh người chủ uỷ và vì thế không phải uỷ quyền dân sự trong thương mại. HĐUTMBHH là một dạng đặc thù của HĐDV bởi nó đáp ứng tất cả các yêu cầu của một HĐDV, bên thuê dịch vụ 13
  18. thuê bên trung gian cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp nhân danh chính mình thực hiện công việc có thù lao. Các nước theo hệ thống thông luật không có quy định riêng biệt về hoạt động UTMBHH, các quy định liên quan đến việc sử dụng dịch vụ trung gian thương mại áp dụng Luật về hợp đồng (Law of Contract) và Luật về đại diện thương mại (Law of Commercial Agents). Theo đó hoạt động đại diện thương mại được hiểu là, người đại diện (thụ uỷ) tiến hành các hoạt động thương mại (trong phạm vi uỷ quyền) nhân danh người giao đại diện (chủ uỷ) hay nhân danh chính mình, vì lợi ích của người giao đại diện, thông qua thoả thuận (agreement), được tạo ra và xác định bởi các nghĩa vụ (obligations) giữa các bên [25, § 2.-1]. Như vậy, pháp luật các nước theo hệ thống thông luật không có sự tách bạch giữa uỷ thác và đại diện thương mại. Tất cả các hoạt động uỷ quyền thương mại thông qua bên trung gian được xác định là hoạt động đại diện. Vấn đề cơ bản là nhân danh bên giao đại diện hay nhân danh chính bên đại diện khi tiến hành hoạt động đại diện? Điều này có căn nguyên là, các nước theo hệ thống Common Law coi các hoạt động thương mại qua trung gian mang bản chất của đại diện, thay mặt và vì lợi ích của bên giao đại diện; hơn nữa, bên đại diện thương mại không bắt buộc phải là thương nhân; trong khi đó theo quy định của pháp luật Việt Nam, bên TGTM, bất kể trong hoạt động đại diện cho thương nhân, môi giới, đại lý hay uỷ thác mua bán hàng hoá, đều phải là thương nhân; đặc biệt đối với hoạt động uỷ thác mua bán hàng hoá, bên nhận uỷ thác còn phải đáp ứng yêu cầu đặc thù, kinh doanh mặt hàng phù hợp với hàng hoá được uỷ thác [§156 LTM]. Tiểu kết Hợp đồng là chế định pháp luật có bề dày lịch sử và được coi là chế định quan trọng trong hệ thống pháp luật quốc gia. Tuy nhiên sự khác biệt về 14
  19. truyền thống lịch sử, văn hoá, các yếu tố địa lý, đặc biệt trình độ phát triển kinh tế quy định sự khác biệt giữa các nước về các yếu tố của hợp đồng. Uỷ thác, uỷ nhiệm (hay đại diện) MBHH được quy định khác nhau ở mỗi nước song đều được thừa nhận, về bản chất, chúng đều là hành vi thương mại được thực hiện qua trung gian. Theo đó, người thụ uỷ thực hiện công việc MBHH trong phạm vi uỷ quyền và vì lợi ích của bên chủ uỷ để nhận thù lao theo thoả thuận. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, HĐUTMBHH mang bản chất của HĐDV nhưng có những dấu hiệu của HĐUQ. Đặt chúng trong mối liên hệ cho thấy, HĐUTMBHH là một dạng cụ thể của HĐDV bởi nó đáp ứng tất cả các yếu tố của một HĐDV trong thương mại, bên dịch vụ (trung gian cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp) được thuê nhân danh chính mình thực hiện công việc MBHH có thù lao. HĐUTMBHH mang bản chất của HĐUQ nhưng không đồng nhất với HĐUQ bởi bên nhận uỷ thác không nhân danh người chủ uỷ và vì thế không phải uỷ quyền dân sự trong thương mại. Để có cái nhìn toàn diện, luận văn sẽ đi vào nghiên cứu cụ thể các đặc điểm của HĐUTMBHH. 1.3 ĐẶC ĐIỂM CỦA HĐUTMBHH 1.3.1 Chủ thể HĐUTMBHH được xác lập giữa bên uỷ thác và bên nhận uỷ thác. Bên uỷ thác là bên giao cho bên nhận uỷ thác thực hiện việc mua bán hàng hoá theo yêu cầu của mình. Theo quy định của LTM, bên uỷ thác là thương nhân hoặc không phải là thương nhân. Thương nhân, bao gồm: tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh [§ 6 LTM]. Bên uỷ thác không nhất thiết phải có tư cách thương nhân, đó có thể là cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có nhu cầu UTMBHH đều có thể trở thành người chủ uỷ. Trong thực tiễn, một cá nhân có thể uỷ thác cho một thương 15
  20. nhân bán sản phẩm, tác phẩm của mình. VD. Thợ thủ công, nghệ nhân uỷ thác cho thương nhân có cửa hàng, cửa hiệu bán sản phẩm; người có đồ cũ, đồ cổ nhờ bán ký gửi [10]. Bên nhận uỷ thác, là bên thực hiện công việc được uỷ thác có thù lao. LTM quy định cụ thể, bên nhận uỷ thác là thương nhân kinh doanh mặt hàng phù hợp với hàng hoá được uỷ thác và thực hiện việc MBHH theo những điều kiện đã thoả thuận với bên uỷ thác. Thương nhân nhận uỷ thác có thể nhận UTMBHH cho nhiều bên uỷ thác khác nhau [§ 161]. Như vậy, để trở thành thương nhân nhận uỷ thác hợp pháp, một thực thể phải đáp ứng hai điều kiện: điều kiện thứ nhất, phải là thương nhân; điều kiện thứ hai, kinh doanh mặt hàng phù hợp với hàng hoá được uỷ thác. 1.3.2 Đối tƣợng của HĐUTMBHH Theo § 518 BLDS, HĐUTMBHH là một loại hợp đồng dịch vụ, do vậy đối tượng của HĐUTMBHH là công việc MBHH do bên nhận uỷ thác tiến hành theo sự uỷ quyền của bên uỷ thác. Loại hàng hoá cụ thể được mua, bán theo yêu cầu của bên uỷ thác là đối tượng của HĐMBHH giữa bên nhận uỷ thác và bên thứ ba. 1.3.3 Nội dung của HĐUTMBHH Nội dung của HĐUTMBHH là các điều khoản thoả thuận giữa bên uỷ thác và bên nhận uỷ thác, thể hiện quyền, nghĩa vụ pháp lý của các bên trong quan hệ uỷ thác, theo đó bên nhận uỷ thác có nghĩa vụ thực hiện công việc uỷ thác MBHH theo uỷ quyền của bên uỷ thác và được hưởng thù lao; bên uỷ thác có nghĩa vụ trả tiền thù lao cho bên nhận uỷ thác. Các quyền, nghĩa vụ cụ thể của mỗi bên được quy định trong LTM, luận văn không đi sâu vào trình bày. Trong thực tiễn, tuỳ thuộc vào công việc được uỷ thác, nội dung của HĐUTMBHH được thể hiện khác nhau. Tuy nhiên, nội dung cơ bản của 16
  21. HĐUTMBHH bao gồm các điều khoản chủ yếu: hàng hoá được uỷ thác mua, bán; thù lao uỷ thác; thời hạn thực hiện HĐUTMBHH; các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng; trách nhiệm vật chất khi vi phạm hợp đồng; các trường hợp miễn trách nhiệm; thủ tục giải quyết tranh chấp. Ngoài ra, các bên có thể thoả thuận về vấn đề mua bảo hiểm cho hàng hoá uỷ thác để dự liệu cho trường hợp bên nhận uỷ thác đã thực hiện đúng nghĩa vụ bảo quản hàng hoá uỷ thác song hàng hóa vẫn gặp rủi ro ngoài tầm kiểm soát Pháp luật các nước có những cách khác nhau trong quy định về nội dung hợp đồng. Các nước theo hệ thống thông luật, điển hình là Anh- Mỹ, như đã nói ở trên, không có quy định riêng điều chỉnh các dịch vụ trung gian trong hoạt động thương mại. Tất cả các giao dịch qua trung gian, bất kể nhằm mục đích gì cũng được quy định chung trong Luật đại diện (The commercial Agents Regulations- Anh; Law of Agency- Hoa Kỳ). Về nội dung hợp đồng, về cơ bản chỉ bắt buộc thoả thuận về điều khoản đối tượng của hợp đồng [29, Art 2], những nội dung khác, nếu các bên không thoả thuận cụ thể, có thể được viện dẫn tập quán thương mại để xác định. Pháp luật Việt Nam quy định cụ thể về từng hoạt động TGTM. Đối với vấn đề nội dung hợp đồng, luật cho phép thoả thuận. Theo đó, tuỳ từng loại hợp đồng, các bên có thể thoả thuận các nội dung chủ yếu về đối tượng; số lượng, chất lượng; giá, phương thức thanh toán; thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng; quyền, nghĩa vụ; trách nhiệm do vi phạm; phạt hợp đồng [§402 BLDS]. Các nước khác theo hệ thống Civil Law, bên cạnh BLDS có ban hành LTM, quy định cụ thể về từng hoạt động TGTM, trong đó có vấn đề nội dung hợp đồng. Điển hình là Cộng hoà Pháp, nội dung hợp đồng phải thoả thuận rõ về đối tượng, chất lượng, giá cả [1]. 17