Luận văn Hợp đồng ủy quyền trong giao dịch chuyển nhượng nhà chung cư qua thực tiễn Thành phố Hà Nội
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Hợp đồng ủy quyền trong giao dịch chuyển nhượng nhà chung cư qua thực tiễn Thành phố Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_hop_dong_uy_quyen_trong_giao_dich_chuyen_nhuong_nha.pdf
Nội dung text: Luận văn Hợp đồng ủy quyền trong giao dịch chuyển nhượng nhà chung cư qua thực tiễn Thành phố Hà Nội
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐẶNG HỒNG KHANG HỢP ĐỒNG ỦY QUYỀN TRONG GIAO DỊCH CHUYỂN NHƯỢNG NHÀ CHUNG CƯ QUA THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI Chuyên ngành: Luật Kinh Tế Mã số : 60.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS PHẠM THỊ GIANG THU HÀ NỘI, 2017
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Học Viện Khoa học xã hội. Vậy tôi xin viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật – Học Viện Khoa học xã hội xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Đặng Hồng Khang
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG ỦY QUYỀN 6 1.1. Khái niệm, đặc điểm hợp đồng uỷ quyền 6 1.2. Đặc điểm pháp lý của hợp đồng ủy quyền 20 1.3. Phân loại hợp đồng uỷ quyền 31 1.4. Vai trò và ý nghĩa pháp lý của hợp đồng ủy quyền 35 Chương 2: THỰC TIỄN GIAO KẾT HỢP ĐỒNG ỦY QUYỀN TRONG 39 GIAO DỊCH CHUYỂN NHƯỢNG NHÀ CHUNG CƯ Ở HÀ NỘI, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG ỦY QUYỀN 2.1. Thực tiễn giao kết hợp đồng ủy quyền trong giao dịch chuyển nhượng 39 nhà chung cư ở Hà Nội 2.2. Phương hướng và một số đề xuất hoàn thiện pháp luật về hợp đồng ủy 68 quyền KẾT LUẬN 77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 79
- DANH MỤC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang Bảng 2.1 Thống kê số lượng hợp đồng ủy quyền ở thành phố Hà Nội 42 2014-2016.
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Vấn đề nhà ở luôn là tâm điểm gây chú ý của xã hội. Khoản 1 Điều 3 Luật Nhà ở 2014 đã giải thích thuật ngữ: “Nhà ở là công trình xây dựng với mục đích để ở và phục vụ các nhu cầu sinh hoạt của hộ gia đình, cá nhân”. Điều này cho thấy, nhà đất ở các thành phố lớn là vấn đề phức tạp vì nó gắn liền với nhu cầu sinh hoạt của các hộ gia đình và cá nhân trong xã hội. Trong những năm vừa qua, trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, quá trình đô thị hóa, chuyển dịch lực lượng lao động từ nông thôn ra thành thị đang diễn ra hết sức nhanh chóng, sự thay đổi về thu nhập và điều kiện sống của người dân, cùng với quá trình thực hiện các dự án phát triển hạ tầng, chỉnh trang đô thị của Nhà nước, đã làm cho nhà ở đã trở thành một vấn đề kinh tế - xã hội bức xúc luôn giành được sự quan tâm của các cấp chính quyền và doanh nghiệp kinh doanh phát triển nhà. Mặt khác, hoạt động đầu tư, kinh doanh nhà ở nước ta nói chung và tại các thành phố lớn như thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng, hiện nay đang diễn biến hết sức phức tạp, phát sinh nhiều vấn đề cần phải giải quyết. Một trong những giao dịch sôi động nhất hiện nay liên quan đến nhà ở chung cư đã sử dụng hình thức hợp đồng ủy quyền khá phổ biến, trong đó chủ sở hữu nhà chung cư ủy quyền cho cá nhân, tổ chức khác thay mặt mình thực hiện các giao dịch liên quan đến nhà chung cư. Theo quy định của Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản quy phạm liên quan, thì nhà, đất phải có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở đã được cấp trước ngày 10 tháng 12 năm 2009; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất mới có thể làm thủ tục mua bán, chuyển nhượng, trong khi những căn hộ chung cư nói trên thì phải mất một thời gian rất dài mới được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu. Tính từ khi nhận bàn giao nhà từ chủ đầu tư, cá biệt có trường hợp 1
- sinh sống lâu dài trên dưới 5 năm, thậm chí lâu hơn chủ nhân căn hộ vẫn chưa có giấy tờ chứng minh quyền sở hữu hợp lệ. Nhưng những căn hộ này vẫn giao dịch bình thường trên thị trường bất động sản, người tham gia giao dịch dưới mọi hình thức hợp đồng ủy quyền quản lý, sử dụng và định đoạt tài sản khi có đủ điều kiện. Hiện nay, trên địa bàn thành phố Hà Nội có hàng ngàn căn hộ chung cư, nền đất mặc dù đã bàn giao nhà cho người mua nhưng chủ đầu tư chưa thể làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất cho người dân. Nguyên nhân là do các chủ đầu tư chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính; chủ đầu tư đã mang thế chấp quyền sử dụng đất hoặc quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai tại ngân hàng nhưng chưa giải chấp, hoặc chủ đầu tư mất khả năng giải chấp để lấy lại “sổ đỏ” hay tài sản hình thành trong tương lai ra để làm Giấy chứng nhận cho người mua; tài sản đã bị phong tỏa để thi hành án Nhưng những căn hộ này vẫn giao dịch bình thường trên thị trường bất động sản, người tham gia giao dịch dưới hình thức hợp đồng ủy quyền quản lý, sử dụng, và định đoạt tài sản khi có đủ điều kiêṇ. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, không chỉ những nhà đất chưa được cấp giấy chứng nhận, mà cả những nhà, đất đã được cấp giấy chứng nhận, nhưng cũng dùng hình thức ủy quyền để người khác đại diện cho mình trong những giao dịch chuyển nhượng, mua bán sau này. Trên địa bàn Hà nội, từ thực tiễn hoạt động mua bán nhà chung cư đã cho thấy những giao dịch mua bán nhà chung cư thông qua hợp đồng ủy quyền này khá phổ biến. Bên cạnh những thuận lợi của hình thức ủy quyền mang lại như tạo điều kiện thúc đẩy các giao dịch dân sự khi chủ sở hữu căn hộ chung cư không có điều kiện trực tiếp tham gia giao dịch nên đã ủy quyền cho người khác đại diện cho mình thực hiện những giao dịch liên quan. Chính từ việc thông qua hình thức ủy quyền, nhiều cá nhân, pháp nhân đã lạm dụng khi người dân không thực sự hiểu hết những rủi ro pháp lý mà họ sẽ gặp phải khi chọn lựa hình thức này. Bởi vậy, tôi chọn đề tài "Hợp đồng ủy quyền trong giao dịch chuyển nhượng nhà chung cư qua thực tiễn thành phố Hà Nội" để nghiên cứu, nhằm đưa ra một cái nhìn thực tiễn toàn 2
- diện về tình trạng vấn đề ủy quyền chuyển nhượng trong giao dịch nhà ở chung cư hiện nay tại địa bàn thành phố Hà Nội, đưa ra những thuận lợi, bất cập do hình thức này mang lại, đồng thời có những nhận xét, kiến nghị để hy vọng có thể đóng góp một phần rất nhỏ trong việc nhận thức pháp luật nói chung và hoàn thiện pháp luật về ủy quyền. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Đến thời điểm này đã có nhiều bài nghiên cứu khoa học về các hợp đồng ủy quyền phổ biến ở Việt Nam. Nhưng những bài viết này hầu hết tập trung vào một số khía cạnh về đại diện theo ủy quyền trong pháp luật về tố tụng, thương mại. Năm 2004, tác giả Đinh Thị Thanh Thủy bảo vệ thành công luận văn Thạc sĩ đề tài "Quan hệ đại diện theo ủy quyền trong hoạt động thương mại", nhưng nghiên cứu vấn đề ủy quyền trong một lĩnh vực đó là hoạt động thương mại. Năm 2008, tác giả Nguyễn Thị Lan Hương bảo vệ thành công luận văn thạc sĩ luật học với đề tài "Hợp đồng ủy quyền theo pháp luật Việt Nam", đây được đánh giá là công trình nghiên cứu khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện về chế định hợp đồng ủy quyền nói chung và trên cơ sở các vấn đề phát sinh thời điểm trước 2008 mà không phải là thời điểm hiện tại. Ngoài ra, từ thực tiễn giao dịch về nhà đất nói chung và nhà chung cư nói riêng, cũng như thực tiễn giao kết hợp đồng ủy quyền, đã có thêm nhiều bài nghiên cứu, bình luận khoa học về hợp đồng ủy quyền trong giao dịch về bất động sản trên các tạp chí chuyên ngành hay những bài viết trên những trang liên quan đến pháp luật, nhưng cũng chỉ dừng lại ở việc nêu ra một số bất cập, rủi ro pháp lý trong việc áp dụng pháp luật về hợp đồng ủy quyền trong thực tiễn, rất cần có những công trình khoa học nghiên cứu toàn diện, chuyên sâu hơn từ mấy năm gần đây. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Chọn nghiên cứu đề tài "Hợp đồng ủy quyền trong giao dịch chuyển nhượng nhà chung cư qua thực tiễn thành phố Hà Nội" tác giả nhằm các mục đích sau: 3
- - Nghiên cứu và phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về hợp đồng ủy quyền như khái niệm, đặc điểm, lịch sử hình thành, vai trò của hợp đồng ủy quyền trong nền kinh tế thị trường. - Phân tích và đánh giá thực tiễn giao dịch nhà ở chung cư hiện nay, rút ra những nguyên nhân người tham gia giao dịch lựa chọn hình thức ủy quyền khi giao dịch nhà ở chung cư trên thị trường. - Dựa trên căn cứ quy định của pháp luật và thực tiễn, phân tích những thuận lợi, rủi ro mà người tham gia giao dịch có thể gặp phải khi giao dịch nhà ở chung cư bằng hình thức hợp đồng ủy quyền, từ đó đưa ra phương hướng và một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiểu biết và ý thức pháp luật trong xã hội của người dân. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Trong khuôn khổ đề tài nghiên cứu này, tác giả chủ yếu tập trung phân tích vào khía cạnh giao dịch ủy quyền đối với nhà chung cư trong hai trường hợp: - Nhà chung cư đã có giấy chứng nhận quyền sở hữu - Nhà chung cư chưa có giấy chứng nhận quyền sở hữu - tức là chưa đủ điều kiện tham gia giao dịch mua bán theo quy định của pháp luật hiện hành. Trên cơ sở kết quả phân tích đó rút ra những thuận lợi, những rủi ro pháp lý và những bất cập còn tồn tại trong những quy định của pháp luật hiện hành. Đồng thời từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn của công chứng viên, người có trách nhiệm công chứng, chứng thực hợp đồng ủy quyền trong hoạt động công chứng, chứng thực thường gặp. Mặt khác, tác giả cũng đưa ra các biện pháp hạn chế rủi ro, kiểm soát để tránh tình trạng lợi dụng hợp đồng ủy quyền gây thiệt hại cho Nhà nước, cho sự phát triển của xã hội và nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho mọi các nhân, tổ chức thực hiện hợp đồng ủy quyền . 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác-Lênin, phân tích tổng hợp các chế định ủy quyền của Bộ luật dân sự và liên hệ thực tiễn với những vấn đề của xã hội. Ngoài ra, quá trình nghiên cứu, tác 4
- giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học khác như so sánh, pháp luật, lịch sử, logic, hệ thống, phân tích, tổng hợp, 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật hiện hành cũng như thực tiễn áp dụng tại thành phố Hà Nội. Những đóng góp của luận văn có giá trị không chỉ giúp cho hoạt động công chứng, chứng thực hợp đồng ủy quyền mà còn trong nghiên cứu khoa học; những kiến nghị, đề xuất của luận văn là cơ sở để ban hành những văn bản pháp luật có liên quan Luận văn hợp đồng ủy quyền chuyển nhượng căn hộ chung cư theo pháp luật Việt Nam có mục đích là nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận, pháp luật thực định cũng như những đặc thù hợp đồng ủy quyền. Trên cơ sở đó, phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật và thực trạng tranh chấp hợp đồng ủy quyền chuyển nhượng căn hộ chung cư đang diễn ra. Từ những phân tích này, đề xuất một số ý kiến, giải pháp nhằm giảm thiểu tranh chấp trong hợp đồng ủy quyền căn hộ chung cư, giảm thiểu rủi ro cho người mua căn hộ chung cư. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 2 chương: Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG ỦY QUYỀN Chương 2:THỰC TIỄN GIAO KẾT HỢP ĐỒNG ỦY QUYỀN TRONG GIAO DỊCH CHUYỂN NHƯỢNG NHÀ CHUNG CƯ Ở HÀ NỘI, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG ỦY QUYỀN 5
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG ỦY QUYỀN 1.1. Khái niệm, đặc điểm hợp đồng uỷ quyền 1.1.1. Khái quát lịch sử hình thành hợp đồng uỷ quyền trên thế giới Hợp đồng ủy quyền ra đời từ thời La Mã cổ đại[5], cùng với quá trình phát triển của xã hội, những quy định của pháp luật về hợp đồng ủy quyền ngày càng hoàn thiện. Cũng như các chế định hợp đồng khác, hợp đồng ủy quyền được hình thành cùng với quá trình hình thành và phát triển của luật dân sự. Trong thời kỳ La Mã cổ đại, quyền nhân thân được coi là quyền tuyệt đối; do vậy, việc uỷ quyền chỉ diễn ra trong một số lĩnh vực không liên quan đến nhân thân. Việc ủy quyền được hiểu là việc mà trong đó quyền và nghĩa vụ của một người được thực hiện thông qua những hành vi của người khác. Nếu vậy, xét ở một góc độ nào đó thì quan hệ uỷ quyền mâu thuẫn với những đặc tính cơ bản về tính nhân thân trong quan hệ nghĩa vụ của luật La Mã. Trong thời kỳ La Mã, đã có sự phân biệt giữa đại diện theo pháp luật (là những đại diện đương nhiên, đại diện bắt buộc) và đại diện tự nguyện trên cơ sở hợp đồng ủy quyền. Tuy nhiên, trong thời kỳ này, chế định đại diện theo pháp luật được coi trọng hơn đại diện theo ủy quyền. Vì vậy, những quy định về đại diện theo pháp luật được pháp luật ghi nhận một cách khá đầy đủ. Đại diện theo pháp luật có nền tảng phát triển là cấu trúc xã hội, đó là chế độ chiếm hữu nô lệ mà trong đó chủ và người đàn ông trong gia đình có vị trí quan trọng đối với nô lệ và người phụ thuộc. Những người có địa vị thấp trong xã hội như nô lệ, người phụ nữ, con cái bị hạn chế năng lực hành vi. Thông thường gia chủ, người có địa vị cao trong xã hội là đại diện đương nhiên của những người bị phụ thuộc, người có địa vị trong xã hội thấp, người bị hạn chế, người không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Mặc dù, trong thời kỳ này đại diện theo pháp luật chiếm vị trí quan trọng; tuy nhiên, những quy định của pháp luật về đại diện theo ủy quyền cũng đã bắt đầu xuất 6
- hiện và phát triển cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội. Luật La Mã đã có những quy định về đại diện theo uỷ quyền, mặc dù nó có tính chất sơ khai, nhưng những quy định này thực sự là những tiền đề cho những quy định của pháp luật về đại diện theo ủy quyền sau này. Theo Luật La Mã, hợp đồng uỷ quyền là một văn bản xác định giao dịch có tính chất tương trợ lẫn nhau, không phải là hợp đồng mang tính chất dịch vụ. Người đại diện tuyên bố “Không phải anh ta ký kết hợp đồng nhân danh người được đại diện mà là người đại diện ký kết hợp đồng thông qua anh ta”[5]. Do đặc thù của xã hội trong thời kỳ xã hội Châu Âu chuyển sang một giai đoạn mới sau khi đế quốc La Mã sụp đổ, nên những chế định của pháp luật về đại diện đương nhiên theo pháp luật rất phát triển còn những quy định về đại diện theo ủy quyền dường như không phát triển so với thời kỳ La Mã. Khi cách mạng tư sản nổ ra, cùng với nó là việc phá vỡ quan hệ sản xuất lạc hậu của chế độ phong kiến, giải phóng lực lượng sản xuất. Để điều chỉnh những quan hệ sản xuất mới, cùng với việc xây dựng bộ máy Nhà nước, nhiều Nhà nước tư sản đã ban hành Bộ luật Dân sự nhằm điều chỉnh những quan hệ xã hội mới, phù hợp với tình chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Trong thời kỳ này, những tư tưởng tiến bộ của Luật La Mã cổ đại được phục hồi và ghi nhận trong luật dân sự của các nước phát triển như Pháp, Đức, Nhật, trong đó có chế định về ủy quyền. Bộ Luật Dân Sự Pháp năm 1804 ra đời đánh dấu bước phát triển vượt bậc của luật dân sự, những tư tưởng pháp lý không chỉ có ý nghĩa đối với nước Pháp mà còn ảnh hưởng đến luật dân sự của rất nhiều nước trên thế giới. Bộ Luật Dân Sự Pháp năm 1804 là sự pháp điển tới mức kinh điển những quy định của pháp luật La Mã cổ đại trong đó chế định hợp đồng dân sự và hợp đồng ủy quyền, bổ sung những quy định mới cho phù hợp với thực tế. Theo quy định của Bộ luật dân sự Pháp thì chế định đại diện đã tổng hợp sự điều chỉnh các quan hệ bên trong và bên ngoài trong quan hệ đại diện. Điều luật đầu tiên của chương “Về bản chất và hình thức uỷ quyền" quy định như sau: Uỷ quyền là hành vi, trong đó một người trao cho người khác những quyền 7
- năng thực hiện công việc cho người uỷ quyền và nhân danh anh ta[5]. Phát triển khái niệm này, với mục đích rõ ràng là nhấn mạnh cơ sở hợp đồng của cấu trúc pháp lý này, điều luật trên quy định hợp đồng ủy quyền có hiệu lực chỉ trong trường hợp sau khi người được uỷ quyền tiếp nhận uỷ quyền. Người uỷ quyền trong mọi trường hợp phải chịu trách nhiệm và trả mọi chi phí cho công việc được uỷ quyền và trả thù lao cho người được ủy quyền nếu hai bên có thoả thuận; kể cả trong trường hợp hành vi của người được uỷ quyền không mang lại kết quả tốt. Do tính chất đặc thù của việc uỷ quyền, nên của Bộ Luật Dân Sự Pháp quy định thậm chí cả khi hợp đồng mang tính chất đền bù thì rủi ro của việc thực hiện vẫn do người uỷ quyền gánh chịu. Bộ Luật Dân Sự Pháp không xem xét trực tiếp tính chất cá nhân của hợp đồng uỷ quyền. Tuy nhiên, nếu người được uỷ quyền chuyển giao thẩm quyền của mình cho người khác thì người được uỷ quyền phải tính đến nếu anh ta phải chịu trách nhiệm về hành vi của người được chuyển giao này, trong trường hợp hợp đồng không có quy định về điều này. Tính chất nhân thân trong hợp đồng uỷ quyền còn thể hiện ở chỗ “Sự kiện một chủ thể chết hoặc việc một bên từ chối hợp đồng được coi là cơ sở để chấm dứt hợp đồng”[5]. Bộ Luật dân sự Đức năm 1900, một trong những bộ luật dân sự có sự phân biệt rõ ràng giữa chế định uỷ quyền và chế định đại diện. Đại diện quy định tại Quyển 1- Phần chung-Chương V Phần 3-Giao dịch, còn uỷ quyền quy định tại Quyển 2-Phần nghĩa vụ-Chương VII Phần 7 các loại nghĩa vụ. Chế định đại diện được dựa trên cơ sở: "Sự thể hiện ý chí được thực hiện bởi một người trong khuôn khổ thẩm quyền được trao cho anh ta nhân danh người đại diện, trực tiếp hành động”[5]. Nếu xét về tính chất và ý nghĩa của hợp đồng uỷ quyền, người được uỷ quyền tiếp nhận uỷ quyền tức là đã nhận về mình những nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ vì lợi ích của người uỷ quyền, không được tính đến thù lao cho công việc này. Với quy định trên, Bộ Luật Dân Sự Đức cho phép coi hợp đồng uỷ quyền là một dạng hợp đồng không đền bù có đối tượng là những hành vi pháp lý. Bên cạnh đó, 8
- nó cũng chỉ ra tính chất nhân thân của quan hệ uỷ quyền hay nói cách khác người được uỷ quyền phải trực tiếp thực hiện công việc, nếu chuyển giao cho người khác thì phải được sự đồng ý của người uỷ quyền. Trong trường hợp người uỷ quyền và người được uỷ quyền chết thì hợp đồng uỷ quyền chấm dứt. Việc đơn phương chấm dứt hợp đồng thì cả hai bên đều có quyền như nhau. Tuy nhiên, trong một số trường hợp người được uỷ quyền khi đơn phương chấm dứt hợp đồng thì phải hoàn trả lại những chi phí. Bộ Luật Dân Sự Nhật Bản cũng phân chia chế định đại diện và chế định uỷ quyền . Chế định đại diện được quy định tại Phần chung-Chương VII, hợp đồng uỷ quyền quy định tại Phần Nghĩa vụ-Chương XVIII. Đại diện có chức năng to lớn trong hoạt động xã hội của con người. Chính nhờ chế định đại diện mà một người có thể sử dụng khả năng nhận thức của người người đại diện, nhận được kết quả từ hoạt động của người đó. Cũng như quy định của các nước khác, Bộ Luật Dân Sự Nhật Bản coi việc uỷ quyền là một công việc mang tính chất tương trợ, hai bên nếu như không có thoả thuận riêng thì người được uỷ quyền không được phép yêu cầu người uỷ quyền trả thù lao. Việc trả thù lao không được coi là sự trả công như những hợp đồng dân sự có đền bù khác. Nếu hợp đồng không có thù lao thì coi là hợp đồng đơn vụ, còn hợp đồng có thù lao thì coi là hợp đồng song vụ. Trong hệ thống pháp luật của Anh, không có nhiều quy định điều chỉnh về hợp đồng ủy quyền như của Pháp, Đức; hợp đồng đại lý được coi là cơ sở hoạt động cho quan hệ đại diện và uỷ quyền. Như vậy, trong khuôn khổ hợp đồng này có cả đại diện trực tiếp và đại diện gián tiếp với điều kiện của người thứ ba. Thẩm quyền được xác nhận bằng "dấu-ander seab'' là Giấy uỷ quyền. Pháp luật của Mỹ cũng có cách tiếp cận như tương tự đối với vấn đề uỷ quyền như pháp luật của Anh. Thuật ngữ "đại diện" theo nghĩa rộng bao hàm tất cả các quan hệ tồn tại giữa hai chủ thể khi một trong số họ hoạt động vì lợi ích và dưới sự kiểm soát của người thứ hai. 9
- 1.1.2. Khái quát lịch sử hình thành hợp đồng uỷ quyền tại Việt Nam. Cùng với sự phát triển của lịch sử Nhà nước và pháp luật, ở Việt Nam chế định hợp đồng (khế ước) ra đời và tồn tại từ rất sớm. Trong những bộ luật cổ, như Bộ Luật Hồng Đức, Bộ Luật Gia Long đã có một số quy định về ủy quyền. Tuy nhiên, do đặc điểm của thời kỳ này, những quy định của pháp luật mới chỉ dừng ở việc ghi nhận một cách sơ lược, chưa hình thành chế định hợp đồng ủy quyền theo đúng nghĩa như hiện nay. Trong hai bộ luật của chế độ phong kiến Việt Nam, không điều luật cụ thể nào quy định về hợp đồng uỷ quyền; những nội dung về ủy quyền chỉ được đề cập một cách gián tiếp thông qua những quy định cụ thể trong một số lĩnh vực khác. Ví dụ: Điều 378 Bộ Luật Hồng Đức quy định: Cha mẹ còn sống mà bán trộm điền sản, con trai bị xử phạt 60 trượng, biếm hai tư, con gái thì bị xử phạt 50 roi, biếm một tư, phải trả nguyên tiền cho người mua, điền sản cho cha mẹ. Theo quy định của Bộ luật Hồng Đức thì việc bán điền sản của cha mẹ, nếu như có sự uỷ quyền của cha mẹ thì việc bán điền sản đó hoàn toàn hợp pháp. Như vậy, trong thời kỳ phong kiến, hợp đồng ủy quyền chưa có quy định riêng mà việc điều chỉnh những quan hệ này nằm rải rác trong những điều luật ở những nội dung khác nhau. Kể từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, cùng với việc áp đặt bộ máy cai trị kiểu thực dân, thực dân Pháp đã chia nước ta thành ba kỳ đó Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ, tương ứng với mỗi kỳ là một bộ máy cai trị, hệ thống pháp luật riêng. Cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã làm cho cơ cấu xã hội Việt Nam có sự biến đổi mạnh mẽ, toàn diện, trong đó hệ thống pháp luật mà luật dân sự là một trong những lĩnh vực có sự biến đổi mạnh mẽ và toàn diện nhất. Sự chuyển biến này thể hiện ở việc, thực dân Pháp đã ban hành ba bộ luật dân sự áp dụng cho ba kỳ. Có thể nhận xét một cách chung nhất đối với ba Bộ Luật Dân Sự mà thực dân Pháp ban hành ở nước ta đó là sự đơn giản những quy định của Bộ Luật Dân Sự Pháp năm 1804 đồng thời ghi nhận những quy định của pháp luật phong kiến Việt Nam đang tồn tại. 10
- Bộ Luật Dân Sự được thực dân Pháp ban hành đầu tiên ở Việt Nam là Bộ luật giản yếu Nam Kỳ năm 1883. Bộ Luật Dân Sự giản yếu được ban hành vào ngày 26/03/1884, nhưng vẫn quen gọi là Bộ Dân luật giản yếu năm 1883 bởi trước đó có hai sắc lệnh được ban hành vào năm 1883 liên quan tới quốc tịch, cư trú và hộ tịch[24]. Bộ luật này được xem là giản yếu bởi nó có nhiều khiếm khuyết cả về phạm vi điều chỉnh và về sự phù hợp với xã hội Việt Nam thời đó. Về phạm vi, Bộ luật này chủ yếu chỉ quy định về nhân thân. Bộ luật này gồm bốn quyển quy định về những vấn đề cơ bản của luật dân sự như về con người, tài sản, khế ước, nghĩa vụ, Những khế ước thông thường được đề cập đến một cách khá đầy đủ trong đó có hợp đồng ủy quyền được quy định tại quyển thứ ba chương VII. Có thể nói rằng, Bộ luật này gần như một bản sao của Bộ Luật Dân Sự Pháp năm 1804. Tuy vậy, cũng phải ghi nhận đây là lần đầu tiên, ở nước ta chế định ủy quyền được ghi nhận một cách tương đối toàn diện trong một văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao đó là Bộ Luật Dân Sự. Theo quy định của Bộ luật giản yếu Nam Kỳ, sự "uỷ quyền" là một khế ước do đó một người, người uỷ-quyền (uỷ-chủ) cho một người, người thụ-uỷ được nhân danh mà thực hành một hay nhiều hành vi pháp lý [24]. Về hình thức, khế ước uỷ quyền bằng có thể bằng văn bản tự lập hoặc bằng văn tự được công chính. Sự uỷ quyền bắt đầu có hiệu lực từ khi người thụ uỷ thực hiện công việc. Thù lao cho người thụ uỷ không được đề cập đến. Như vậy, uỷ quyền thời kỳ này được hiểu theo truyền thống là làm thay, làm hộ mà không tính đến việc nhận thù lao. Các nhà làm luật thời bấy giờ rất chú trọng và đánh giá cao ý nghĩa của việc uỷ quyền, cho nên ngay trong những quy định về uỷ quyền có những quy định có tính chất hướng dẫn như “Xin nói qua rằng sự uỷ-quyền chung là rất nguy hiểm cho uỷ- chủ, chỉ nên cho một cách thận trọng vì về thực tế, nó như là một sự từ khước tất cả quyền-lợi của mình trong thời gian uỷ-quyền; hay như: Tờ uỷ-quyền riêng phải định nghĩa rõ-ràng quyền-hành của người thụ-uỷ, người uỷ-chủ phải cần nhắc kỹ-càng từng câu vè nên nhớ rằng mình phải biết rõ người thụ-uỷ mới dám cho làm như vậy”[24]. 11
- So với Bộ luật giản yếu Nam Kỳ thì Bộ dân luật Bắc Kỳ năm 1931 có nhiều đổi mới, các quy định về ủy quyền được quy định tại các chương, tiết và các điều khoản cụ thể, rõ ràng hơn. Khế ước uỷ quyền được quy định tại chương VIII gồm 28 điều. Theo quy định tại Điều 1172 Bộ Dân luật Bắc Kỳ thì uỷ quyền là một khế ước do một người cho quyền người khác đứng tên mình làm việc gì cho mình. Hình thức của hợp đồng ủy quyền có thể bằng văn bản hoặc chỉ cần nói bằng miệng. Công việc được uỷ quyền trong thời kỳ này, được các nhà làm luật chia thành uỷ quyền đơn giản, uỷ quyền phức tạp (liên quan đến chuyển dịch, để đương) và uỷ quyền riêng, uỷ quyền chung. Cụ thể như thế nào người uỷ quyền phải nói rõ khi giao kết khế ước. Người thụ uỷ có thể được nhận thù lao cho công việc mình làm hoặc không có thù lao. So với Bộ luật giản yếu Nam Kỳ, Bộ dân luật Bắc kỳ có những quy định cụ thể về nghĩa vụ của các bên tham gia giao kết khế ước uỷ quyền. Ví dụ như Điều 1178 Bộ Dân luật Bắc Kỳ quy định: Trong khi người thụ uỷ còn nhận việc uỷ quyền, thì phải làm cho trọn, và nếu khi thi hành có sự tổn hại thì phải bồi thường; hay: Phàm người thụ-uỷ đã chiếu giấy uỷ-quyền mà giao ước việc gì, thì người uỷ quyền có trách nhiệm phải thi hành việc ấy, Người thụ uỷ có trách nhiệm làm toàn bộ công việc thay cho người uỷ quyền, người uỷ quyền phải trả toàn bộ chi phí cho công việc đã uỷ quyền, bất luận công việc có thành hay không. Khế ước uỷ quyền được coi là văn bằng cho hai bên thực hiện hoặc để làm bằng chứng khi hai bên có tranh chấp xảy ra. Người thụ-uỷ không được sử dụng tài sản hoặc tiền bạc có được khi thực hiện công việc, thậm chí nếu thiệt hại còn phải đền bù, hoặc phải trả lãi nếu như sử dụng tiền của người uỷ quyền. Người thụ-uỷ không được phép uỷ quyền lại cho người thứ ba, trừ khi người uỷ quyền đã chỉ đích danh người thay thế cho người thụ-uỷ trong trường hợp người thụ uỷ không có khả năng thực hiện công việc. Việc chấm dứt khế ước uỷ quyền được quy định trong trường hợp công việc đã kết thúc, thời hạn uỷ quyền đã hết kể cả công việc được quyền chưa hoàn thành, một trong hai bên tự chấm dứt khế ước, hoặc một trong hai bên bị cấm thực hiện 12
- những công việc được uỷ quyền. Nếu như một trong hai bên chết, những người thừa kế của hai bên phải báo cho bên kia biết, thậm chí trong một vài trường hợp những người thừa kế của người thụ uỷ phải tiếp tục thực hiện khế ước uỷ quyền cho đến khi những người thừa kế của người uỷ quyền tự làm hoặc tìm được ngưòi khác thay thể. Bộ dân luật Trung Kỳ năm 1936 được đánh giá là có các quy định để điều chỉnh quan hệ dân sự trọn vẹn hơn cả. Bộ Luật này gồm 1709 điều, có 940 điều quy định về nghĩa vụ và khế ước, trong đó có 29 điều quy định về sự uỷ quyền. Bộ dân luật Trung Kỳ đã kế thừa toàn bộ phần quy định về uỷ quyền của Bộ dân luật Bắc Kỳ, chỉ có một vài quy định được thay đổi chặt chẽ hơn, chi tiết hơn như: Nếu làm một việc gì mà chiếu luật phải có viên chức thị thực để lợi cho người thụ-uỷ thời sự uỷ quyền cũng phải làm ra giấy tờ có viên chức thị thực hay do viên quản lý thư-khế đứng làm, nếu không thời cái khế lập ra ấy sẽ là vô hiệu[10]. Như vậy, theo Bộ dân luật Trung kỳ có những khế ước uỷ quyền khi hai bên giao kết bắt buộc phải được những người có trách nhiệm xác nhận. Mặc dù, ba bộ luật dân sự của Việt Nam trong thời kỳ thực dân phục vụ cho mục đích cai trị của thực dân Pháp; tuy nhiên, nó có ý nghĩa quan trọng trong lịch sử hình thành của Luật Dân sự Việt Nam. Lần đầu tiên, những vấn đề cơ bản về chế định hợp đồng đã được ghi nhận như những quy định cụ thể như cách thức giao kết, hình thức, nội dung một số khế ước thông thường trong đó cónhững quy định về hợp đồng uỷ quyền; có thể nói đó là: Những phương pháp pháp điển hóa, những tư tưởng của bình đẳng, tự do và bác ái mà chế định hợp đồng trong các bộ luật để lại cho chúng ta vẫn còn nguyên giá trị đến ngày nay. Ở Miền Bắc, sau Cách mạng Tháng tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành Sắc lệnh số 97/SL ngày 22-5-1950 về việc sửa đổi một số quy lệ cho phép áp dụng các luật lệ cũ nhưng với điều kiện không được trái những quy định của sắc lệnh này. Năm 1954 đất nước bị chia cắt thành hai miền. Ở Miền Bắc bên cạnh Bộ dân luật Bắc Kỳ còn có Điều lệ tạm thời về hợp đồng kinh doanh số 735/TTg ngày 10-4- 1956 của Thủ tướng Chính phủ. Đến năm 1959, theo Chỉ thị số 772/CT-TATC toàn bộ các luật lệ của thời kỳ phong kiến bị đình chỉ áp dụng ở Miền Bắc. 13
- Ở Miền Nam, thời kỳ đầu dưới chế độ ngụy quyền, những quan dân sự vẫn được điều chỉnh theo Bộ dân luật Nam Kỳ và Bộ dân luật Trung Kỳ do thực dân Pháp ban hành. Năm 1972, chính quyền Việt Nam Cộng hòa ban hành Bộ luật Dân sự Sài Gòn. Bộ luật này bao gồm 1433 điều, trong đó có 25 điều quy định về khế ước uỷ quyền. Theo quy định tại Điều 1239 Bộ dân luật Sài Gòn năm 1972 thì: Ủy-quyền là một khế-ước do đó một người trao quyền cho người khác để nhân-danh mình làm một hành-vi gì. Hình thức của khế ước uỷ quyền có thể bằng văn bản hoặc bằng khẩu ước (lời nói). Khế ước bắt đầu có hiệu lực từ khi người thụ uỷ chấp nhận nhận và tiến hành công việc được uỷ quyền. Khế ước uỷ quyền được coi như một dịch vụ không có thù lao trừ trường hợp hai bên có trái lại. Người thụ uỷ phải chịu mọi trách nhiệm khi thi hành công việc được uỷ quyền, chịu trách nhiệm về mọi thiệt hại xảy ra vì những lỗi lầm trong thi hành đã đảm nhiệm. Kể cả trong trường hợp người thụ uỷ chết, người thụ uỷ vẫn phải làm công việc trong trường hợp công việc không thể bỏ dở. Người chủ uỷ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi của người thụ uỷ trong phạm vi nội dung uỷ quyền, ngoại trừ những hành vi ngoài giới hạn nội dung uỷ quyền. Nhìn chung, những quy định về uỷ quyền của Bộ luật Dân sự Sài Gòn năm 1972 không nhiều điểm mới so với Bộ dân luật Trung Kỳ và Bộ dân luật Bắc Kỳ. Ở Miền Bắc, sau khi các bộ luật của chế độ phong kiến không còn hiệu lực pháp luật, có rất nhiều văn bản mới được ban hành. Tuy nhiên, không có văn bản nào quy định riêng về hợp đồng uỷ quyền. Mỗi ngành, mỗi lĩnh vực có một quy định riêng không nhất quán. Đây là một trong những hạn chế của pháp luật thời kỳ này, gây khó khăn cho cho tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Mặt khác, nước ta trong thời kỳ này áp dụng mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, những quan hệ dân sự bị hành chính, mệnh lệnh hóa, nên các giao dịch dân sự liên quan đến ủy quyền rất ít diễn ra. Ngày 01-7-1991, Pháp lệnh Hợp đồng Dân sự có hiệu lực pháp luật. Pháp lệnh này bao gồm 59 điều, trong đó có một điều quy định về đại diện theo uỷ quyền. Tuy 14