Luận văn Hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu và hậu quả phát sinh
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu và hậu quả phát sinh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_hop_dong_mua_ban_hang_hoa_vo_hieu_va_hau_qua_phat_s.pdf
Nội dung text: Luận văn Hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu và hậu quả phát sinh
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT BÙI THỊ BÍCH TRÂM HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA VÔ HIỆU VÀ HẬU QUẢ PHÁT SINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2014
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT BÙI THỊ BÍCH TRÂM HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA VÔ HIỆU VÀ HẬU QUẢ PHÁT SINH Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Lê Văn Bính Hà Nội – 2014
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Bùi Thị Bích Trâm
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 6 CHƢƠNG 1 :NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA VÔ HIỆU VÀ HẬU QUẢ PHÁT SINH 12 1.1. Khái niệm về hợp đồng mua bán hàng hóa và hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu 12 1.1.1.Về hợp đồng nói chung 12 1.1.2.Về hợp đồng mua bán hàng hóa. 13 1.1.3. Khái niệm về hợp đồng và hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu 16 1.2.Hậu quả phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu 20 CHƢƠNG 2 :THỰC TRẠNG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA VÔ HIỆU VÀ HẬU QUẢ PHÁT SINH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM 35 2.1. Hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu theo pháp luật Việt Nam 35 2.1.1. Hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu lực theo pháp luật Việt Nam 35 2.1.2. Hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu và xử lý hợp đồng vô hiệu theo pháp luật Việt Nam. 36 2.2. Pháp luật liên quan đến xử lý hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu 50 2.3. Một số ví dụ về hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu 67 2.4. Hậu quả phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu 74 2.4.1. Hậu quả pháp lý chung đối với giao dịch dân sự vô hiệu 74 2.4.2. Hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu trong trường hợp tài sản đã được chuyển giao cho người thứ ba ngay tình 77 CHƢƠNG 3 :MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA VÔ HIỆU VÀ HẬU QUẢ PHÁT SINH 80 3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa 80 3.2.1. Một số vấn đề cần chú ý khi giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa 80 3.2.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa và xử lý hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu 91 KẾT LUẬN 97 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 99
- DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT STT Ký hiệu Nguyên nghĩa 1. CIF Cost Insurance and Freight 2. L/C Letter of credit 3. Grainco Công ty xuất nhập khẩu ngũ cốc 4. UNIDROIT Nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế 5. VASS Công ty cổ phần bảo hiểm Viễn Đông
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam đang phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việt Nam đã thừa nhận đa hình thức sở hữu, đa hình thức kinh doanh. Cùng với sự đa dạng của các hình thái kinh tế là sự phong phú trong các hình thức hợp đồng hay thỏa thuận giữa các chủ thể kinh doanh về một lĩnh vực nào đó, ví dụ như hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước và quốc tế. Tùy thuộc vào lĩnh vực kinh doanh và đối tượng kinh doanh mà các bên giao kết hợp đồng (chủ thể của các loại hợp đồng này có thể là thương nhân hoặc nhà nước) đặt tên gọi cho từng loại hợp đồng cụ thể với các tên gọi khác nhau, ví dụ như: khế ước, thỏa thuận, giao ước, giao kèo, hiệp ước, hiệp định v.v Luật Thương mại năm 2005 đã được Quốc hội Việt Nam ban hành ngày 14/11/2005 quy định về hoạt động thương mại, luật đã chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/2006 và thay thế cho luật thương mại năm 1997. Luật thương mại năm 2005 đã tạo ra một hành lang pháp lý cho các thương nhân trong hoạt động thương mại. Khác với luật thương mại năm 1997, luật thương mại năm 2005 đã quy định khá đầy đủ và cụ thể về mua bán hàng hóa và về hợp đồng mua bán hàng hóa. Tuy nhiên, để ký kết các hợp đồng mua bán hàng hóa tuân thủ các quy định của pháp luật, tránh các trường hợp ký kết hợp đồng vô hiệu đòi hỏi các bên, các thương nhân cần có sự tiếp cận luật để nghiên cứu thấu đáo về các nội dung cần thiết phục vụ cho việc ký kết hợp đồng nói chung và hợp đồng mua bán hàng hóa nói riêng, tránh ký kết hợp đồng vô hiệu, hạn chế những tổn hại về thời gian và về kinh tế. Xuất phát từ tầm quan trọng của việc ký kết hợp đồng nói chung và hợp đồng mua bán hàng hóa nói riêng, học viên đã chọn nghiên cứu đề tài “Hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu và hậu quả phát sinh“ làm luận văn tốt nghiệp. Đề tài đi sâu nghiên cứu để trả lời những câu hỏi về hợp đồng nói chung, về hợp đồng vô hiệu là gì, nó có hệ quả gì đối với các bên ký kết và đối với nền kinh tế và với toàn xã hội, vì sao lại có hợp hồng mua bán hàng hóa vô hiệu và việc kiểm soát như thế nào, thực tiễn quy định của pháp luật trong và ngoài nước về hợp đồng vô hiệu, cơ sở lý luận 6
- và bài học kinh nghiệm gì cho các thương nhân tránh ký kết hợp đồng vô hiệu và kiến nghị hoàn thiện pháp luật. Trong hội nhập quốc tế hiện nay, việc nghiên cứu hợp đồng mua hán hàng hóa vô hiệu không thể không đề cập đến hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế hay hợp đồng mua bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài có hiệu lực và vô hiệu, trong quá trình thực hiện luận văn tác giả sẽ đề cập và so sánh đối với loại hình hợp đồng mua bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài này. Việc nghiên cứu toàn diện và có hệ thống từ những vấn đề lý luận, thực tiễn về hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu và hậu quả pháp sinh là một vấn đề mang tính thời sự, có ý nghĩa quan trọng nhằm góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp giữa các bên của hợp đồng trong hoạt động thương mại hay kinh doanh thương mại. Đồng thời, việc đi sâu nghiên cứu chế độ trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa sẽ phần nào giúp cho các thương nhân hay các loại hình doanh nghiệp Việt Nam hiểu rõ, vận dụng có hiệu quả pháp luật trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa. Từ đó đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực này. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Về hợp đồng nói chung, hợp đồng mua bán hàng hóa nói riêng đã đề cập trong nhiều văn bản pháp luật quốc gia trong nước và ngoài nước, trong pháp luật quốc tế, trong các công trình nghiên cứu của các tác giả khác nhau. Ví dụ: Pháp luật trong nước như: Bộ luật Dân sự năm 2005; Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011); Luật Thương mại năm 2005; Luật Doanh nghiệp năm 2005; Luật Hàng không dân dụng Việt Nam năm 2006; Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994; Các văn bản hướng dẫn thực hiện các luật và pháp lệnh nói trên; Nghị quyết số 04/2003/NQ-HĐTP ngày 27/5/2003 của Hội đồng thẩm phán TANDTC về Hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong việc giải quyết các vụ án kinh tế; v.v ; Pháp luật nước ngoài như: Bộ luật Dân sự Pháp năm 1804; Bộ Luật thương mại Thống nhất Hoa Kỳ UCC (Uniform Commercial Code); Luật bán hàng của Anh; Luật Hợp đồng Trung Quốc năm 1999; Bộ luật Dân sự của Nga năm 1994; Bộ 7
- luật Dân sự của Québec, Canada, năm 1994; Những quy định chung của Luật Hợp đồng ở Pháp, Anh, Mỹ, Đức; v.v ; Trong luật quốc tế như: Công ước Viên về hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa năm 1980; Công ước New York năm 1958 về công nhận và thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài; Bộ nguyên tắc của UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế năm 2004; 50 phán quyết trọng tài quốc tế chọn lọc. Hà Nội, năm 2002; Công ước Rome ngày 19/6/1980 về xác định luật áp dụng đối với nghĩa vụ hợp đồng; Tập quán INCOTERMS năm 2010; v.v ; Trong các ấn phẩm và bài viết khác như: Giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại quốc tế, nhận dạng tranh chấp, biện pháp ngăn ngừa và phương pháp giải quyết. NXB CTQG. Hà Nội, 2010; Đại cương về pháp luật hợp đồng của Dịch giả Trần Đức Sơn (Bản dịch tiếng Việt của Nhà pháp luật Việt - Pháp). NXB Văn hóa thông tin Hà Nội, 2002; Những vấn đề cơ bản về Liên minh châu Âu và pháp luật cộng đồng châu Âu (Nhà pháp luật Việt - Pháp). NXB Văn hóa - Thông tin. Hà Nội, 2002; Trọng tài và các phương thức giải quyết tranh chấp lựa chọn - Giải quyết các tranh chấp thương mại như thế nào của Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam; Bài viết của Đỗ Văn Đại về “Nhầm lẫn trong chế định hợp đồng: Những bất cập và hướng sửa đổi Bộ luật Dân sự” đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp. Số 22(11/ 2009) và Số 23 (12/2009); Dương Anh Sơn và Nguyễn Ngọc Sơn với bài viết về “Tác động của các hình thức lỗi đến việc xác định trách nhiệm hợp đồng nhìn từ góc độ trung thực và thiện chí” đăng trên Tạp chí Khoa học Pháp lý, số 1(38)/2007; Ví dụ về hợp đồng vô hiệu đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 5/2005; Nguyễn Như Phát viết về “Điều kiện thu hút sự tham gia của các nhà khoa học vào hoạt động xây dựng pháp luật” đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 10/2006; v.v ; Trong các giáo trình như: Giáo trình Luật Hợp đồng (Phần chung) và Giáo trình Luật Thương mại (Phần chung và Thương nhân). NXB ĐHQG Hà Nội, 2013 của PGS.TS. Ngô Huy Cương; Giáo trình Thương mại quốc tế. NXB CTQG. Hà Nội, 2005 của PGS.TS. Nguyễn Bá Diến; Việt Nam dân luật lược khảo. Quyển II – Nghĩa vụ và khế ước. In lần thứ nhất, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản. Sài Gòn, 1963 của Vũ Văn Mẫu; Giáo trình Luật hợp đồng thương mại quốc tế. NXB ĐHQG Tp. Hồ Chí Minh, 2005; Giáo trình Luật Dân sự Liên bang Nga. NXB Prospect. Tập 1. 8
- M, 2000; Gusev. A.N. Bình luận BLDS Liên bang Nga. NXB INFRA. M, 2000; Konrad Zweigert, Hein Kotz. So sánh luật trong lĩnh vực tư pháp. Tập 2, NXB Quan hệ quốc tế. M, 1998; Anson V. Law of Contract, p.203; v.v Như vậy, về hợp đồng vói chung và hợp đồng mua bán hàng hóa và các vấn đề khác có liên quan đến hợp đồng đã được nghiên cứu ở rất nhiều cấp độ khá nhau. Tuy nhiên, đề tài “Hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu và hậu quả phát sinh“ nếu xét trên góc độ và theo hướng nghiên cứu của đề tài, thì hiện tại chưa có một công trình nghiên cứu nào đề cập một cách toàn diện và tổng thể dưới góc độ sách chuyên khảo. Do dó, việc lựa chọn chuyên đề này để nghiên cứu chuyên sâu hơn là cần thiết và luôn có tính mới cả về lý luận và thực tiễn. 3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài Mục đích nghiên cứu của đề tài: Làm sáng tỏ bản chất của hợp đồng nói chung và hợp đồng mua bán hàng hóa nói riêng, nghiên cứu hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu, nguyên nhân, hậu quả phát sinh và hướng hắc phục. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài: - Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận chung về hợp đồng nói chung và hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu nói riêng; - Phân tích và so sánh các căn cứ làm phát sinh hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu theo Luật thương mại Việt Nam năm 2005 và các văn bản có liên quan, có so sánh với quy định Công ước Viên năm 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế và pháp luật một số nước, pháp luật khu vực; - Rút ra một số điểm còn bất cập, chưa hợp lý của pháp luật Việt Nam điều chỉnh về hợp đồng, hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu; - Kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật Việt Nam nhằm loại bỏ việc ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu và các biện pháp khắc phục hậu quả phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của của Chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối và chính sách của Đảng và Nhà nước về pháp luật, về hội nhập quốc tế, về phát triển và hợp tác kinh tế. 9
- Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đề tài đặc biệt coi trọng các phương pháp hệ thống, lịch sử, logic, tổng hợp, phân tích, diễn giải, quy nạp và so sánh pháp luật. 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài Những phân tích, đánh giá và kiến nghị của đề tài có ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong việc ký kết hợp đồng nói chung và hợp đồng mua bán hàng hóa nói riêng, giúp hạn chế rủi ro, tránh tối đa nguyên nhân phát sinh của hợp đồng vô hiệu và tranh chấp phát sinh trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng; So sánh pháp luật giữa các quốc gia khác nhau và luật quốc tế về lĩnh vực đề tài nghiên cứu nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hợp đồng. Đề tài cũng giúp các thương nhân (doanh nghiệp) Việt Nam hiểu và vận dụng đúng pháp luật trong quá trình ký kết hợp đồng và hợp đồng mua bán hàng hóa. 6. Những đóng góp mới của đề tài Đề tài luận văn là công trình được nghiên cứu một cách tổng thể các vấn đề về lý luận và thực tiễn về hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu và hậu quả phát sinh từ loại hợp đồng này. Kết quả của đề tài có thể được dùng làm phương tiện tham khảo nhằm ngăn chặn nguyên nhân phát sinh hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu, cũng như tham khảo cho việc giải quyết hậu quả phát sinh từ hợp đồng vô hiệu. Trên cơ sở nghiên cứu pháp luật quốc gia có so sánh với pháp luật nước ngoài và pháp luật quốc tế về hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu, các kiến nghị và giải pháp mà luận văn đưa ra (để sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các quy định hiện hành về nguyên nhân làm phát sinh và phương thức giải quyết hậu quả của hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu) có thể làm nguồn tư liệu tham khảo cho các cơ quan nhà nước, cho công tác giảng dạy, nghiên cứu và học tập tại các cơ sở đào tạo luật. 7. Bố cục của luận văn Luận văn ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được kết cấu làm 3 chương: Chương I: Những vấn đề lý luận về hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu và hậu quả phát sinh; 10
- Chương II: Thực trạng hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu và hậu quả phát sinh theo pháp luật Việt Nam; Chương III: Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu và hậu quả phát sinh. Trong đó Chương 1 đã khái quá hóa lý luận về các loại hợp đồng nói chung và hợp đồng mua bán hàng hóa nói riêng làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn trong việc phát sinh hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu. Chương 2 đi sâu phân tích thực trạng các vấn đề về nội dung cơ bản của hợp đồng và hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu, cũng như phương thức xử lý hợp đồng vô hiệu. Trong chương này có đề cập đến các ví dụ làm minh chứng cho hợp đồng vô hiệu. Chương cuối đề cập đến hậu quả phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu, nghiên cứu việc giải quyết quyền và nghĩa vụ giữa hai bên: bên mua và bên bán hàng hóa theo hợp đồng, đưa ra các giải pháp nhằm giúp cho các bên hợp đồng tránh được việc ký kết các hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu. 11
- CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA VÔ HIỆU VÀ HẬU QUẢ PHÁT SINH 1.1. Khái niệm về hợp đồng mua bán hàng hóa và hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu 1.1.1.Về hợp đồng nói chung Chế định hợp đồng là một trong những chế định ra đời sớm nhất trong hệ thống pháp luật. Kể từ khi loài người có nhu cầu hoạt động giao lưu, trao đổi với nhau, thì đó cũng chính là lúc làm xuất hiện hợp đồng, mặc dù hợp đồng trong thời buổi này còn rất sơ khai và có thể nói là đang ở dạng đơn giản nhất. Về cơ sở pháp lý, hợp đồng là một trong những chế định quan trọng nhất trong hệ thống pháp luật, nhất là trong pháp luật dân sự và pháp luật kinh doanh. Luật hợp đồng cũng bao hàm nhiều kỹ thuật pháp lý nhất trong khoa học pháp lý. Vì vậy, các quy định về hợp đồng luôn luôn chiếm một số lượng lớn trong các đạo luật thuộc lĩnh vực luật tư. Hợp đồng là một sự thỏa thuận giữa các bên của hợp đồng về việc sẽ thực hiện hay không thực hiện một điều gì đó. Hợp đồng là một phương tiện rất quan trọng giúp cho con người thỏa mãn các nhu cầu trong sinh hoạt hàng ngày, nó đáp ứng gần như tất cả các nhu cầu thiết yếu của con người không chỉ trong phạm vi lãnh thổ của một quốc gia, mà còn trên phạm vi của cả cộng đồng quốc tế. Chính hợp đồng đã tham gia tích cực góp phần gìn giữ và bảo vệ hòa bình, duy trì sự ổn định quốc tế vì các điều ước quốc tế nói chung nếu xét về bản chất cũng chính là các hợp đồng hay có bản chất hợp đồng. Khi con người hay quốc gia có nhu cầu trao đổi hàng hóa với nhau đương nhiên cần dựa trên cơ sở hợp đồng, mà cụ thể ở đây là hợp đồng mua bán hàng hóa có thể trong phạm vi một quốc gia hay hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế giữa các quốc gia, tức là trên phạm vi quốc tế. Một hợp đồng có tính logic có nghĩa là nó có sự ràng buộc về mặt pháp lý và có hiệu lực. Mỗi điểm, 12
- khoản, điều luật được thỏa thuận trong hợp đồng đều phải rõ ràng, có chủ thể đi kèm để tránh những tranh chấp và kiện tụng có thể xảy ra. Chúng ta biết rằng khi có tranh chấp hợp đồng và dẫn tới việc kiện cáo sẽ rất tốn kém nhưng lại không hiệu quả để giải quyết các tranh chấp về hợp đồng khi có sự xuất hiện của cơ quan tài phán vì các bên sẽ mất đi quyền kiểm soát mọi vấn đề liên quan đến tranh chấp khi với sự xuất hiện toà án. 1.1.2.Về hợp đồng mua bán hàng hóa. Hợp đồng mua bán hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó nội dung hợp đồng ghi nhận về các quyền và nghĩa vụ của bên bán và bên mua, tức là: bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận. Hợp đồng mua bán hàng hóa có bản chất chung của hợp đồng, nó là sự thỏa thuận nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong quan hệ mua bán. Hàng hóa ở đây được hiểu là động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai, và các vật gắn liền với đất. Như vậy, hàng hóa thuộc tài sản và có phạm vi hẹp hơn tài sản. Từ đó cho thấy, hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại là một dạng cụ thể của hợp đồng mua bán tài sản. Điểm phân biệt giữa hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại và hợp đồng mua bán tài sản khác là: đối tượng là hàng hóa và vì mục đích sinh lời. Như vậy, chúng ta có thể tạm thời đưa ra khái niệm về hợp đồng mua bán hàng hóa như sau: Hợp đồng mua bán hàng hóa là hợp đồng được xác lập (hay ký kết) giữa các bên (bên mua và bên bán), thỏa mãn về hình thức theo quy định của luật, trong đó đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa là hàng hóa được phép mua bán theo quy định của pháp luật. 13
- Căn cứ vào yếu tố chủ thể, đối tượng, nơi xác lập và thực hiện hợp đồng, hợp đồng mua bán hàng hóa được chia thành hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước và hợp đồng mua bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài (hay còn gọi là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế). Về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế không được định nghĩa trong Luật Thương mại năm 2005, nhưng qua quy định tại Điều 758 Bộ Luật Dân sự năm 2005 về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, có thể suy ra rằng một hợp đồng được coi là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế khi có một trong các yếu tố sau: Một là, căn cứ vào yếu tố chủ thể, hợp đồng được giao kết bởi các bên không cùng quốc tịch; Hai là, căn cứ vào yếu tố đối tượng, hàng hóa là đối tượng của hợp đồng đang tồn tại ở nước ngoài; Ba là, căn cứ vào nơi xác lập và thực hiện hợp đồng, hợp đồng được giao kết ở nước ngoài (nước mà các bên chủ thể giao kết hợp đồng không mang quốc tịch) và có thể được thực hiện ở nước mình hay nước thứ ba. Điều cần chú ý ở hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là các bên tham gia giao kết hợp đồng sẽ rất dễ gặp phải các rủi ro đặc thù như xung đột pháp luật, do quá trình vận chuyển, thanh toán, thực thi cam kết hợp đồng. Vì vậy, các bên cần thỏa thuận và soạn thảo ra một bản hợp đồng chi tiết. Khoản 2 Điều 27 Luật Thương mại năm 2005 đã quy định rằng hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phải được lập thành văn bản. Theo Luật Thương mại Việt Nam năm 1997, đạo luật thương mại đầu tiên của Việt Nam đã đưa ra khái niệm về hợp đồng mua bán hàng hóa trong phạm vi quốc tế với tên gọi là hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài, theo đó tại điều 80 quy định rằng hợp đồng mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài là hợp đồng mua bán hàng hoá được ký kết giữa một bên là thương nhân Việt Nam với 14
- một bên là thương nhân nước ngoài. Tiêu chí để xác định thương nhân nước ngoài được quy định tại điều 81, theo đó chủ thể của hợp đồng là bên mua và bên bán phải có đủ tư cách pháp lý. Chủ thể bên nước ngoài là thương nhân và tư cách pháp lý của họ được xác định căn cứ theo pháp luật của nước mà thương nhân đó mang quốc tịch. Như vậy, tiêu chí quan trọng nhất để xác định hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài là yếu tố quốc tịch khác nhau của bên mua và bên bán, một bên có quốc tịch Việt Nam và một bên có quốc tịch nước ngoài. Như đã phân tích ở trên, việc xác định quốc tịch của pháp nhân nước ngoài không hề dễ dàng với quy định quốc tịch pháp nhân của các quốc gia khác nhau là không đồng nhất. Mặt khác, trong điều kiện thực tiễn thương mại Việt Nam, ngày càng nhiều thương nhân mang quốc tịch nước ngoài đóng trụ sở thương mại tại Việt Nam mua bán hàng hóa với thương nhân có quốc tịch nước ngoài đóng trụ sở ở nước ngoài. Trong trường hợp này yếu tố quốc tịch khác nhau không còn ý nghĩa mà chỉ cần trụ sở thương mại của các bên (bên mua và bên bán) đặt tại các nước khác nhau là đủ để xác định hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. Đồng thời, sự hình thành các khu chế xuất với việc mua bán hàng hóa giữa thương nhân ngoài khu chế xuất với thương nhân trong khu chế xuất thì quy định yếu tố quốc tịch khác nhau của các bên là tiêu chí xác định tính chất quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế không còn phù hợp. Luật Thương mại Việt Nam năm 2005, đây là luật hiện hành về thương mại của Việt Nam đã không đưa ra khái niệm hay định nghĩa thế nào là hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, cũng không đưa ra tiêu chí để xác định tính chất quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế mà chỉ liệt kê ra các hình thức và cũng là các hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế tại điều 27, bao gồm: xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập, chuyển khẩu. Khái niệm về các hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế được làm rõ tại các điều từ 28-30, cụ thể như sau: xuất khẩu 15
- hàng hoá là việc hàng hoá được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật” (khoản1, điều28); nhập khẩu hàng hoá là việc hàng hoá được đưa vào lãnh thổ Việt Nam từ nước ngoài hoặc từ khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật” (khoản2, điều28); tạm nhập, tái xuất hàng hoá là việc hàng hoá được đưa từ lãnh thổ nước ngoài hoặc từ các khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật Việt Nam, có làm thủ tục nhập khẩu vào Việt Nam và làm thủ tục xuất khẩu chính hàng hoá đó ra khỏi Việt Nam” [khoản 1, điều 29]; tạm xuất, tái nhập hàng hoá là việc hàng hoá được đưa ra nước ngoài hoặc đưa vào các khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật, có làm thủ tục xuất khẩu ra khỏi Việt Nam và làm thủ tục nhập khẩu lại chính hàng hoá đó vào Việt Nam” (khoản2, điều29); chuyển khẩu hàng hoá là việc mua hàng từ một nước, vùng lãnh thổ để bán sang một nước, vùng lãnh thổ ngoài lãnh thổ Việt Nam mà không làm thủ tục nhập khẩu vào Việt Nam và không làm thủ tục xuất khẩu ra khỏi Việt Nam” [khoản 1, điều 30]. Từ những phân tích trên đây, dưới góc độ khoa học pháp lý, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có thể được hiểu là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là sự thỏa thuận giữa doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp nước ngoài, theo đó một bên gọi là bên bán có nghĩa vụ giao hàng và chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho một bên gọi là bên mua, bên mua có nghĩa vụ nhận hàng và thanh toán tiền hàng cho bên bán. 1.1.3. Khái niệm về hợp đồng và hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu Hợp đồng vô hiệu nói chung và hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu nói riêng là hợp đồng không thỏa mãn đầy đủ các điều kiện có hiệu lực theo quy định của 16
- pháp luật. Chú ý rằng, chúng ta cần phân biệt một hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu khác với vô hiệu hóa một hợp đồng mua bán hàng hóa hay hủy bỏ một hợp đồng mua bán hàng hóa do vô hiệu. Vô hiệu hóa một hợp đồng mua bán hàng hóa hay hủy bỏ một hợp đồng mua bán hàng hóa do vô hiệu có thể được hiểu là một chế tài áp dụng đối với những hợp đồng mua bán hàng hóa không đủ các tiêu chuẩn hoặc vi phạm các điều kiện có hiệu lực do pháp luật quy định, còn khi một hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu thì người ta luôn xem rằng hợp đồng mua bán hàng hóa đó chưa từng tồn tại, điều đó cũng có nghĩa là hợp đồng mua bán hàng hóa đó không có hiệu lực cả trong quá khứ, hiện tại và trong tương lai. Hợp đồng vô hiệu nói chung và hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu nói riêng là hợp đồng không thỏa mãn đầy đủ các điều kiện có hiệu lực theo quy định của pháp luật. Chú ý rằng, chúng ta cần phân biệt một hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu khác với vô hiệu hóa một hợp đồng mua bán hàng hóa hay hủy bỏ một hợp đồng mua bán hàng hóa do vô hiệu. Vô hiệu hóa một hợp đồng mua bán hàng hóa hay hủy bỏ một hợp đồng mua bán hàng hóa do vô hiệu có thể được hiểu là một chế tài áp dụng đối với những hợp đồng mua bán hàng hóa vi phạm các điều kiện có hiệu lực do pháp luật quy định, còn khi một hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu thì hợp đồng đó không có hiệu lực pháp lý. Pháp luật nhiều quốc gia trên thế giới nói chung đều thừa nhận các yếu tố làm hợp đồng vô hiệu nhƣ sau: - Thứ nhất là sự tác động của chủ thể khác tới bên còn lại khi giao kết hợp đồng. Sự tác động này có thể là gây nhầm lẫn cho chủ thể về nội dung hợp đồng, hoặc lừa dối cung cấp thông tin sai sự thật, hoặc đe dọa ,ngăn cản tự do ý chí. hợp đồng mua bán hàng hóa được ký kết do đe dọa cũng bị coi là vô hiệu, đe dọa có thể là đe dọa về thể chất hoặc về tinh thần. Về nguyên tắc một hành vi được coi là đe dọa trong khi ký kết hợp đồng phải có các dấu hiệu như sau: Một là, đe dọa phải có tính tức thời và nghiêm trọng. Tính tức thời và nghiêm trọng này thể hiện ở chỗ bên bị đe dọa không còn sự lựa chọn nào khác tốt hơn là 17
- phải ký hợp đồng, tức là ký hợp đồng trái với ý muốn của mình. Tính tức thời và nghiêm trọng được đánh giá theo các tiêu chuẩn khách quan và chủ quan và tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể; Hai là, sự đe dọa không có lý do chính đáng; Ba là, đe dọa làm ảnh hưởng đến uy tín, đến lợi ích kinh tế[10, tr.28-29]. Trong hoạt động thương mại, hợp đồng mua bán hàng hóa được ký kết do do một trong các bên lừa dối cũng bị coi là vô hiệu, lừa dối là hành vi cố ý của một bên nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệnh về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của hợp đồng nên đã ký kết hợp đồng. Pháp luật của nhiều quốc gia quy định rằng nhầm lẫn có thể được coi là căn cứ để yêu cầu toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu, tuy nhiên thế nào là nhầm lẫn được xem xét không giống nhau trong pháp luật của các quốc gia khác nhau. Pháp luật của các nước hầu như không đưa ra khái niệm nhầm lẫn, còn trong khoa học pháp lý, về vấn đề này được nhìn nhận theo nhiều cách khác nhau. Có các quan đỉểm khác nhau về nhầm lẫn khi giao kết hợp hợp đồng, ví dụ nhầm lẫn là những trường hợp hợp đồng được ký kết nhưng ý chí của một hoặc của các bên được hình thành không đúng vì nhiều lý do khác nhau. Nhầm lẫn có thể do các bên chưa thoả thuận hết mọi điều khoản của hợp đồng, có thể do các bên không thể hiện sự cẩn thận cần phải có, cũng có thể do sự tự tin thái quá của chủ thể hoặc hành vi của người thứ ba [11, tr.261]; hoặc nhầm lẫn có nghĩa là hợp đồng được ký kết không phản ánh ý chí đích thực của các bên, không có khả năng mang lại kết quả mà các bên hướng đến tại thời điểm ký kết hợp đồng[12, tr.322]. Có thể nói rằng nhầm lẫn là khi ý chí của các bên không giống với ý chí của họ trong giai đoạn thống nhất ý chí mặc dù không bị đe doạ hoặc lừa dối. Việc coi nhầm lẫn là căn cứ để tuyên bố hợp đồng vô hiệu gặp phải hai vấn đề phức tạp trong khoa học pháp lý và trong thực tiễn. Thứ nhất, xuất phát từ thuyết ý chí, nhầm lẫn được coi là việc hợp đồng được ký kết trái với ý chí đích thực của chủ thể và vì vậy nên cần phải coi hợp đồng đó là vô hiệu; và Thứ hai, nếu trong mọi trường hợp khi hợp đồng được ký kết trái với ý chí đích thực của chủ thể sẽ bị vô hiệu, điều này sẽ tạo ra sự không ổn định, mất trật tự trong lưu thông dân sự và trong hoạt động kinh doanh thương mại, điều mà không ai muốn. Chính vì vậy nên Toà án cần phải thận 18
- trọng khi tuyên hợp đồng vô hiệu. Để tìm giải pháp hài hoà các mối quan hệ trên cần phải phân biệt hai loại nhầm lẫn: một là, nhầm lẫn không có ý nghĩa pháp lý, tức là không ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng; và hai là, nhầm lẫn có ý nghĩa pháp lý, đây là căn cứ để đề nghị toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Như vậy, không phải mọi nhầm lẫn đều có ý nghĩa pháp lý đối với bên nhầm lẫn, điều này đã được ghi nhận trong các hệ thống pháp luật[13, tr.118-119]. Tuy nhiên, trong thực tiễn việc phân biệt hai loại nhầm lẫn nói trên là không hề đơn giản, trong khi đó hậu quả pháp lý của chúng lại khác nhau. Nhầm lẫn nếu nhìn từ góc độ là điều kiện để yêu cầu toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu là một trong những vấn đề phức tạp nhất của pháp luật hợp đồng và gây ra nhiều khó khăn cho người nghiên cứu. Người bán bán cho người mua một bình gốm Trung Quốc với giá rẻ vì cho rằng, đó là bình gốm giả cổ do người địa phương làm ra. Sau đó người mua phát hiện ra rằng đó là một tác phẩm nghệ thuật vô giá được làm từ thời Nhà Minh. Trong trường hợp này người bán có quyền yêu cầu toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu và đòi lại bình cổ với lý do đã không đánh giá chính xác được giá trị của chiếc bình cổ đó. Có hay không có ý nghĩa việc người bán là chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực đồ cổ và có thể đánh giá đúng giá trị của chiếc bình nhưng đã bất cẩn khi thực hiện việc đánh giá. Có quan trọng hay không việc người mua biết chính xác hoặc đoán biết được đó là bình cổ nhưng đã giấu người bán. Sẽ như thế nào nếu cả người bán và người mua của hợp đồng ban đầu đều là các chuyên gia trong lĩnh vực đánh giá đồ cổ. Có ý nghĩa hay không việc người mua vì tin vào hiệu lực của hợp đồng đã bỏ ra một khoản tiền lớn để phục hồi chiếc bình với mục đích bán lại, hoặc đã bán lại cho người khác. Nếu người mua, một cách trung thực cam kết với người bán rằng, đó là bình giả cổ và yêu cầu người bán thực hiện hợp đồng. Và cuối cùng, nếu người bán yêu cầu người mua trả lại bình, người mua đồng ý nhưng yêu cầu trả mức chênh lệch giá [13, tr.119]. - Thứ hai là tự thân chủ thể giao kết hợp đồng không thể nhận thức được việc tham gia giao kết hợp đồng. Điều này có thể là chủ thể không đủ năng lực hành vi, không 19