Luận văn Hợp đồng lập hội theo pháp luật Việt Nam
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Hợp đồng lập hội theo pháp luật Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_hop_dong_lap_hoi_theo_phap_luat_viet_nam.pdf
Nội dung text: Luận văn Hợp đồng lập hội theo pháp luật Việt Nam
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐÀO THỊ HỒNG PHƢƠNG HỢP ĐỒNG LẬP HỘI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2017 1
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐÀO THỊ HỒNG PHƢƠNG HỢP ĐỒNG LẬP HỘI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự Mã số: 60.38.01.03 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. NGÔ HUY CƢƠNG HÀ NỘI - 2017 2
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi. Nội dung cũng như các số liệu, ví dụ và trích dẫn được trình bày trong Luận văn hoàn toàn trung thực, chính xác và tin cậy. Những kết luận khoa học của Luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Đào Thị Hồng Phƣơng 3
- MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 5 Chương 1 9 LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG LẬP HỘI 9 1.1. Khái niệm, ý nghĩa, đặc điểm và phân loại của hợp đồng lập hội 9 1.1.1. Khái niệm, ý nghĩa và phân loại của hội 9 1.1.2. Các đặc điểm của hợp đồng lập hội 13 1.2. Đàm phán và giao kết hợp đồng lập hội 16 1.2.1. Đàm phán hợp đồng lập hội 16 1.2.2. Giao kết hợp đồng lập hội 17 1.3. Hiệu lực của hợp đồng lập hội 20 1.3.1. Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng lập hội 20 1.3.2. Hợp đồng lập hội vô hiệu 23 1.3.3. Đặc điểm riêng về hiệu lực của hợp đồng lập hội 25 1.4. Nội dung của hợp đồng lập hội 26 1.4.1. Các điều kiện bắt buộc của hợp đồng lập hội 26 1.4.2. Các điều kiện khác của hợp đồng lập hội 30 1.5. Pháp luật điều chỉnh hợp đồng lập hội 31 1.5.1. Các nguyên tắc nền tảng của pháp luật điều chỉnh hợp đồng lập hội 31 1.5.2. Cấu trúc và nguồn của pháp luật điều chỉnh hợp đồng lập hội 35 1.6. Tranh chấp và giải quyết tranh chấp hợp đồng lập hội 37 Chương 2 41 PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY VỀ HỢP ĐỒNG LẬP HỘI 41 VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 41 2.1. Tổng quan pháp luật Việt Nam hiện nay về hợp đồng lập hội 41 2.1.1. Cấu trúc và nguồn của pháp luật Việt Nam hiện hành về hợp đồng lập hội 41 2.2. Thực trạng giải quyết tranh chấp liên quan tới hợp đồng lập hội 63 2.3. Một số kiến nghị 78 KẾT LUẬN 81 TÀI LIỆU THAM KHẢO 82 4
- LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn Xây dựng kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế đang ngày càng làm biến đổi sâu sắc các quan hệ xã hội ở Việt Nam. Sự liên kết của con người trong các hội đang phát triển mạnh gắn liền với sự phát triển của xã hội dân sự và sự bảo đảm quyền tự do kinh doanh. Các hội đã có những đóng góp lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội nói chung, và góp phần cải thiện đời sống của từng người dân nói riêng. Hiện nay, số lượng các hội được lập gia tăng nhanh chóng. Với môi trường dân chủ, cởi mở, hội nhập, các hoạt động kinh tế - xã hội ngày càng phát triển, xã hội hoá ngày càng cao, việc thành lập và phát triển hội thực sự là yêu cầu của thực tiễn đời sống và là xu thế tất yếu nhằm thỏa mãn nhu cầu tự do, dân chủ, sáng tạo của người dân và xã hội. Hiến pháp năm 2013 ghi nhận quyền tự do lập hội của công dân (Điều 25) và quyền tự do kinh doanh (Điều 33), đồng thời cũng đặt ra nguyên tắc pháp định cho hai quyền này mà bản thân chúng làm cơ sở pháp lý chủ yếu cho việc lập hội. Tuy nhiên hiện nay pháp luật cụ thể hóa hai nguyên tắc hiến định này và hai loại hội có mục đích kinh tế và có mục đích phi kinh tế dường như được hiểu và phát triển khá tách biệt vì thiếu sự tìm hiểu nguồn gốc chung của hội. Thực tiễn tư pháp, hành pháp, cũng như thực hiện pháp luật của công dân có nhiều vướng mắc liên quan tới những thiếu sót về việc tìm hiểu và xây dựng nguồn gốc chung của hội. Hợp đồng lập hội là một nguồn gốc pháp lý chung của hội. Trong khoa học pháp lý, nó luôn được xem là cơ sở lý luận và thực tiễn của việc lập hội. Tuy nhiên hiện nay nó bị bỏ ngỏ trong các Bộ Luật Dân sự năm 1995, năm 2005 và năm 2015. Vì những lẽ trên, em xin lựa chọn đề tài “Hợp đồng lập hội theo pháp luật Việt Nam” làm đề tài cho Luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài Mục tiêu nghiên cứu tổng quát 5
- Mục đích nghiên cứu chung của đề tài là xây dựng mô hình lý luận về hợp đồng lập hội ở Việt Nam hiện nay và hướng tới xây dựng mô hình chế định hợp đồng lập hội trong Bộ luật Dân sự tương lai sau Bộ luật Dân sự năm 2015. Các mục tiêu nghiên cứu cụ thể Đề tài luận văn có các mục tiêu cụ thể sau: + Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của hợp đồng lập hội; + Xây dựng lý luận hệ thống của hợp đồng lập hội; + Đánh giá các qui định pháp luật hiện hành có liên quan; + Kiến nghị về xây dựng và áp dụng luật. 3. Tổng quan tình hình nghiên cứu và tính mới của đề tài luận văn Thế giới đã có khá nhiều công trình nghiên cứu liên quan, chẳng hạn một số công trình tiêu biểu sau: (1) Sách chuyên khảo mang tên “Freedom of Association” edited by Any Gutman (Princeton University Press, 1998); (2) sách chuyên khảo mang tên “The State and Freedom of Contract” edited by Harry N. Scheiber (Stanford University Press, 1998); (3) sách chuyên khảo mang tên “The Limits of Freedom of Contract” by Micheal J. Trebilcock (Harvard University Press, 1993) Trong vài năm gần đây đã có một số công trình nghiên cứu về hội và tự do lập hội được công bố ở nước ta, tuy nhiên các công trình nghiên cứu hiện có vẫn chưa đủ để giải đáp tất cả các câu hỏi đặt ra liên quan đến việc hoàn thiện khung pháp lý về hợp đồng lập hội ở Việt Nam. Các công trình nghiên cứu về loại hợp đồng này ở Việt Nam rất hạn chế. Về nghiên cứu chung, có cuốn giáo trình kiêm sách chuyên khảo mang tên “Việt Nam dân luật lược khảo – Nghĩa vụ và khế ước” của Vũ Văn Mẫu xuất bản tại Sài Gòn năm 1963. Trong lĩnh vực nghiên cứu chuyên biệt, có luận án tiến sĩ luật học với đề tài “Hợp đồng thành lập công ty ở Việt Nam” của Ngô Huy Cương Ngoài ra còn một số công trình nghiên cứu có liên quan tới một loại hội đặc biệt - đó là công đoàn. Tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay, loại hội này có bản chất pháp lý như là một chế định pháp luật hơn là một hợp đồng. 6
- Các công trình này đã đặt nền móng lý luận phần nào đó cho hợp đồng lập hội. Song chưa có công trình nào nghiên cứu xây dựng mô hình lý luận tổng quát về loại hợp đồng này cho Việt Nam và kiến nghị xây dựng mô hình lập pháp về loại hợp đồng này trong pháp luật Việt Nam trong giai đoạn hiện nay với khá nhiều điểm khác biệt về pháp luật so với các nước khác và so với quá khứ lịch sử của Việt Nam. 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu và nội dung nghiên cứu chủ yếu của đề tài luận văn Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề pháp lý liên quan đến hợp đồng lập hội bao gồm lý luận pháp luật và mô hình pháp luật thực định. Phạm vi nghiên cứu của luận văn là toàn bộ vấn đề lý luận liên quan và các quy định của pháp luật hiện tại của Việt Nam liên quan đến đề tài. Phạm vi nghiên cứu của luận văn mở rộng đối với các pháp luật nước ngoài cũng điều chỉnh về vấn đề này. Đề tài tập trung nghiên cứu các nội dung sau: - Những vấn đề lý luận pháp luật chuyên sâu về hợp đồng lập hội tại Việt Nam hiện nay; - Phân tích pháp luật hiện nay về hợp đồng lập hội ở Việt Nam; - Xây dựng mô hình sơ khởi chế định pháp luật về hợp đồng lập hội ở Việt Nam. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài luận văn Về phương pháp luận, để làm rõ các vấn đề nghiên cứu, luận văn vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của học thuyết Mác-Lênin. Đây là phương pháp khoa học vận dụng nghiên cứu trong toàn bộ luận văn để xây dựng cơ sở lý luận về hợp đồng lập hội tại Việt Nam hiện nay. Về phương pháp nghiên cứu, trong quá trình nghiên cứu luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như: Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp lịch sử. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chuyên sâu của pháp luật như: (1) Phương pháp so sánh pháp luật được sử dụng để làm rõ các vấn đề liên 7
- quan đến giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật nước, qua đó thấy được sự tương đồng, khác biệt của Việt Nam và nước ngoài làm luận cứ xác thực cho việc đưa ra các giải pháp khắc phục những bất cập của pháp luật hiện nay và xây dựng mô hình lý luận tổng quát về hợp đồng lập hội; (2) phương pháp mô hình hóa, điển hình hóa các quan hệ xã hội được sử dụng để xây dựng mô hình lý luận chuyên sâu và mô hình pháp luật thực định 6 . Bố cục của Luận văn Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung nghiên cứu chính của luận văn được chia thành các chương sau: Chương 1 – Lý luận về hợp đồng lập hội Chương 2 – Pháp luật Việt Nam hiện nay về hợp đồng lập hội và một số kiến nghị 8
- Chƣơng 1 LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG LẬP HỘI 1.1. Khái niệm, ý nghĩa, đặc điểm và phân loại của hợp đồng lập hội 1.1.1. Khái niệm, ý nghĩa và phân loại của hội Không thể phủ nhận vai trò và ý nghĩa to lớn của hội trong đời sống con người, nhất là trong nền kinh tế thị trường. Hội, xét chung trong tổng thể việc đáp ứng các nhu cầu sống của con người, là một trong những phương tiện quan trọng giúp con người thỏa mãn các nhu cầu đó [6, tr. 38] mà trong chúng bao gồm cả các nhu cầu về vật chất và các nhu cầu về tinh thần. Tuy nhiên bản chất pháp lý của hội vẫn còn là một vấn đề gây tranh luận. Có lẽ việc xem xét bản chất của hội trước hết bắt đầu từ việc phân loại hội. Với tính cách là một phương tiện chung nhằm đáp ứng các nhu cầu sống, nhưng do cách thức của sự đáp ứng từng loại nhu cầu có sự khác nhau, cho nên phản ánh về mặt hình thức (không trùng khít hoàn toàn), hội được chia thành hai loại cơ bản là hội có mục đích kinh tế và hội không có mục đích kinh tế. Bộ luật Dân sự Đức năm 2002 có các qui định phân loại hội như vậy tại Điều 21 và Điều 22 để thiết lập qui chế thủ đắc năng lực pháp lý riêng biệt của từng loại hội. Các điều luật này có nội dung như sau: “Một hội mà mục tiêu của nó không phải là hoạt động thương mại thì có tư cách pháp lý bởi việc được ghi vào sổ đăng ký hội tại tòa án địa phương có thẩm quyền” (Điều 21); và “Một hội mà mục tiêu hoạt động của nó là hoạt động thương mại thì có tư cách pháp lý được cấp bởi tiểu bang, nếu không có các qui định đặc biệt của luật liên bang” (Điều 22). Cách phân loại này không giúp xác định được bản chất pháp lý của hội mà chỉ cho phép hiểu biết sự lựa chọn của nhà làm luật về cách thức cấp năng lực pháp lý cho hội. Xét từ căn cứ tạo lập nên hội, có thể chia hội thành hai loại là hội được tạo lập bởi hợp đồng và hội được tạo lập bởi pháp luật. Tuy nhiên hội là một tổ chức phi chính phủ, nên việc pháp luật qui định về việc thành lập một hội cụ thể hay nhà nước quyết định thành lập hội mà không có sự tự nguyện tham dự của các thành viên là việc ít xảy ra. Vì thế về cơ bản hội mang bản chất 9
- hợp đồng. Vì vậy nhiều Bộ luật Dân sự của nhiều nước trên thế giới đều có chương nói về hội hay hợp đồng lập hội mà tại đó mô tả chung các đặc điểm pháp lý của hội. Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ năm 1931, Bộ luật Dân sự Trung Kỳ năm 1936 và Bộ luật Dân sự năm 1972 của Chính quyền Sài Gòn (cũ) theo mô hình Bộ luật Dân sự Pháp năm 1804 đều có một chương như vậy. Tuy nhiên các chương như vậy trong các bộ luật của Việt Nam đều chủ yếu qui định về hợp đồng lập hội có mục đích kinh tế. Trong khi đó Bộ luật Dân sự Pháp năm 1804 có một chương nói về “hội” với tính cách là hợp đồng, sau đó mở rộng ra với tính cách là hành vi pháp lý (bao gồm cả hợp đồng và hành vi pháp lý đơn phương) bởi về sau này nhà làm luật chấp nhận hội thương mại có thể chỉ có một thành viên (là công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên hay công ty cổ phần một thành viên). Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ năm 1931 định nghĩa: “Khế ước lập hội là khế ước do hai hay nhiều người đồng ý xuất tài sản chung nhau để lấy lợi mà chia nhau” (Điều thứ 1200). Các qui định này được sao chép nguyên văn vào Điều thứ 1425 của Bộ luật Dân sự Trung Kỳ năm 1936. Các định nghĩa này chưa làm rõ được nội hàm của khái niệm hợp đồng lập hội. Theo định nghĩa của hai bộ luật này, hai hay nhiều người cùng tiết kiệm bằng cách bỏ tiền cùng nhau gửi tiết kiệm rồi lấy tiền lãi chia nhau phải chăng cũng được xem là hợp đồng lập hội? Khắc phục những khiếm khuyết của định nghĩa trong hai bộ luật nêu trên, Bộ luật Dân sự năm 1972 đã chuyển hóa những đặc trưng của hội theo Điều 1832, Bộ luật Dân sự Pháp năm 1804 để định nghĩa hợp đồng lập hội như sau: “Khế ước lập hội là khế ước theo đó hai hay nhiều người đồng ý góp công, góp của để hoạt động với mục đích kiếm được lời cùng chia nhưng nếu thua lỗ cùng chịu” (Điều thứ 1264). Theo định nghĩa này, hợp đồng lập hội có các dấu hiệu như: (1) hai hay nhiều người cùng nhau góp vốn (có thể bằng công sức hoặc bằng tài sản); (2) hai hay nhiều người đó cùng nhau hoạt động trên căn bản sự góp vốn đó; (3) các hoạt động cùng nhau này phải nhằm mục đích sinh lời để chia nhau; và (4) nếu hoạt động chung này bị thua lỗ thì hai hay nhiều người đó phải cùng nhau gánh chịu. 10
- Nếu xét từ việc tổ chức hội, hợp đồng lập hội có thể được phân chia thành hai loại: Loại thứ nhất là hợp đồng tạo lập nên một hội nhất định; và loại thứ hai là hợp đồng gia nhập một hội nhất định. Loại thứ nhất là một hợp đồng được giao kết giữa các thành viên sáng lập ra hội với nhau. Loại thứ hai là hợp đồng được giao kết giữa một thành viên gia nhập một hội nhất định với chính hội đó. Trong vụ Clarke v. Dunraven [1897], tòa án Anh cho rằng hai người cùng viết đơn xin gia nhập một hội vào hai thời điểm khác nhau (mà họ không hề quen biết nhau) cũng được coi giữa hai người có sự thỏa thuận. Clarke và Dunraven đều viết đơn xin tham dự vào câu lạc bộ đua thuyền mang tên Mudhook Yacht Club, và cam kết tuân thủ các qui tắc của Yacht Club Association. Các qui tắc này qui định chủ nhân của con thuyền vi phạm qui tắc va chạm phải con thuyền khác có trách nhiệm bồi thường tất cả các thiệt hại phát sinh. Thuyền của Clarke va chạm vào thuyền của Dunraven. Vụ kiện xảy ra. Tòa phúc thẩm Anh Quốc và House of Lords phán quyết rằng có quan hệ hợp đồng tồn tại giữa những người tham dự cuộc đua thuyền. Vì vậy Clarke phải bồi thường Dunraven bởi vi phạm hợp đồng. Án lệ này áp dụng cho vụ Rayfield v. Hands [1958]. Tòa ra phán quyết rằng sự đăng ký của một thành viên vào hợp đồng và điều lệ công ty không chỉ tạo ra sự thỏa thuận giữa thành viên và công ty, mà còn tạo ra sự thỏa thuận giữa thành viên đó với những người đăng ký khác [26, p.13]. Như vậy được xem là sự thỏa thuận không đòi hỏi các bên phải biết về sự đồng ý của nhau đối các điều kiện của hợp đồng và không đòi hỏi các bên phải đồng ý các điều kiện của hợp đồng vào cùng một thời điểm [7]. Khái niệm về hợp đồng lập hội trong các Bộ luật Dân sự thuộc về loại thứ nhất. Như vậy có thể hiểu một cách đơn giản hợp đồng lập hội là loại hợp đồng tạo lập nên một hội. Tuy nhiên các định nghĩa nêu trên mới chỉ nhằm tới các hội có mục đích kinh tế. Vậy việc xây dựng một định nghĩa cho hợp đồng lập hội nói chung không kể hội có mục đích kinh tế hay không là một việc cần thiết trước hết để phân biệt hợp đồng lập hội với các loại hợp đồng khác, và sau đó để nghiên cứu các vấn đề pháp lý liên quan, cũng như xây dựng qui chế pháp lý cho loại hợp đồng này. 11
- Khảo sát Hội Sinh viên Việt Nam (một tổ chức có gần 1.100.000 nghìn hội viên đang sinh hoạt tại hơn 200 Hội Sinh viên trường, 21 Hội sinh viên tỉnh, thành phố, 50 Hội sinh viên cấp trường trực thuộc Trung ương và 05 Hội Sinh viên Việt Nam ở nước ngoài: Pháp, Hàn Quốc, Hà Lan, Đức, Bỉ) cho thấy: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I của Hội Sinh viên Việt Nam được tổ chức tại Hà Nội từ ngày 29 đến 31/07/1955 với sự tham dự của 244 đại biểu chính thức và 255 đại biểu dự thính của các trường đại học, đại biểu sinh viên miền Nam và đại biểu lưu học sinh ở nước ngoài cùng nhau thông qua bản điều lệ, chương trình hoạt động và lời kêu gọi sinh viên toàn quốc, đồng thời bầu Ban Chấp hành Trung ương Hội để theo đuổi mục đích đoàn kết, thống nhất mọi lực lượng sinh viên trong Hội Liên hiệp Sinh viên Việt Nam, cùng với thanh niên và nhân dân cả nước đấu tranh cho hòa bình, độc lập và thống nhất Tổ quốc, đòi thực hiện tổng tuyển cử do hai miền Nam, Bắc theo đúng tinh thần Hiệp định Giơ-ne-vơ [29]. Các thông tin này nói lên rằng Hội sinh viên Việt Nam là sự thống nhất ý chí của những đại biểu sinh viên (những người sáng lập) có các mục tiêu chính trị, xã hội. Nội dung của sự thống nhất ý chí này thể hiện trong điều lệ của hội được thông qua tại đại hội. Xét riêng dưới giác độ pháp lý, hợp đồng tạo lập ra hội này (hội không nhằm mục đích kinh tế) không có dấu hiệu hoạt động nhằm mục đích sinh lời để chia nhau như đối với hợp đồng lập hội có mục đích kinh tế, nhưng thay vào đó là dấu hiệu cùng nhau hoạt động nhằm mục tiêu chung (có thể là các mục tiêu chính trị, xã hội, văn hóa, từ thiện ). Riêng dấu hiệu cùng nhau chịu lỗ của hợp đồng lập hội có mục đích kinh tế thì không có dấu hiệu nào của hợp đồng lập hội không nhằm mục đích kinh tế thay vào bởi mục tiêu của các thành viên của hội không nhằm mục đích kinh tế không phải là bỏ công sức hoặc tiền của ra để đổi lại một món lợi tiền bạc lớn hơn mà thực sự là sự chi tiêu cho các nhu cầu có tính cách tinh thần. Tuy nhiên nếu hội (bất kể là hội nhằm mục đích kinh tế hay không) mà hoạt động trái mục đích và vi phạm pháp luật, thì chính hội với tính cách là một thực thể pháp lý riêng biệt phải chịu trách nhiệm. 12
- Qua các nghiên cứu trên có thể xác định: hợp đồng lập hội nói chung là một sự thỏa thuận của hai hay nhiều người cùng nhau đóng góp công sức, tri thức, tiền bạc hay các lợi ích vật chất khác để cùng nhau hoạt động nhằm các mục tiêu chung và phải chịu trách nhiệm về các hoạt động đó theo qui định của pháp luật. Thực tế không một hội nào (bất kể có nhằm mục đích kinh tế hay không) đều phải có kinh phí hoạt động mà kinh phí ấy thu được từ sự đóng góp của các thành viên hay từ tài trợ bởi người khác. Do đó sự đóng góp tiền bạc không phải là dấu hiệu riêng của hội nhằm mục đích kinh tế. Như trên đã nói sự đóng góp tiền bạc thành lập hội nhằm mục đích kinh tế tạo thành vốn để kinh doanh sinh lời. Còn sự đóng góp tiền bạc thành lập hội không nhằm mục đích kinh tế là sự chi tiêu cho các nhu cầu về tinh thần trong khuôn khổ các mục tiêu hoạt động của hội. Các nghiên cứu ở trên cho thấy hợp đồng lập hội là một loại hợp đồng quan trọng không thể thiếu được trong đời sống xã hội do chính nhu cầu khách quan của con người đòi hỏi. Đây là một loại hợp đồng có phạm vi tác động rất rộng và sâu, do đó cần phải nghiên cứu bổ sung vào Bộ luật Dân sự làm nền tảng pháp lý cho các luật chuyên ngành qui định các đặc thù nhưng trên căn bản thống nhất về tư tưởng và chính sách pháp luật. 1.1.2. Các đặc điểm của hợp đồng lập hội Hợp đồng nói chung được phân loại theo nhiều căn cứ khác nhau và dựa vào từng cách phân loại để áp đặt cho hợp đồng những qui chế pháp lý khác nhau [4, tr. 174]. Khi nói tới các đặc điểm pháp lý của riêng một hợp đồng nào đó, người ta thường xem hợp đồng đó thuộc những phân loại hợp đồng nào để rút ra các đặc điểm của nó. Có các phân loại hợp đồng như sau thường được nhắc tới: hợp đồng trọng hình thức, hợp đồng ưng thuận và hợp đồng thực tế; hợp đồng thương lượng và hợp đồng gia nhập; hợp đồng cá nhân và hợp đồng cộng đồng; hợp đồng đơn vụ và hợp đồng song vụ; hợp đồng có đền bù và hợp đồng không có đền bù; hợp đồng chắc chắn và hợp đồng may rủi; hợp đồng tức thì và hợp đồng kéo dài; hợp đồng hữu danh và hợp đồng vô danh; hợp đồng 13
- chính và hợp đồng phụ; hợp đồng dân sự và hợp đồng tiêu dùng; hợp đồng tư nhân và hợp đồng chính quyền; hợp đồng đơn giản và hợp đồng hỗn hợp; hợp đồng theo mẫu và hợp đồng không theo mẫu; hợp đồng sơ bộ và hợp đồng cơ sở; hợp đồng đúng qui cách và hợp đồng mặc nhiên; hợp đồng có điều kiện và hợp đồng không có điều kiện; hợp đồng có thể hủy ngang và hợp đồng không thể hủy ngang; và hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba [4, tr. 174 – 182]. Theo các cách phân loại đó, hợp đồng lập hội có những đặc điểm sau: Thứ nhất, hợp đồng lập hội là hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba. Đây là đặc điểm nổi trội nhất của loại hợp đồng này. Khác với hợp đồng mua bán hay hợp đồng dịch vụ, các bên giao kết hợp đồng lập hội không trở thành trái chủ và thụ trái của nhau mà lại trở thành trái chủ và thụ trái của hội do chính sự giao kết hợp đồng của họ tạo lập ra [8]. Tuy nhiên nội dung cụ thể của đặc điểm này của hợp đồng lập hội phụ thuộc vào các hình thức pháp lý của hội. Các hình thức này được qui định rất cụ thể đối với thương hội. Luật Doanh nghiệp năm 2014 qui định thương hội có các hình thức: Công ty hợp danh, công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn. Riêng đối với công ty trách nhiệm hữu hạn đạo luật này nói tới hai loại là công ty trách nhiệm hữu hạn nhiều thành viên và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Như trên đã nói hội có thể là một hành vi pháp lý, có nghĩa là công ty trách nhiệm hữu hạn là một hợp đồng lập hội; còn công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là một hành vi pháp lý đơn phương lập hội. Cách thức tư duy này khác với quan niệm thông thường hội là một tổ chức của hai hay nhiều người. Đối với các hình thức công ty nói trên, ta có thể thấy sự khác biệt về nội dung của đặc điểm hợp đồng lập hội là hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba giữa hình thức công ty đối nhân và hình thức công ty đối vốn. Đối với công ty hợp danh (công ty đối nhân), khi các thành viên đã cam kết với nhau thành lập công ty có nghĩa là họ đã ràng buộc với nhau chịu trách nhiệm liên đới và vô hạn định với các khoản nợ của công ty. Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần (công ty đối vốn), sự ràng buộc lẫn nhau giữa các thành viên công ty bị giảm dần từ công ty trách nhiệm hữu hạn sang công ty cổ phần. 14
- Thứ hai, hợp đồng lập hội là hợp đồng trọng hình thức. Pháp luật của hầu hết các quốc gia đều qui định rất chặt chẽ qui trình, thủ tục giao kết hợp đồng lập hội bởi hội có một vai trò và ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống xã hội như trên đã nói. Hội có thể ảnh hưởng to lớn tới đời sống xã hội vì vậy kiểm soát hội ngay từ khi thiết lập, có nghĩa là ngay từ khi giao kết hợp đồng lập hội là một giải pháp mà pháp luật không thể bỏ qua. Thứ ba, hợp đồng lập hội là hợp đồng cá nhân. Có đặc điểm này bởi hợp đồng lập hội trước hết chỉ có hiệu lực đối với những người tham gia giao kết, trừ trường hợp có hiệu lực với chính hội được tạo lập ra bởi hành vi pháp lý của những người giao kết mà đã nói ở đặc điểm thứ nhất của hợp đồng lập hội. Điều đó có nghĩa là hợp đồng này ràng buộc những người tham gia giao kết, trở thành trái chủ và thụ trái của hội được tạo lập nên bởi chính hợp đồng này. Thứ tư, hợp đồng lập hội là một hợp đồng chắc chắn. Khi hợp đồng lập hội được giao kết đúng theo qui trình, thủ tục do luật định là hợp đồng lập hội phát sinh hiệu lực ràng buộc với các bên giao kết và với hội được tạo lập nên bởi hợp đồng đó. Hiệu lực này không bị phụ thuộc vào bất kỳ một sự kiện khách quan nào. Thứ năm, hợp đồng lập hội là hợp đồng kéo dài. Thông thường hội được lập ra có mục tiêu hoạt động trong một khoản thời gian dài hoặc vô thời hạn. Chính vì vậy hợp đồng lập hội là hợp đồng kéo dài. Hợp đồng chỉ chấm dứt khi hội chấm dứt. Liên quan tới mối quan hệ của hội đối với thành viên của mình thì hợp đồng lập hội không thể xem là chấm dứt mà là chấm dứt tư cách thành viên của họi hoặc chất dứt mối quan hệ hợp đồng giữa thành viên với hội. Thứ sáu, hợp đồng lập hội là một hợp đồng hữu danh. Như trên đã nói, hợp đồng lập hội được qui định trong các Bộ luật Dân sự của Việt Nam dưới các chế độ cũ và trong phần nhiều các Bộ luật Dân sự của các nước trên thế giới. Dù rằng hiện nay Bộ luật Dân sự năm 2015 không có qui định về loại hợp đồng này. Nhưng điều đó không có nghĩa hợp đồng lập hội là 15
- hợp đồng vô danh vì từng phân loại của hợp đồng lập hội được qui định ở các văn bản qui phạm pháp luật khác nhau như Luật Doanh nghiệp năm 2014 và một số nghị định của Chính phủ. Trong học thuật và thực tiễn tư pháp, thuật ngữ hợp đồng lập hội vẫn được hiểu và sử dụng. Các qui chế pháp lý riêng cho loại hợp đồng này được thể hiện qua các văn bản qui phạm pháp luật đã nói. 1.2. Đàm phán và giao kết hợp đồng lập hội 1.2.1. Đàm phán hợp đồng lập hội Nói tới đàm phán là nói tới sự gặp gỡ, trao đổi để đi đến sự thống nhất ý chí giữa những người giao kết hợp đồng. Tuy nhiên hợp đồng lập hội là một loại hợp đồng có thể phân chia ra nhiều phân loại nhỏ khác nhau và có qui chế pháp lý khá khác nhau trong việc đàm phán và giao kết. Ở mục 1.1.1 đã phân chia hợp đồng lập hội thành hai loại lớn có tính cách tổng quát là hợp đồng tạo lập nên một hội nhất định và hợp đồng gia nhập một hội nhất định. Hai loại hợp đồng này có sự khác nhau liên quan tới đàm phán để giao kết hợp đồng lập hội. Tuy nhiên khó có thể làm rõ sự khác biệt này nếu không có sự phân loại tiếp đối với hai phân loại tổng quát này. Hợp đồng tạo lập nên một hội nhất định có thể được phân loại thành hợp đồng lập hội không mở ra cho sự gia nhập của các thành viên mới (hội đóng) và hợp đồng lập hội có mở ra cho sự gia nhập của các thành viên mới (hội mở). Đối với hợp đồng gia nhập một hội nhất định, thì việc đàm phán được tiến hành giữa hội và hội viên mong muốn gia nhập. Tuy nhiên vấn đề đàm phán chỉ được đặt ra trong trường hợp hội yêu cầu thành viên mong muốn gia nhập phải làm hoặc không làm một hay một số việc gì đấy để đáp ứng nhu cầu của hội giống như một người gia nhập Đảng. Tất nhiên các điều kiện của hợp đồng không có sự thay đổi bởi đàm phán. Hợp đồng trong trường hợp này được xem là hợp đồng gia nhập, có nghĩa là hợp đồng với các điều kiện được dựng sẵn bởi các thành viên tạo lập hội từ ban đầu. Việc đàm phán trong trường hợp này có thể gọi là “đàm phán về tư cách” của người gia nhập. Đàm phán hợp đồng lập hội đóng có đặc điểm là các thành viên của hội phải cùng nhau đàm phám để đi đến ưng thuận về các điều kiện của hợp đồng. 16
- Việc đàm phán này không khác gì các cuộc đàm phán thông thường khác. Thông thường các bên cùng nhau thảo luận vì một mục đích chung là tạo lập ra một hội thể hiện được lợi ích của các và từng thành viên (người tham gia đàm phán) trong đó. Những thành viên này có thể trực tiếp đàm phán hoặc có thể ủy quyền cho người khác thể hiện ý chí của mình. Đàm phán hợp đồng lập hội mở đòi hỏi những thành viên sáng lập hoặc những sáng lập viên phải đàm phán với nhau để thiết lập nên các điều kiện của một hội trong tương lai rồi kêu gọi sự gia nhập hội đó, chẳng hạn đối với hội không có mục đích kinh tế như một đảng phái chính trị hay một hội nghề nghiệp; đối với hội có mục đích kinh tế như công ty cổ phần gọi vốn công khai từ công chúng. Việc đàm phán này có thể liên quan tới nhiều loại hợp đồng tiền lập hội. Thực tế đối với việc thành lập công ty cổ phần nhiều hệ thống pháp luật qui định rất chi tiết về các loại hợp đồng này và thủ tục đàm phán, giao kết chúng. Các luật gia Hoa Kỳ cho rằng có bốn dạng hợp đồng trong giai đoạn tiền công ty (preincorporation agreements): Thứ nhất, thoả thuận giữa các sáng lập viên nhằm tạo thành công ty (agreements between promoters for the formation of the corporation); thứ hai, các thoả thuận cổ đông (shareholder agreement); thứ ba, thoả thuận lập hội (agreement of association); và thứ tư, thoả thuận giữa các sáng lập viên và người thứ ba (agreement between promoters and third persons) [5, tr. 23]. Trong các hợp đồng tiền công ty, có thỏa thuận lập hội. Thực chất hợp đồng này là loại hợp đồng định hình rõ hội ra đời trong tương lai. Nhưng không phải vì thế mà có sự tách biệt ba loại hợp đồng còn lại. Tổng thể chúng là những hợp đồng bắt buộc trong qui trình giao kết hợp đồng lập hội nói chung. Sáng lập viên được xem là người có sáng kiến muốn lập công ty, đứng ra kết hợp hội viên, kêu gọi góp vốn, thu thập tiền vốn và làm những thể lệ cần thiết cho công ty được thành lập [5, tr. 26]. 1.2.2. Giao kết hợp đồng lập hội Hợp đồng lập hội có các thủ tục và trình tự giao kết khác nhau tùy thuộc vào mục đích tạo lập nên loại hội nào của hợp đồng lập hội. Khoa học pháp lý thường phân loại hội theo luật điều chỉnh việc thành lập và hoạt động của hội. 17
- Theo cách phân loại này, hội được chia thành hội được thành lập theo luật công và hội được thành lập theo luật tư. Hội được thành lập theo luật tư lại được phân loại thành hội dân sự (được thành lập theo luật dân sự) và hội thương mại hay còn gọi là thương hội hay công ty (được thành lập theo luật thương mại). Tuy nhiên chỉ có các thương hội hay các công ty là có dấu hiệu nhận biết rõ ràng bởi tính hình thức chặt chẽ và mục tiêu lợi nhuận của loại hội này. (Lưu ý rằng cách phân loại như trên xuất phát từ cách phân loại pháp luật theo truyền thống Civil Law). Hội dân sự nếu mục đích hoạt động liên quan tới quyền nhân thân, trong nhiều trường hợp, rất khó phân biệt với hội được thành lập theo luật công. Chẳng hạn: Dự thảo Luật về hội ngày 16/09/2016 tại khoản 1, Điều 3 có định nghĩa: “Hội là tổ chức được thành lập trên cơ sở tự nguyện của cá nhân, tổ chức cùng chung mục đích; hoạt động không vì lợi nhuận; nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của hội, hội viên và cộng đồng theo quy định của pháp luật; góp phần thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong lĩnh vực hoạt động”. Định nghĩa này không có khuynh hướng phân biệt giữa hội thành lập theo luật công và hội thành lập theo luật tư, trừ trường hợp phân biệt với thương hội. Vì vậy hội những bà mẹ đơn thân, hội những người chuyển đổi giới tính, hội những người hiến tạng được điều chỉnh bởi cùng một qui chế đối với hội hỗ trợ bảo vệ biển đảo, hội chống xâm lược văn hóa Cách thức điều chỉnh này làm đơn giản hóa đi phần nào việc tiếp cận tới qui chế thành lập hội, nhưng cũng gây khó khăn hơn cho việc cá biệt hóa hội để điều chỉnh thật cụ thể. Hợp đồng lập hội được giao kết với các thủ tục và qui trình phức tạp, nhất là các hội mở và các loại hội có tác động lớn tới xã hội. Pháp luật thường giao sự kiểm soát trình tự và thủ tục giao kết hợp đồng lập hội cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Và hội thông thường chỉ có tư cách pháp lý để được hoạt động sau khi đã tuân thủ đúng trình tự và thủ tục giao kết. Các bước giao kết hợp đồng lập hội có thể bao gồm: Bước 1: Kiểm soát tính mục đích của việc thành lập hội Bước này nếu có chỉ áp dụng đối với các hội có mục đích phi kinh tế. Ngoài ra bước này còn được sử dụng để kiểm soát hoạt động đầu tư vào nước sở 18