Luận văn Hợp đồng thuê nhà ở theo luật kinh doanh bất động sản 2014

pdf 87 trang vuhoa 24/08/2022 10221
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Hợp đồng thuê nhà ở theo luật kinh doanh bất động sản 2014", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_hop_dong_thue_nha_o_theo_luat_kinh_doanh_bat_dong_s.pdf

Nội dung text: Luận văn Hợp đồng thuê nhà ở theo luật kinh doanh bất động sản 2014

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN VĂN TÚY HỢP ĐỒNG THUÊ NHÀ Ở THEO LUẬT KINH DOANH BẤT ĐỘNG SẢN 2014 Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số: 60.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN THỊ NGA HÀ NỘI, 2016
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả số liệu nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, chính xác của các cơ quan chức năng đã công bố. Những kết luận khoa học của luận văn là mới và chưa có tác giả nào công bố trong bất cứ công trình khoa học nào. Tác giả luận văn NGUYỄN VĂN TÚY
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG THUÊ NHÀ Ở VÀ PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG THUÊ NHÀ Ở 9 1.1. Những vấn đề lý luận chung về hợp đồng thuê nhà ở 9 1.2. Lý luận pháp luật về hợp đồng thuê nhà ở 18 1.3. Lịch sử hình thành và pháp triển của pháp luật về hợp đồng thuê nhà ở . 23 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG THUÊ NHÀ Ở THEO LUẬT KINH DOANH BẤT ĐỘNG SẢN 2014 29 2.1. Nội dung cơ bản của pháp luật điều chỉnh hợp đồng thuê nhà ở 29 2.2. Một số vướng mắc, tranh chấp phát sinh trong thực tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng thuê nhà ở 53 Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG THUÊ NHÀ Ở . 69 3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về hợp đồng thuê nhà ở 69 3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về hợp đồng thuê nhà ở 74 KẾT LUẬN 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 81
  4. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà ở là tài sản quan trọng, đặc biệt đối với con người Việt Nam, bởi tư tưởng “an cư lạc nghiệp” đã ăn sâu, bén rễ trong suy nghĩ từ ngàn đời nay. Việc hiến định về quyền có nơi ở hợp pháp trong Hiến pháp 2013 thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta trong việc thực hiện chính sách an sinh xã hội, nhằm giải quyết chỗ ở ổn định của người dân, bảo đảm được khả năng tái tạo sức lao động của họ cũng như sự phát triển của thế hệ trẻ, thúc đẩy sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm quyền có nơi ở của công dân và coi đây là yếu tố cần thiết để phát triển con người một cách toàn diện, đồng thời là nhân tố quyết định để phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đại hội Đảng lần thứ XI, pháp luật của Nhà nước đã từng bước ghi nhận và phát triển quỹ nhà ở để đáp ứng nhu cầu của con người được ghi nhận trong Hiến pháp, Luật kinh doanh bất động sản, Luật Nhà ở, Luật Đất đai và Bộ luật Dân sự. Theo đó Nhà nước đã có các chính sách để phát triển mạnh nhà ở cho nhân dân, tạo điều kiện để mọi người dân có chỗ ở, nhất là cho các đối tượng chính sách và người thu nhập thấp. Điều này có nghĩa là Nhà nước, một mặt tạo môi trường thuận lợi để phát triển nhà ở nhằm đáp ứng các nhu cầu về nhà ở của người dân theo cơ chế thị trường; đồng thời quan tâm phát triển nhà ở xã hội, có sự hỗ trợ của Nhà nước để phục vụ các đối tượng chính sách xã hội, người nghèo, người thu nhập thấp có khó khăn về nhà ở trên nguyên tắc việc phát triển nhà ở là trách nhiệm của Nhà nước, của xã hội và của người dân. Chính sách về phát triển nhà ở phải được thể hiện trong quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, phải tuân thủ quy hoạch, chương trình và kế hoạch phát triển nhà ở trong từng giai đoạn của 1
  5. mỗi địa phương, bảo đảm sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển nhà ở, khắc phục tình trạng lệch pha cung cầu trong phát triển nhà ở. Theo chiến lược phát triển của Việt Nam, diện tích khu vực thành thị sẽ tăng từ 105.000 ha hiện tại lên 460.000 ha năm 2020 và tốc độ đô thị hóa sẽ tăng từ 28% hiện nay lên khoảng 45% vào năm 2025; dân số thành thị khi đó sẽ đạt 46 triệu người. Việt Nam sẽ phải xây dựng 35 triệu m2 nhà ở thành thị để tăng mức diện tích nhà ở lên 20 m2/người vào năm 2020 [9, tr.81]. Nền kinh tế mở cửa hơn theo cam kết WTO, hiệp định TPP và phát triển hơn theo định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng sẽ đẩy nhu cầu đối với các loại hình bất động sản tăng cao trong thời gian tới, trong đó nhu cầu về nhà ở, công trình xây dựng tăng cao là một tất yếu khách quan. Báo cáo tổng điều tra dân số lập ngày 17 tháng 12 năm 2014 theo Quyết định số 1253/QĐ-TCTK của Tổng cục trưởng Tổng cục thống kê về việc ban hành phương án điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ thời điểm 1 tháng 4 năm 2014 cho thấy hiện còn gần 11.500 hộ dân chưa có nhà ở trên địa bàn cả nước [39, tr. 84]. Trong đó, tại các thành phố lớn, số hộ chưa có nhà ở khoảng hơn 4.500 hộ. Phần lớn những hộ dân thực sự có nhu cầu về nhà ở này đều có thu nhập thấp nên khó có khả năng mua được nhà. Nguyên nhân của việc gia tăng nhu cầu về nhà ở là do tốc độ đô thị hóa của Việt Nam diễn ra mạnh mẽ chưa từng có, từ mức 21,7% năm 1999 và đến năm 2014 đã đạt 33,1% (bình quân mỗi năm tăng gần 1% trong suốt 15 năm). Một nguyên nhân nữa cũng làm gia tăng nhu cầu về nhà ở là do sự di cư cơ học. Theo kết quả điều tra năm 2014 cho thấy, đối với di cư ngoại tỉnh, luồng di cư từ nông thôn ra thành thị chiếm tỷ trọng cao nhất (44,2%). Dân cư khu vực nông thôn từ tỉnh khác chuyển đến chiếm 3,38% dân số thành thị. So với giai đoạn 2004- 2009, tỷ trọng luồng di cư từ nông thôn ra thành thị tăng lên (44,2% so với 30,5%), tỷ trọng luồng di cư từ thành thị đến thành thị giảm xuống từ 34,6% xuống 14,9%. Điều này cho thấy sức hút kinh tế của khu vực thành thị đối với khu vực nông thôn ngày càng lớn. Theo Bộ Xây 2
  6. dựng, hiện nay thành thị mới có khoảng 50% nhà kiên cố và số loại nhà này tại khu vực nông thôn là 20%. Từ nay đến năm 2020, Việt Nam cần khoảng 1,3 tỷ m2 nhà tương đương với 16.250.000 căn nhà mới để thay thế toàn bộ nhà tạm, nhà bán kiên cố. Từ những số liệu nêu trên cho thấy, nhu cầu nhà ở cho mọi tầng lớp trong xã hội Việt Nam hiện tại và những năm tiếp theo còn rất lớn, đặc biệt là nhu cầu nhà ở tại các đô thị. Tuy nhiên, với sự suy thoái của nền kinh tế toàn cầu hiện nay, Việt Nam đã và đang phải đối mặt với những khó khăn và thách thức vô cùng to lớn. Kinh tế khó khăn, nạn thất nghiệp ngày một tăng, thu nhập của người dân ngày càng bị tụt giảm. Không chỉ đối mặt với vấn đề việc làm, kế sinh nhai mà "nơi ăn, chốn ở" để "an cư lạc nghiệp" đối với đại đa số người dân có thu nhập trung bình và thấp lại càng khó khăn và phức tạp hơn nhiều. Với thu nhập bình quân của người dân Hà Nội hiện nay khoảng 72 triệu đồng/năm [15, tr. 82], trong khi giá nhà ở trung bình thấp nhất hiện nay tại thành phố Hà Nội khoảng 11,86 triệu đồng/m2 [41, tr. 84]. Như vậy để sở hữu được một căn hộ 60 m2 người mua cần có số tiền khoảng 720 triệu đồng. Điều này có nghĩa, một người ở Hà Nội phải làm việc liên tục trong 10 năm, với điều kiện không tiêu dùng, không ăn uống mới đủ tiền mua một căn nhà để ở. Khả năng tạo lập cho mình một ngôi nhà là vấn đề nan giải, nhất là đối với cán bộ công chức, người lao động có thu nhập trung bình và thấp ở các đô thị. Sự khó khăn này không phải một sớm một chiều có thể giải quyết. Trong tình thế này, giải pháp trước mắt có hiệu quả để giảm tải gánh nặng về tài chính cho người dân khi họ cần có một chỗ ở ổn định thông qua phương thức thuê nhà ở đã và đang được đánh giá là giải pháp có tính thích ứng và khả thi cao, tạo đà mở ra hướng kinh doanh mới cho thị trường bất động sản. Đánh giá được tầm quan trọng của nhà ở cho thuê, pháp luật trong thời gian gần đây đã bắt đầu ghi nhận và điều chỉnh quan hệ thuê nhà ở Trong thời gian gần đây đã bắt đầu ghi nhận và điều chỉnh quan hệ thuê nhà ở. Cụ thể: Bộ Luật Dân sự 2005 đã giành một phần 3
  7. trong Mục 5 để ghi nhận về hợp đồng thuê nhà ở. Luật nhà ở số 65/2014/QH13, Luật kinh doanh bất động sản 66/2014/QH13 với tư cách là văn bản luật chuyên ngành đã có sự thay đổi chú trọng hơn trong việc xây dựng chế định pháp lý điều chỉnh quan hệ thuê nhà ở phát triển ổn định, lành mạnh. Dù đã được quan tâm nhiều hơn về chính sách nhà trong thời gian gần đây, xong khách quan mà thừa nhận rằng, pháp luật về hợp đồng thuê nhà ở nói riêng chưa được tập trung, hiện còn quy định rải rác trong nhiều văn bản pháp luật. Các quy phạm pháp luật này chưa tạo thành một chỉnh thể thống nhất, điều chỉnh một cách toàn diện về lĩnh vực này. Trên thực tế, chế định pháp luật về hợp đồng thuê nhà ở chưa thực sự tạo ra hành lang pháp lý an toàn đảm bảo cho các bên khi tham gia quan hệ. Đây chính là nguyên nhân làm cho giao dịch thuê nhà ở trong thời gian qua xảy ra nhiều tranh chấp. Theo số liệu báo cáo tổng kết công tác xét xử các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân tối cao cho thấy trong những năm gần đây tranh chấp về hợp đồng thuê nhà không ngừng gia tăng. Năm 2009 tòa án nhân dân các cấp thụ lý 79.600 vụ việc dân sự, trong đó tranh chấp về hợp đồng thuê nhà là 688 vụ. Sau 4 năm tức là năm 2013 con số này đã tăng lên 94.932 vụ [44, tr. 84]. Các vụ tranh chấp không những gia tăng mà tính chất của nó cũng hết sức phức tạp và gay gắt. Nhiều vụ tranh chấp hợp đồng thuê nhà ở phải giải quyết đi, giải quyết lại nhiều lần. Nguyên nhân dẫn đến tranh chấp về hợp đồng thuê nhà ở phần lớn là do ý thức tuân thủ pháp luật của các chủ thể khi tham gia quan hệ. Bên cho thuê nhà ở không muốn lập hợp đồng thuê nhà ở hoặc có lập thì chỉ mang tính chất đối phó nhằm mục đích trốn tránh các nghĩa vụ tài chính với Nhà nước. Bên cạnh nguyên nhân vi phạm của các chủ thể tham gia quan hệ, sự thiếu đồng bộ trong hệ thống pháp luật điều chỉnh hợp đồng thuê nhà ở cũng đang là nguyên nhân dẫn đến sự tranh chấp về hợp đồng thuê nhà. Sự mất cân đối cung cầu dẫn đến việc nhà ở cho thuê không không đáp ứng đủ các tiêu chuẩn vẫn được đưa vào thị trường cho thuê. 4
  8. Trước thực trạng trên, việc nghiên cứu pháp luật về hợp đồng thuê nhà ở một cách có hệ thống là thực sự cần thiết và có tính cấp bách. Một mặt nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về hợp đồng thuê nhà ở. Mặt khác khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia tạo lập quỹ nhà ở cho thuê, từng bước đáp ứng nhu cầu và cải thiện chất lượng về nhà ở của người dân. Từ những căn cứ trên, tôi đã lựa chọn đề tài “Hợp đồng thuê nhà ở theo Luật Kinh doanh bất động sản 2014” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ tại Học viện Khoa học xã hội. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Hợp đồng thuê nhà ở là một chế định quan trọng trong chế định về hợp đồng của pháp luật dân sự Việt Nam. Đến nay đã có một số sách tham khảo về vấn đề này như: “Hỏi - đáp hợp đồng dân sự, hợp đồng mua bán nhà ở, hợp đồng thuê nhà ở và phương pháp giải quyết tranh chấp” của tác giả Nguyễn Việt Cường; “Bình luận các hợp đồng thông dụng trong luật dân sự Việt Nam” của tác giải Nguyễn Ngọc Điện . Ngoài ra còn một số bài viết về hợp đồng thuê nhà ở đăng trên tạp chí chuyên ngành như: Tạp chí nghiên cứu lập pháp, Tạp chí luật học nhằm làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến hợp đồng thuê nhà ở. Luận văn thạc sĩ viết về vấn đề này có công trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn Việt Cường với đề tài “Hợp đồng thuê nhà ở trong pháp luật dân sự Việt Nam”, đề tài “Hợp đồng thuê nhà ở theo quy định của pháp luật hiện hành” của tác giả Lê Thị Luyến, đề tài “Pháp luật về hợp đồng kinh doanh bất động sản ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Xuân. Các công trình nghiên cứu về hợp đồng thuê nhà ở theo các quy định của Bộ luật dân sự. Công trình của tác giả Nguyễn Việt Cường được viết năm 1996 sau khi Bộ luật dân sự 1995 có hiệu lực. Công trình nghiên cứu của tác giải Lê Thị Luyến viết năm 2011 trên cơ sở Bộ luật dân sư 2005. Do vậy đề tài nghiên cứu về “Hợp đồng thuê nhà ở theo Luật Kinh 5
  9. doanh bất đông sản 2014” là một công trình nghiên cứu đầu tiên tiếp cận theo hướng luật chuyên ngành điều chỉnh trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản nhằm mục đích hoàn thiện chế định pháp luật về hợp đồng thuê nhà ở tạo cơ sở pháp lý vững chắc, thực hiện giải pháp nhà ở cho thuê như là một hướng đi phù hợp trong điều kiện kinh tế xã hội của Việt Nam nói riêng và xu hướng phát triển trên thế giới nói chung. Khi giải pháp nhà ở cho thuê đi vào cuộc sống sẽ giảm giảm tải áp lực về tài chính cho người dân khi cần có một chỗ ở ổn định, hoàn thành mục tiêu hiến định và chính sách về nhà ở của Đảng và Nhà nước, đồng thời mở ra hướng kinh doanh mới cho thị trường bất động sản. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận về hợp đồng thuê nhà ở theo các quy định của Luật Kinh doanh bất động sản 2014. Đồng thời chỉ ra những bất cập trong quy định của pháp luật làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong hợp đồng thuê nhà ở. Trên cơ sở đó tác giả đề xuất một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật, tạo hành lang pháp lý vững chắc trong quan hệ hợp đồng thuê nhà ở. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Hợp đồng thuê nhà ở là một lĩnh vực tương đối phức tạp không chỉ đối với pháp luật Việt Nam mà ngay cả đối với các nước trong khu vực và trên thế giới. Trong phạm vi của luận văn thạc sĩ luật học, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu các bản chất pháp lý của hợp đồng thuê nhà ở theo Luật kinh doanh bất động sản số 66/2014/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 25/11/2014. Bên cạnh đó có nghiên cứu đến các quy phạm điều chỉnh hợp đồng thuê nhà ở trong Bộ luật dân sự, Luật nhà ở và các văn bản luật có liên quan nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật trong giải quyết các tranh chấp và đánh giá vai trò của chế định hợp đồng thuê nhà ở trong điều kiện kinh tế xã hội Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. 6
  10. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở phương pháp luận nghiên cứu của Luận văn là chủ nghĩa Mác - Lênin về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để giải quyết các vấn đề liên quan đến việc thuê nhà ở Việt Nam. Bên cạnh đó tác giả có vận dụng những quan điểm, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước trong sự nghiệp đổi mới về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do dân và vì dân. Luận án được thực hiện dựa trên việc áp dụng các phương pháp nghiên cứu tổng hợp như sau: - Phương pháp phân tích nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, tính phù hợp của các quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật trong vệc thuê nhà ở tại Việt Nam. - Phương pháp thống kê nhằm tập hợp, hệ thống lại các quy định của pháp luật điều chỉnh lĩnh vực thuê nhà ở. - Phương pháp so sánh, quy nạp sẽ được tác giả áp dụng nhiều trong quá trình nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ sự bất cập của các quy phạm pháp luật để từ đó đưa ra những đề xuất, giải pháp hoàn thiện pháp luật. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Về lý luận: Tác giả sẽ sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng để tiến hành nghiên cứu một cách có hệ thống các vấn đề lý luận nhằm làm sáng tỏ bản chất pháp lý về hợp đồng thuê nhà ở làm cơ sở thống nhất trong cách hiểu và áp dụng chế định pháp luật về hợp đồng thuê nhà trong thực tế. - Về thực tiễn: Việc nghiên cứu các quy định của pháp luật điều chỉnh hợp đồng thuê nhà ở được tác giả nghiên cứu một cách tổng quát và gắn liền với thực tiễn. Lấy thực tiễn là cơ sở đánh giá tính phù hợp của các quy định trong Luật kinh doanh bất động sản đối với hợp đồng thuê nhà ở. Đồng thời qua đó kiến 7
  11. nghi những giải pháp hoàn thiện chế định pháp luật về hợp đồng thuê nhà ở tạo cơ sở pháp lý vững chắc, ổn định cho các hợp đồng thuê nhà ở. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, mục lục và danh mục tham khảo, nội dung chủ yếu của luận văn được trình bày trong 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về hợp đồng thuê nhà ở và pháp luật về hợp đồng thuê nhà ở Chương 2: Thực trạng pháp luật về hợp đồng thuê nhà ở theo Luật Kinh doanh bất động sản 2014 Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về hợp đồng thuê nhà ở 8
  12. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG THUÊ NHÀ Ở VÀ PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG THUÊ NHÀ Ở 1.1. Những vấn đề lý luận chung về hợp đồng thuê nhà ở 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của nhà ở 1.1.1.1. Khái niệm nhà ở. Trong xã hội hiện đại, nhà ở là tư liệu sinh hoạt và là nhu cầu thiết yếu của mỗi cá nhân, mỗi gia đình. Nhà ở không chỉ là một vật thể kiến trúc thông thường bảo đảm nhu cầu ở của con người mà nó còn là vật thể biểu thị các giá trị văn hóa, lịch sử của một dân tộc, một quốc gia. Cũng chính vì vậy mà ở bất kì quốc gia nào cũng đều rất quan tâm đến vấn đề nhà ở thông qua việc ban hành các chính sách pháp luật của Nhà nước, tạo khung pháp lý an toàn cho người dân thực hiện các giao dịch về nhà ở nói riêng. Ở nước ta, thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đại hội lần thứ XI của Đảng và theo quy định tại Điều 59 Hiến pháp 2013 thì Nhà nước phải có chính sách để phát triển mạnh nhà ở cho nhân dân, tạo điều kiện để mọi người dân có chỗ ở, nhất là cho các đối tượng chính sách và người thu nhập thấp. Thể chế hoá đường lối của Đảng và nội dung đã được hiến định trong Hiến pháp 2013, các quy định về nhà ở được nhà nước ghi nhận trong Bộ luật Dân sự 2005 cũng như Bộ luật dân sự 2015, Luật nhà ở 2014, Luật kinh doanh bất động sản 2014 và các văn bản pháp luật có liên quan. Vậy khái niệm nhà ở được hiểu như thế nào? Theo Đại từ điển Tiếng Việt thì nhà ở là “chỗ ở và sinh hoạt của một gia đình” [43 tr 84]. Và tùy thuộc vào góc độ tiếp cận nghiên cứu, nhà ở được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau: Dưới góc độ triết học, nhà ở là lượng vật chất định hình kiến trúc, đồng bộ và mang tính văn hóa. Theo phạm trù xã hội học thì nhà ở là phương tiên đáp 9
  13. ứng nhu cầu ở của con người; còn dưới góc độ kinh tế học thì nó là khối tài sản thường có giá trị lớn trong tổng tài sản quốc gia. Dưới góc độ xây dựng: Nhà ở là sản phẩm của hoạt động xây dựng và không gian bên trong có các tổ chức được ngăn cách với môi trường bên ngoài và được dùng để ở. Tiếp cận từ góc độ kinh tế, xã hội: Nhà ở là tài sản có giá trị đặc biệt đối với đời sống con người, là bộ phận quan trọng bảo vệ con người trước các hiện tượng tự nhiên. Tiếp cận từ góc độ pháp luật: “Nhà ở là công trình xây dựng với mục đích để ở và phục vụ các nhu cầu sinh hoạt của hộ gia đình, cá nhân” [26, tr. 83]. Như vậy, có thể thấy, dù ở góc độ nghiên cứu nào thì nhà ở đều là nơi phục vụ nhu cầu thiết yếu của con người. Không những vậy, nhà ở còn là một tài sản, một bất động sản có giá trị đặc biệt đối với cá nhân và là đối tượng đặc biệt luôn gắn với đất đai, một loại tài sản luôn gắn với quyền sở hữu của Nhà nước mà cá nhân chỉ có quyền sử dụng. 1.1.1.2. Đặc điểm của nhà ở. Từ khái niệm nêu trên, có thể khái quát những đặc điểm chính của nhà ở như sau: Thứ nhất, nhà ở được lập ra với mục đích là để ở hoặc phục vụ nhu cầu sinh hoạt của con người. Đó chính là không gian cư trú, sinh sống của cá nhân hoặc của các thành viên trong gia đình. Nó không chỉ có giá trị vật chất mà còn mang giá trị tinh thần đối với mỗi thành viên sinh sống trong ngôi nhà ấy. Thứ hai, nhà ở được cố định với một vị trí địa lý và không thể dịch chuyển được. Nhà ở luôn gắn với đất đai - một loại tài sản đặc biệt nên về cơ bản là không thể dịch chuyển được, vì vậy mà nhà ở cũng được coi là một loại bất động sản. Thứ ba, nhà ở là một loại tài sản có giá trị lớn bởi nhà ở là một dạng của bất động sản có tính bền vững, thời gian sử dụng dài, hao mòn chậm. 10
  14. Thứ tư, Nhà ở rất đa dạng phong phú cả về chất lượng và số lượng. Đặc điểm này xuất phát từ sự đa dạng của các tầng lớp dân cư, dân tộc, sự chế ngự thiên nhiên, điều kiện tự nhiên và sự ứng dụng khoa học kỹ thuật. 1.1.1.3. Phân loại nhà ở Nhà ở là một tài sản đặc biệt luôn gắn với đất đai. Mục đích của nhà ở là phục vụ sinh hoạt cho cá nhân và gia đình và luôn gắn với nhu cầu thiết yếu của con người. Căn cứ dựa trên những tiêu chí là đối tượng và mục đích sử dụng, Điều 3 Luật nhà ở 2014 hướng dẫn phân loại cụ thể các loại nhà ở như sau [26, tr. 83]: Căn cứ vào đối tượng, nhà ở được phân chia thành nhà ở riêng lẻ và nhà chung cư: Nhà ở riêng lẻ là nhà ở được xây dựng trên thửa đất ở riêng biệt thuộc quyền sử dụng hợp pháp của tổ chức, cá nhân, hộ gia đình. Nhà ở riêng lẻ bao gồm nhà biệt thự, nhà ở liền kề và nhà ở độc lập. Nhà chung cư là nhà có từ 2 tầng trở lên, có nhiều căn hộ, có lối đi, cầu thang chung, có phần sở hữu riêng, phần sở hữu chung và hệ thống công trình hạ tầng sử dụng chung cho các hộ gia đình, cá nhân, tổ chức. Nhà chung cư bao gồm nhà chung cư được xây dựng với mục đích để ở và nhà chung cư được xây dựng có mục đích sử dụng hỗn hợp để ở và kinh doanh. Căn cứ theo mục đích sử dụng, nhà ở được phân chia thành nhà ở thương mại và nhà ở chính sách (nhà ở công vụ; nhà ở xã hội và nhà ở tái định cư): Nhà ở thương mại là nhà ở được đầu tư xây dựng để bán, cho thuê, cho thuê mua theo cơ chế thị trường. Nhà ở công vụ là nhà ở được dùng để cho các đối tượng thuộc diện được ở nhà công vụ theo quy định của pháp luật và được thuê trong thời gian đảm nhận chức vụ, công tác. Nhà ở để phục vụ tái định cư là nhà ở để bố trí cho các hộ gia đình, cá nhân thuộc diện được tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ở, bị giải tỏa nhà ở theo quy định của pháp luật. 11
  15. Nhà ở xã hội là nhà ở có sự hỗ trợ của Nhà nước cho các đối tượng được hưởng chính sách hỗ trợ về nhà ở theo quy định của Luật này. 1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của thuê nhà ở 1.1.2.1. Khái niệm thuê nhà ở. Để đưa ra một khái niệm toàn diện và đầy đủ về thuê nhà ở, trước hết cần phải hiểu nghĩa của từ “thuê” là gì? Trong Đại từ điển tiếng Việt “thuê” được hiểu là “mượn người làm hoặc mượn vật gì đó để sử dụng một thời gian theo thỏa thuận” [43, tr. 84]. “Mượn” được hiểu “xin phép, tạm dùng của người khác trong một thời gian nhất định” [43, tr. 84]. Như vậy để một quan hệ thuê được xác lập cần phải có ít nhất hai bên gồm: bên cho thuê và bên thuê tài sản. Các chủ thể này tạo lập quan hệ dựa trên nhu cầu và sự đồng thuận của các bên. Thuê nhà ở là được hình thành từ sự thỏa thuận của các bên để thỏa mãn nhu cầu trao đổi trong đời sống xã hội. Thuê nhà ở là việc bên cho thuê chuyển giao quyền sử dụng nhà cho bên thuê sử dụng nhà vào mục đích để ở trong một thời hạn nhất định và được nhận tiền cho thuê nhà một lần hoặc nhiều lần từ bên thuê. 1.1.2.2. Đặc điểm của thuê nhà ở. Thuê nhà ở là một dạng đặc thù của giao dịch thuê tài sản. Do vậy thuê nhà ở có những đặc điểm sau: Thứ nhất, thuê nhà ở là giao dịch có chuyển giao quyền sử dụng tài sản. Bên cho thuê có quyền sử dụng nhà ở. Quyền sử dụng nhà ở có thể được xác lập theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Bên cho thuê nhà chuyển giao quyền sử dụng nhà cho bên thuê trong một thời gian nhất định. Bên thuê nhà nhận quyền sử dụng nhà trong một thời gian nhất định. Như vậy, quan hệ thuê nhà ở là quan hệ song vụ, tính song vụ của quan hệ này thể hiện ở chỗ các bên đều có quyền và nghĩa vụ đối nhau, quyền của bên này tương ứng với nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. 12
  16. Thứ hai, thuê nhà ở là quan hệ có đền bù. Tùy theo thỏa thuận, bên đi thuê phải trả cho bên cho thuê một khoản tiền nhất định gọi là tiền thuê nhà khi nhận được quyền sử dụng nhà vào mục đích để ở. Quan hệ thuê nhà ở sẽ hoàn toàn khác với quan hệ thừa kế hay tặng cho nhà ở, khi bên chuyển quyền sở hữu sẽ không nhận được một lợi ích vật chất tương ứng từ bên nhận quyền sở hữu và người được thừa kế hay tặng cho không phải thực hiện một nghĩa vụ tài sản nào khác đối với người thừa kế, tặng cho nhà ở. Như vậy, trong quan hệ thuê nhà ở, khi một bên đã thực hiện cho bên kia một lợi ích thì sẽ nhận được từ phía bên kia một lợi ích tương ứng. Đây chính là sự cụ thể hóa của nguyên tắc đền bù ngang giá trong giao lưu dân sự để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên khi tham gia giao dịch. Thứ ba, quan hệ thuê nhà ở được xác lập trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng. Giao kết giao dịch dân sự trên cơ sở bình đẳng, tự nguyện là một đặc điểm pháp lý quan trọng của các giao dịch dân sự nói chung và quan hệ thuê nhà ở nói riêng. Và mục đích của việc thực hiện giao dịch dân sự này là nhằm thuê nhà để ở. 1.1.3. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng thuê nhà ở 1.1.3.1. Khái niệm về hợp đồng thuê nhà ở Hợp đồng thuê nhà ở là một dạng của hợp đồng thuê tài sản. Do vậy, hợp đồng thuê nhà ở được hiểu là một giao dịch dân sự được hình thành từ sự thỏa thuận đi đến thống nhất ý chí giữa các bên nhằm làm phát sinh, thay đổi chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự. Hiểu theo cách khác, việc giao kết hợp đồng thuê nhà ở giữa bên cho thuê nhà và bên thuê nhà phải tuân thủ các nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, trung thực, không được trái pháp luật và đạo đức xã hội. Nội dung thỏa thuận nhằm hướng tới việc bên cho thuê nhà chuyển giao quyền sử dụng nhà cho bên thuê và yêu cầu bên thuê trả lại cho bên cho thuê một lợi ích vật chất nhất định gọi là tiền thuê nhà. Bên thuê nhà được quyền sử dụng nhà vào mục đích để ở trong một thời gian nhất định do các bên thỏa thuận. 13
  17. Thỏa thuận là “đi tới sự đồng ý sau khi cân nhắc, thảo luận” [43, tr. 84]. Sự thỏa thuận của các bên được thực hiện trên cơ sở tự nguyện, bình đăng, kết quả cuối cùng được thể hiện ở chỗ, các nội dung ghi nhận trong hợp đồng đều phải được các bên xem xét, thỏa thuận dung hoà hoặc được chấp nhận vì lợi ích của các bên. Nội dung thỏa thuận nhằm hướng tới mục đích bên cho thuê nhà chuyên giao tài sản là quyền sử dụng nhà cho bên thuê và nhận lợi ích vật chất nhất định gọi là tiền thuê nhà từ bên thuê. Bên thuê nhà nhận quyền sử dụng nhà từ bên cho thuê để sử dụng vào mục đích ở. Hợp đồng thuê nhà ở ngoài yếu tố tự do thỏa thuận của các bên, quan hệ thuê nhà ở còn mang tính chất chính trị xã hội. Do vậy, hợp đồng thuê nhà ở còn chịu sự điều chỉnh của Bộ luật dân sự, Luật nhà ở và Luật kinh doanh bất động sản. Trong Bộ luật dân sự cũng như các luật chuyên ngành không có khái niệm riêng về hợp đồng thuê nhà ở nhưng qua các quy định chung, hợp đồng thuê nhà ở được định nghĩa như sau: Hợp đồng thuê nhà ở là sự thỏa thuận bằng văn bản nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ giữa bên cho thuê và bên thuê, theo đó bên cho thuê chuyển giao nhà ở cho bên thuê sử dụng để ở trong một thời hạn nhất định và được nhận tiền thuê nhà từ bên thuê. 1.1.3.2. Đặc điểm của hợp đồng thuê nhà ở Hợp đồng thuê nhà ở là một loại hợp đồng dân sự nhằm mục tiêu thực hiện việc chuyển giao quyền sử dụng nhà ở từ bên cho thuê sang bên thuê. Do đó, hợp đồng thuê nhà ở có các đặc điểm sau: Thứ nhất, hợp đồng thuê nhà ở được xác lập trên cơ sở thỏa thuận theo đó, quyền và nghĩa vụ của bên cho thuê và bên thuê nhà ở phát sinh khi các bên đã có đã thống nhất thỏa thuận về nội dung của hợp đồng. Nói cách khác, hợp đồng chỉ được giao kết khi bên đề nghị nhận được sự chấp nhận giao kết của bên được đề nghị. “Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản” [23, tr.82]. 14
  18. Thứ hai, hợp đồng thuê nhà ở là hợp đồng song vụ. Đặc điểm song vụ của hợp đồng thuê nhà ở thể hiện ở chỗ: Bên cho thuê nhà và bên thuê nhà đều có quyền và nghĩa vụ. Quyền của bên cho thuê tương ứng với nghĩa vụ của bên thuê và ngược lại. Thứ ba, hợp đồng thuê nhà ở là hợp đồng có đền bù. Theo thỏa thuận, bên thuê nhà phải trả cho bên cho thuê nhà một khoản tiền. Khoản tiền này là sự bù đắp của bên thuê trả cho bên cho thuê khi khai thác sử dụng nhà ở của bên cho thuê. Để làm rõ đặc điểm pháp lý của hợp đồng thuê nhà ở cần phân biệt rất rõ hợp đồng này với những loại hợp đồng khác. Cụ thể như sau: Thứ nhất, mục đích của hợp đồng thuê nhà ở và hợp đồng mua bán nhà ở là khác nhau. Theo đó, hợp đồng cho thuê có mục đích chuyển quyền sử dụng nhà còn hợp đồng mua bán thì có mục đích chuyển quyền sở hữu đối với nhà. Như vậy, đối với hợp đồng mua bán nhà ở thì quyền sở hữu bao gồm cả quyền sử dụng được chuyển giao “hoàn toàn”, còn đối với hợp đồng thuê nhà ở thì chỉ chuyển quyền sử dụng nhà. Măt khác, cũng cần lưu ý rõ Luật kinh doanh bất động sản điều chỉnh các hợp đồng có đối tượng là bất động sản mà chủ thể hướng tới mục đích kinh doanh. Như vậy, mục đích sử dụng nhà của bên thuê sẽ quyết định bản chất của hợp đồng thuê. Nếu bên thuê sử dụng nhà như một tư liệu sản xuất để đưa vào khai thác kinh doanh thu lợi nhuận thì đó là hợp đồng thuê khoán, nếu bên thuê sử dụng nhà thuê để ở hay sử dụng nhà vào mục đích khác (có tính chất tương tự như để ở chứ không phải nhằm mục đích khai thác kinh doanh) thì đó là hợp đồng thuê nhà ở. Điểm phân biệt này sẽ dẫn đến quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng hoàn toàn khác nhau. Đối với quyền và nghĩa vụ trong trường hợp được xác định là hợp đồng thuê nhà ở sẽ được phân tích rõ trong chương 2. Còn đối với trường hợp được xác định bản chất là hợp đồng thuê khoán thì giao dịch này sẽ hình thành một hợp đồng cho thuê lại nhà. Trong hợp đồng này một chủ thể có hai tư cách vừa là bên 15
  19. thuê và vừa là bên cho thuê. Việc cho thuê lại này phải có sự đồng ý của bên cho thuê nhà ban đầu (đó là chủ sở hữu nhà cho thuê hoặc người có quyền cho thuê nhà theo ủy quyền của chủ sở hữu hoặc theo quy định của pháp luật) và phạm vi quyền và hiệu lực quyền của bên cho thuê lại phụ thuộc vào phạm vi và hiệu lực mà họ có được từ hợp đồng thuê với chủ sở hữu của nhà. Như vậy, trong trường hợp này, hợp đồng thuê nhà và hợp đồng cho thuê lại nhà là hợp đồng chính và hợp đồng phụ. Theo đó, nếu hợp đồng thuê nhà mà vô hiệu thì hợp đồng cho thuê lại nhà cũng bị chấm dứt theo nhưng ngược lại, hợp đồng cho thuê lại nhà vô hiệu không ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng thuê nhà ban đầu [23, tr.82]. Thứ hai, cần phân biệt giữa hợp đồng thuê nhà ở và hợp đồng thuê mua nhà ở. Hợp đồng “thuê mua nhà, công trình xây dựng là thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên thuê mua thanh toán trước cho bên cho thuê mua một khoản tiền và được sử dụng nhà, công trình xây dựng đó; số tiền còn lại được tính thành tiền thuê; sau khi đã thanh toán đủ số tiền thuê mua thì bên thuê mua trở thành chủ sở hữu đối với nhà, công trình xây dựng đó [27, tr. 83]. Như vậy, hợp đồng thuê mua nhà là một dạng hợp đồng hỗn hợp vừa mang bản chất là hợp đồng mua vừa mang bản chất là hợp đồng thuê và trong hợp đồng các bên xác định tỷ lệ thuê và tỷ lệ mua trên tổng giá trị của tài sản. Theo quy định tại Khoản 17 Điều 3 Luật Nhà ở 2014 thì tỷ lệ này là 20% (tỷ lệ mua) và 80% (tỷ lệ thuê). Chính bởi đặc điểm pháp lý khác nhau, nên với hợp đồng thuê nhà ở các bên có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng, còn đối với hợp đồng cho thuê mua thì trong thời hạn thuê mua thì một bên không được tự ý đơn phương chấm dứt hợp đồng. Pháp luật cho phép các bên có thể thỏa thuận rút ngắn thời hạn thuê và thường bên thuê mua phải chịu một khoản phí trả trước thời hạn. 1.1.3.3. Phân loại hợp đồng thuê nhà ở Hợp đồng thuê nhà ở rất đa dạng, dựa vào mỗi một loại căn cứ ta có thể phân hợp đồng thuê nhà ở thành những loại sau: - Phân loại theo đối tượng hợp đồng thuê nhà 16