Luận văn Hợp đồng bao tiêu lúa gạo theo pháp luật thương mại từ thực tiễn tỉnh Hậu Giang
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Hợp đồng bao tiêu lúa gạo theo pháp luật thương mại từ thực tiễn tỉnh Hậu Giang", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_hop_dong_bao_tieu_lua_gao_theo_phap_luat_thuong_mai.pdf
Nội dung text: Luận văn Hợp đồng bao tiêu lúa gạo theo pháp luật thương mại từ thực tiễn tỉnh Hậu Giang
- TR Ầ VIỆN HÀN LÂM N I N R KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI Ắ C CHUYÊN NGÀNH: LU TRẦN I RẮC HỢP ĐỒNG BAO TIÊU LÚA GẠO THEO PHÁP LUẬT THƯƠNG MẠI TỪ THỰC TIỄN TỈNH HẬU GIANG Ậ T KINH T Ế LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC KHÓA: VI (ĐKHÓA: Ợ T 1) HÀ NỘI, năm 2017
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN I RẮC HỢP ĐỒNG BAO TIÊU LÚA GẠO THEO PHÁP LUẬT THƯƠNG MẠI TỪ THỰC TIỄN TỈNH HẬU GIANG Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 60.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. NGUYỄN NHƯ PHÁT HÀ NỘI - 2017
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả trong luận văn chưa được công bố trong bất kì công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Học viện khoa học xã hộ. NGƯỜI CAM ĐOAN Trần I Rắc
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU . 1 Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG BAO TIÊU LÚA GẠO 8 1.1. Khái niệm chung về hợp đồng bao tiêu lúa gạo 8 1.2. Đặc điểm và phân loại hợp đồng bao tiêu lúa gạo 12 1.3. So sánh hợp đồng bao tiêu lúa gạo với một số hợp đồng mua bán tài sản khác 15 1.4. Sự cần thiết điều chỉnh pháp lý về hợp đồng bao tiêu lúa gạo 17 Chương 2: PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ HỢP ĐỒNG BAO TIÊU LÚA GẠO 21 2.1. Giao kết hợp đồng bao tiêu lúa gạo 21 2.2. Hiệu lực của hợp đồng bao tiêu lúa gạo 37 2.3. Chấm dứt hợp đồng bao tiêu lúa gạo 40 2.4. Giải quyết tranh chấp hợp đồng bao tiêu lúa gạo 43 Chương 3: THỰC TIỄN GIAO KẾT HỢP ĐỒNG BAO TIÊU LÚA GẠO TẠI TỈNH HẬU GIANG HIỆN NAY - MỘT SỐ VƯỚNG MẮC VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN 52 3.1. Tổng quan vê nền nông nghiệp tỉnh Hậu Giang 52 3.2. Một số vướng mắc và giải pháp hoàn thiện 62 KẾT LUẬN 77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO . 79
- DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLDS Bộ luật Dân sự ĐBSCL Đồng bằng sông Cửu Long HĐ Hợp đồng HĐBTLG Hợp đồng bao tiêu lúa gạo HTX Hợp tác xã LTM Luật Thương mại
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Chế định HĐ là một trong những nội dung quan trọng của pháp luật thương mại Việt Nam không chỉ thể hiện thông qua gần một phần hai trên tổng số các điều luật trong BLDS năm 2015, mà còn xuất phát từ vai trò của HĐ trong đời sống xã hội. Lúa gạo là loại hàng hóa rất quan trọng trong đời sống của mỗi người chúng ta, người Việt Nam sử dụng lúa gạo làm nhu cầu thiết yếu hằng ngày. ĐBSCL - vựa lúa lớn nhất, cũng là vùng sản xuất lương thực hàng đầu cả nước, việc mua bán hàng hóa lúa gạo có ý nghĩa hết sức quan trọng, không những cho vùng mà còn nhu cầu tiêu dùng của các địa phương khác và xuất khẩu, đặc biệt là trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự quản lý của nhà nước, với tổng diện tích (không kể hải đảo) khoảng 3,96 triệu ha, trong đó khoảng 2,6 triệu ha được sử dụng để phát triển nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản chiếm 65%, trong quỹ đất nông nghiệp của ĐBSCL, đất trồng cây hàng năm chiếm trên 50%, trong đó chủ yếu đất lúa trên 90%, được phù sa bồi đấp, nên đất đai màu mỡ, nhất là dãi đất phù sa ngọt màu mỡ có diện tích 1,2 triệu ha dọc sông Tiền và sông Hậu, có điều kiện tự nhiên, thiên nhiên ưu đãi, thích hợp cho việc nuôi trồng và phát triển nông nghiệp, đời sống người dân trong vùng chủ yếu dựa vào ngành sản xuất nông nghiệp là chính [41]. Tỉnh Hậu Giang nằm ở vùng thấp, trung tâm ĐBSCL, tương đối bằng phẳng, kinh tế nông nghiệp đóng vai trò chủ đạo và mua bán lúa gạo diễn ra rất phổ biến, nông dân là người trực tiếp sản xuất ra lúa gạo và cũng là chủ thể đứng ra giao kết HĐ mua bán lúa gạo. Thời gian qua, tỉnh Hậu Giang đã tổ chức liên kết sản xuất, tiêu thụ lúa gạo theo từng mùa vụ bằng hình thức HĐBT giữa doanh nghiệp với nông dân thông qua HTX nông nghiệp, Tổ hợp tác; nông dân trồng lúa bước đầu xác định việc liên kết giữa nông dân với nông dân, giữa nông dân với doanh nghiệp thì sản xuất mới bền vững, không sợ tình trạng bị thương lái ép giá. Tuy 1
- nhiên, qua từng mùa vụ, việc sản xuất, mua bán lúa gạo thông qua HĐBT đã bộc lộ một số bất cập như: HĐ liên kết sản xuất và tiêu thụ giữa doanh nghiệp và nông dân chưa cụ thể, chặt chẽ, chưa có những điều khoản ràng buộc mang tính pháp lý, tình trạng phá vỡ HĐ thường xuyên xảy ra gây thiệt hại cho người nông dân và doanh nghiệp. Ngoài nguyên nhân khách quan do thị trường xuất khẩu gặp khó khăn, thì nguyên nhân chủ quan do HĐ liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân đa số còn lỏng lẻo, thiếu chặt chẽ, các nội dung cơ bản của HĐ chưa cụ thể, nhất là các tiêu chí về chất lượng lúa, thời gian thu hoạch, khảo sát và thỏa thuận giá thị trường, phương pháp kiểm định chất lượng lúa, dụng cụ cân đo nên khi xảy ra tranh chấp khó xử lý. Về chủ quan, giữa doanh nghiệp, HTX, nông dân chưa có sự thông cảm, chia sẻ khó khăn; tính pháp lý của HĐBTLG chưa cao; biện pháp chế tài trong HĐ chưa đủ mạnh; các ngành, các cấp chưa có giải pháp hợp lý để quản lý và sử dụng lực lượng thương lái. Ngoài ra, cũng còn một số khó khăn khác trong liên kết sản xuất như: Giá vật tư của doanh nghiệp đầu tư còn cao hơn so với thị trường, chưa thống nhất về giá thu mua khi đến thời điểm thu hoạch, giá lúa sụt giảm, việc đầu tư của doanh nghiệp chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu sản xuất của nông dân. Bên cạnh đó, HĐBTLG từ những quy định của pháp luật đến thực tiễn có nhiều vấn đề bất cập nảy sinh. Những quy định của pháp luật thương mại về HĐBTLG và những văn bản pháp luật khác liên quan đến HĐBTLG còn nhiều điều bất cập, chưa cụ thể, chủ yếu lồng ghép trong các văn bản pháp luật khác đặc biệt là trong BLDS, nhiều quy định khó được áp dụng hoặc chưa phát huy tính hiệu lực của nó trong thực tiễn. Bên cạnh đó, có nhiều quan hệ về HĐBTLG lại chưa có pháp luật điều chỉnh riêng dẫn tới khi có tranh chấp xảy ra rất khó giải quyết. Việc phân tích và đánh giá thực trạng mua bán lúa gạo thông qua HĐBT hiện nay là điều rất quan trọng để nhìn nhận rõ hơn về tính hiệu quả của việc áp dụng các quy phạm pháp luật hiện hành, qua đó, đưa ra các giải 2
- pháp cụ thể nhằm hoàn thiện khung pháp lý cho HĐ mua bán tài sản nói chung và HĐBT nói riêng theo quy định của pháp luật thương mại Việt Nam trên cơ sở thực tiễn về HĐBTLG tại tỉnh tỉnh Hậu Giang. Từ đó, tác giả chọn đề tài: “Hợp đồng bao tiêu lúa gạo theo pháp luật thương mại từ thực tiễn tỉnh Hậu Giang” để làm đề tài nghiên cứu. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Pháp luật về thương mại nói chung, HĐ nói riêng có vị trí, vai trò quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Vì vậy, từ trước đến nay có rất nhiều công trình nghiên cứu chế định HĐ theo pháp luật thương mại. Có thể chia các công trình nghiên cứu pháp luật về thương mại thành ba nhóm lớn dưới đây: - Nhóm luận văn, luận án, đề tài khoa học: Ở nhóm này có thể liệt kê một số công trình nghiên cứu tiêu biểu như:“Chế định hợp đồng trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”, Luận án tiến sĩ Luật học, của Phạm Hữu Nghị;“Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu”, Luận án tiến sĩ Luật học, của Nguyễn Văn Cường; “Hợp đồng mua bán tài sản - Những vấn đề cấp thiết cần nghiên cứu”, Đề tài nghiên cứu khoa học của TS. Nguyễn Thị Huệ - Nhóm giáo trình, sách: Trong nhóm này phải kể đến một số giáo trình như: Giáo trình Luật Dân sự, Trường đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2012; Giáo trình Luật Thương mại, Trường đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh; Tài liệu học tập Luật Thương mại, Khoa Luật – Trường đại học Cần Thơ. Về sách, hiện có một số sách chuyên khảo liên quan tới một số khía cạnh pháp lý về HĐ, như cuốn: “Pháp luật về hợp đồng” của TS. Nguyễn Mạnh Bách, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2013; “Chế định hợp đồng trong Bộ luật Dân sự Việt Nam” của TS. Nguyễn Ngọc Khánh, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2014; “Luật Hợp đồng Việt Nam - Bản án và Bình luận bản án”, của TS. Đỗ Văn Đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012 - Nhóm các bài báo, tạp chí chuyên nghành luật: Các bài nghiên cứu 3
- thuộc nhóm này được đề cập trên một số tạp chí như Tạp chí Luật học, Tạp chí Tòa án nhân dân, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Báo Pháp luật Việt Nam. Trong đó, có thể kể tới một số bài viết sau: “Hiệu lực và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng” của PGS.TS. Đinh Văn Thanh đăng trên Tạp chí Luật học, số chuyên đề về BLDS, 2015; “Điều chỉnh thông tin bất cân xứng và quản lý rủi ro trong pháp luật hợp đồng Việt Nam” của PGS.TS. Phạm Duy Nghĩa, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2015; “Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng” của TS. Phạm Công Lạc, Báo Pháp luật Việt Nam, Số chuyên đề 01, 2014 Những công trình khoa học trên là tài liệu vô cùng quý báu giúp tác giả có thêm nhiều thông tin quan trọng phục vụ cho việc thực hiện luận văn, nhưng các công trình kể trên không nghiên cứu riêng và toàn diện về HĐBTLG theo quy định của pháp luật thương mại Việt Nam. Vì vậy, việc lựa chọn đề tài “Hợp đồng bao tiêu lúa gạo theo pháp luật thương mại từ thực tiễn tỉnh Hậu Giang” để làm luận văn là không trùng lặp với các công trình khoa học đã được công bố. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích Từ việc nghiên cứu quy định của pháp luật về HĐ nói chung và HĐBTLG theo pháp luật thương mại nói riêng đến thực tiễn tại tỉnh Hậu Giang nhằm đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật thương mại và các hệ thống pháp luật khác có liên quan ở Việt Nam. Việc nghiên cứu của đề tài thông qua phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về HĐBTLG, trên cơ sở đó tìm hiểu những quy định còn bất cập của pháp luật hình thức và nội dung. Nghiên cứu các quan hệ về HĐBTLG ở địa bàn tỉnh Hậu Giang, từ đó phát hiện ra những vướng mắc và đề xuất các biện pháp trong áp dụng pháp luật. Bên cạnh đó, đưa ra quan điểm của bản thân về việc hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực HĐBTLG theo pháp luật thương mại ở nước riêng ta hiện nay. 4
- * Nhiệm vụ Để thực hiện được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ: - Nghiên cứu các quy định của pháp luật về HĐBTLG theo pháp luật thương mại Việt Nam hiện hành. - Phát hiện những hạn chế, vướng mắc, bất cập trong quá trình thực hiện và áp dụng pháp luật về HĐBTLG. - Thực trạng những quan hệ về HĐBTLG theo quy định của pháp luật thương mại tại tỉnh Hậu Giang. - Từ những quy định của pháp luật tới thực tiễn thi hành sẽ có các giải pháp nhằm hoàn thiện khung pháp lý và thực tiễn áp dụng. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng Đề tài đề cập đến những quy định của pháp luật về HĐ nói chung và HĐBTLG nói riêng theo pháp luật thương mại Việt Nam, những quy định của pháp luật trong việc giao kết HĐBTLG như: Nguyên tắc, hình thức, nội dung, chủ thể, ký kết tới việc tranh chấp và giải quyết các tranh chấp phát sinh trong hoạt động mua bán lúa gạo theo pháp luật thương mại và thực tiễn về quan hệ HĐBTLG tại tỉnh Hậu Giang. * Phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật trong việc áp dụng để giao kết, thực hiện HĐBTLG và nghiên cứu thực tiễn quan hệ HĐBTLG cùng với những vấn đề tranh chấp và việc giải quyết các tranh chấp trong HĐBTLG trên địa bàn tỉnh Hậu Giang, để từ đó làm rõ các yêu cầu của đề tài đặt ra. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu * Phương pháp luận Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nuớc 5
- và Pháp luật. * Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp duy vật lịch sử, duy vật biện chứng thông qua việc sử dụng phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề Nhà nước và Pháp luật để nghiên cứu và thực hiện đề tài. Đồng thời, cũng sử dụng phương pháp tổng hợp và phân tích để nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về HĐBTLG theo pháp luật thương mại. Các phương pháp so sánh, khảo sát được thực hiện để vừa đối chiếu các quy định, các quan điểm khác nhau vừa thu thập xử lý số liệu nhằm làm sáng tỏ các vấn đề cần trình bày trong luận văn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Với tư cách là một công trình khoa học nghiên cứu toàn bộ nội dung của chế định HĐBTLG theo quy định của pháp luật thương mại. Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ mang lại đóng góp cả về mặt khoa học và thực tiễn. * Ý nghĩa lý luận - Trước hết, luận văn góp phần phân tích những quy định của pháp luật về HĐBTLG theo pháp luật thương mại nhằm làm rõ các quy định của pháp luật hiện hành. - Trên cơ sở các quy định của pháp luật dân sự hiện hành về HĐBTLG chỉ ra những hạn chế, bất cập trong quá trình áp dụng vào thực tiễn. - Chỉ ra các tranh chấp từ HĐBTLG tại địa phương, đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm giải quyết, hoàn thiện chế định HĐ nói chung và trong HĐBTLG nói riêng. - Luận văn là cơ sở tham khảo cho các công trình nghiên cứu khoa học sau này về HĐBTLG. * Ý nghĩa thực tiễn Qua nghiên cứu và chỉ ra những vướng mắc, bất cập trong chế định HĐ 6
- nói chung và HĐBTLG nói riêng theo quy định của pháp luật thương mại Việt Nam. Từ đó có giải pháp hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật góp phần quan trọng trong thực tiễn áp dụng quan hệ HĐBTLG. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, bố cục của luận văn bao gồm ba chương: Chương 1: Lý luận chung về hợp đồng bao tiêu lúa gạo. Chương 2: Pháp luật hiện hành về hợp đồng bao tiêu lúa gạo. Chương 3: Thực tiễn giao kết hợp đồng bao tiêu lúa gạo tại tỉnh Hậu Giang hiện nay - Một số vướng mắc và hướng hoàn thiện. 7
- Chương 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG BAO TIÊU LÚA GẠO 1.1. Khái niệm chung về hợp đồng bao tiêu lúa gạo 1.1.1. Khái niệm chung về hợp đồng thương mại Để có thể tồn tại và phát triển, các chủ thể trong xã hội phải tham gia vào các giao dịch nhất định thông qua việc trao đổi, dịch chuyển các lợi ích do mình tạo ra và nhận lại những lợi ích vật chất cần thiết từ các chủ thể khác nhằm thỏa mãn các nhu cầu chính đáng của mình. Một trong những phương thức cơ bản để thực hiện việc trao đổi lợi ích trong xã hội chính là sự thỏa thuận giữa các bên, dựa trên các nguyên tắc tự do, tự nguyện, bình đẳng và được đặt dưới sự quản lý của luật pháp. Hiện tượng đó được định danh trong luật bằng thuật ngữ pháp lý là“hợp đồng”. Ngày nay, HĐ là công cụ pháp lý quan trọng và phổ biến để con người thực hiện các giao dịch nhằm thỏa mãn hầu hết mọi nhu cầu của mình. Tuy vậy, trong lịch sử lập pháp của nhân loại, để tìm ra được một thuật ngữ chính xác như thuật ngữ “hợp đồng” đang được sử dụng trong pháp luật của hầu hết các quốc gia ngày nay là việc không dễ dàng. Nhiều luật gia cho rằng thuật ngữ “hợp đồng” (contractus) được hình thành từ động từ “contrahere” trong tiếng La-tinh có nghĩa là “ràng buộc” và xuất hiện lần đầu tiên ở La Mã vào khoảng thế kỷ V - IV TCN [24, tr.10]. Ban đầu, người La Mã cũng không có khái niệm chung “contractus” mà sử dụng các thuật ngữ riêng biệt để chỉ các HĐ cụ thể phổ biến như mua bán (sponsio), vay mượn (mutuum), gửi giữ (depositum), ủy thác (mandatum). Mãi đến thời của luật gia La-be-ôn (thế kỷ I sau CN), người La Mã mới chính thức sử dụng thuật ngữ “contractus” trong luật và quan hệ hợp đồng được pháp luật công nhận và bảo vệ dưới thời Justinnian [19, tr.25]. Sau này, pháp luật các nước phương tây đã kế thừa và phát triển quan niệm pháp lý từ thời La Mã và đã sử dụng chính thức thuật ngữ “hợp đồng” mà trong tiếng Anh được viết là “contract” và trong tiếng Pháp là “contrat”. 8
- Ở Việt Nam, trong thực tế đời sống, có nhiều thuật ngữ khác nhau được sử dụng để chỉ về HĐ: Khế ước, giao kèo, văn tự, văn khế, cam kết, tờ giao ước, tờ ưng thuận Trong cổ luật, dựa vào các cứ liệu lịch sử còn lại cho đến ngày nay, thuật ngữ văn tự, văn khế hay mua, bán, cho, cầm đã được sử dụng khá sớm trong Bộ Quốc triều hình luật [41, tr.60]. Sau này, thuật ngữ “khế ước” mới được sử dụng chính thức trong Sắc lệnh ngày 21/7/1925 (được sửa đổi bởi Sắc lệnh ngày 23/11/1926 và Sắc lệnh ngày 06/9/1927) ở Nam phần thuộc Pháp, trong Bộ Dân luật Bắc kỳ 1931 và trong Bộ Dân luật Trung kỳ 1936 - 1939. Thuật ngữ “khế ước” cũng được sử dụng ở Điều 13 trong Sắc lệnh số 97/SL của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được Hồ Chủ tịch ký ban hành ngày 22/5/1950. Thuật ngữ “khế ước” cũng được sử dụng ở Điều 653 trong Bộ Dân luật 1972 của chế độ Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam trước 30/4/1975. Ngoài ra, trong Dân luật Bắc kỳ 1931, Dân luật Trung kỳ 1936 - 1939 và Dân luật Sài Gòn 1972 còn sử dụng thuật ngữ “hiệp ước” trong đó nhà làm luật xem “khế ước” là một “hiệp ước” [2] hoặc đồng nhất giữa “khế ước” với “hiệp ước” [3]. Hiện nay, các văn bản pháp luật hiện hành của nhà nước ta không còn sử dụng thuật ngữ “khế ước” hay “hiệp ước” như trước đây mà sử dụng các thuật ngữ có tính “chức năng”, “công cụ” như “hợp đồng dân sự” [25]. Nhìn chung, pháp luật của ta xem HĐ là một hành vi nhằm ghi nhận, biểu lộ ý chí của các bên, việc biểu lộ ý chí vừa là hành vi vừa là yếu tố tạo nên nội dung HĐ. Cả hành vi và ý chí đều có mục đích, hướng đến lợi ích nhất định. Ý chí và sự thể hiện ý chí của các bên phải tiến tới sự thoả thuận có tính chất xây dựng, thiết lập một quan hệ pháp lý trên cơ ởs những quy định của pháp luật. Theo Điều 385 BLDS năm 2015 khái niệm HĐ được quy định một cách khái quát: “HĐ là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự” [36]. Tuy nhiên, trong LTM năm 2005 không có khái niệm HĐ thương mại, nhưng có thể hiểu HĐ thương mại là hình thức pháp lý của hành vi thương mại, 9
- là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên (ít nhất một trong các bên phải là thương nhân hoặc các chủ thể có tư cách thương nhân) nhằm xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên trong việc thực hiện hoạt động thương mại [43]. Theo Khoản 1, Điều 6 LTM năm 2005 thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập và có đăng ký kinh doanh. Các hoạt động thương mại ở đây được xác định theo LTM năm 2005, cụ thể tại Điều 1, bao gồm: Hoạt động thương mại thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; hoạt động thương mại thực hiện ngoài lãnh thổ Việt Nam trong trường hợp các bên thỏa thuận chọn áp dụng Luật này hoặc Luật nước ngoài, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi của một bên trong giao dịch với thương nhân thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam trong trường hợp bên thực hiện hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi đó áp dụng luật này [29] và đều phải dựa trên cơ sở những quy định tại BLDS. Điều 5 và Điều 6 BLDS 2015 có quy định như sau: “Áp dụng tập quán, quy định tương tự của pháp luật: Trong trường hợp pháp luật không quy định và các bên không có thoả thuận thì có thể áp dụng tập quán; nếu không có tập quán thì áp dụng quy định tương tự của pháp luật. Tập quán và quy định tương tự của pháp luật không được trái với những nguyên tắc quy định trong Bộ luật này.” Bên cạnh đó, theo quy định của BLDS 2015 thì có thể áp dụng thêm cả án lệ và lẽ công bằng. Đồng thời, theo Điều 4 LTM năm 2005 quy định về áp dụng LTM và pháp luật có liên quan, từ đó có thể hiểu: - Hợp đồng thương mại phải tuân theo pháp luật thương mại và đương nhiên phải phù hợp với các quy định của BLDS. - Hoạt động thương mại đặc thù như kinh doanh bất động sản, kinh doanh bảo hiểm thì được áp dụng theo quy định của luật chuyên ngành đó. - Nếu các luật chuyên ngành không có quy định thì lại quay về áp dụng đạo luật cơ bản đó là BLDS. 10
- 1.1.2. Khái niệm về hợp đồng bao tiêu lúa gạo Trong lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội, việc mua bán làm chấm dứt quyền sở hữu của người bán đối với vật đem bán đồng thời làm phát sinh quyền sở hữu của người mua được thể hiện trong HĐ mua bán hàng hóa. HĐ mua bán hàng hóa có bản chất chung của HĐ, nó là sự thỏa thuận nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong quan hệ mua bán. LTM không đưa ra định nghĩa về HĐ mua bán hàng hóa trong thương mại, nhưng có thể dựa vào khái niệm HĐ mua bán tài sản trong luật dân sự để xác định bản chất của HĐ mua bán hàng hóa. Theo Điều 430 BLDS 2015: “HĐ mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán chuyển quyền sở hữu tài sản cho bên mua và bên mua trả tiền cho bên bán”. Như vậy, hàng hóa thuộc tài sản và có phạm vi hẹp hơn tài sản, từ đó cho thấy, HĐ mua bán hàng hóa trong thương mại một dạng cụ thể của HĐ mua bán tài sản. Ngày 24 tháng 6 năm 2002 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg về chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hóa thông qua HĐ. Theo đó, Điều 2 quy định: “HĐ tiêu thụ nông sản hàng hoá phải được ký với người sản xuất ngay từ đầu vụ sản xuất, đầu năm hoặc đầu chu kỳ sản xuất. HĐ tiêu thụ nông sản hàng hóa được ký giữa các doanh nghiệp với người sản xuất theo các hình thức: - Ứng trước vốn, vật tư, hỗ trợ kỹ thuật, công nghệ và mua lại nôn sản hàng hoá; - Bán vật tư mua lại nông sản hàng hoá; - Trực tiếp tiêu thụ nông sản hàng hoá; - Liên kết sản xuất [37]. Nếu căn cứ vào BLDS 2015, LTM 2005 và Quyết định số 80/2002/QĐ- TTg thì bản chất của HĐBTLG ký kết giữa doanh nghiệp và người sản xuất là một loại HĐ mua bán nông sản hàng hóa mà ở đây là lúa gạo. Tuy nhiên, do quy định tại Điều 2 Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg thì HĐ này không phải là 11
- HĐ mua bán giữa người sản xuất và doanh nghiệp trên thị trường giao ngay. Từ đó, có thể hiểu HĐBTLG là một loại HĐ sản xuất lúa gạo có sự thỏa thuận giữa những người nông dân với các doanh nghiệp chế biến hoặc doanh nghiệp kinh doanh trong việc sản xuất và cung cấp sản phẩm nông nghiệp lúa gạo dựa trên thỏa thuận giao hàng trong tương lai, giá cả đã định trước [45, pg.145] và được ký kết theo các hình thức: Ứng trước vốn, vật tư, hỗ trợ kỹ thuật, công nghệ và mua lại nông sản hàng hoá; bán vật tư mua lại nông sản hàng hoá; trực tiếp tiêu thụ nông sản hàng hoá; liên kết sản xuất. 1.2. Đặc điểm và phân loại hợp đồng bao tiêu lúa gạo 1.2.1. Đặc điểm của hợp đồng bao tiêu lúa gạo Thứ nhất, HĐBTLG cũng giống như HĐ khác điều được giao kết dựa trên cơ sở là sự thỏa thuận giữa bên mua và bên sản xuất. Hay nói cách khác quan hệ HĐ chỉ được hình thành từ những hành vi có ý chí. Theo quan điểm của Mác: “Tự chúng, hàng hoá không thể đi đến thị trường và trao đổi được với nhau. Muốn cho những vật đó trao đổi với nhau thì những người giữ chúng phải đối xử với nhau như những người mà ý chí nằm trong các vật đó” [9, tr.102]. Chỉ khi ý chí của các bên không bị lừa dối hay cưỡng ép mà hoàn toàn tự nguyện được thể hiện thống nhất thì quan hệ HĐ mới được hình thành. Song HĐ đó có hiệu lực hay không còn phụ thuộc vào nội dung thoả thuận của các bên có hợp pháp hay không. Trong HĐBTLG ngoài thỏa thuận về quy trình sản xuất, các bên thoả thuận nhằm làm chấm dứt quyền sở hữu của người bán đối với hàng hóa nông sản lúa gạo và xác lập quyền sở hữu hàng hóa này đối với người mua. Việc chuyển quyền sở hữu tài sản này phải hợp pháp, không vi phạm điều cấm của pháp luật thì HĐBTLG mới có hiệu lực. Thứ hai, sản xuất theo HĐ trong nông nghiệp giá cả sẽ đề xuất những luật lệ cho việc phân bổ ba yếu tố chính: Lợi ích, rủi ro và quyền quyết định [49, pg.2]. Như vậy, bản chất của sản xuất theo HĐBTLG là giá cả phản ánh lợi ích, rủi ro và quyền quyết định của người mua và người bán. Điều này có nghĩa là, 12
- giá đã được thỏa thuận phải đảm bảo người bán thu được lợi ích nhất định và người mua có thể mua hàng với mức giá có thể chấp nhận được; cho dù vào thời điểm giao hàng, giá thị trường có thể cao hơn hoặc thấp hơn giá đã được thỏa thuận. Thứ ba, HĐBTLG vừa là HĐ song vụ, HĐ ưng thuận và là HĐ có tính chất chuyển giao tài sản: - Là HĐ song vụ: HĐBTLG làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham gia giao kết HĐ. Quyền của bên này là nghĩa vụ của bên kia và ngược lại, hai bên có quyền và nghĩa vụ ngang nhau không thể chuyển đổi quyền và nghĩa vụ cho nhau mà đòi hỏi họ phải chấp hành một cách nghiêm chỉnh và đúng pháp luật, khi HĐBTLG được giao kết thì người bán có quyền yêu cầu doanh nghiệp thực hiện các thỏa thuận trong quá trình sản xuất và trước khi thu hoạch thông qua các hình thức bao tiêu được ký kết, thanh toán đủ tiền khi nhận lúa gạo, đồng thời có nghĩa vụ chuyển giao mặt hàng cho bên mua đúng mẫu mã, chất lượng, thời gian, địa điểm giao nhận theo như thỏa thuận. - Là HĐ mang tính chất ưng thuận: HĐ được giao kết dựa trên sự thỏa thuận của các bên về nội dung mà họ muốn hướng tới, là sự gặp gở ý chí của hai bên, sự tự nguyện là yếu tố không thể thiếu, nó phản ánh khách quan, trung thực mong muốn hướng tới bên trong của các bên khi tham gia giao kết, khi các bên tham gia giao dịch HĐ thì có quyền tự do bài tỏ ý chí nguyện vọng của mình về nội dung giao kết mà hoàn toàn không nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa hay cưỡng ép từ bên kia hoặc của người thứ ba tham gia. - Là HĐ có tính chất chuyển giao tài sản: HĐ đã giao kết khi các bên thực hiện HĐ thì có sự chuyển giao giữa bên bán và bên mua sau khi bên mua đã thực hiện xong nghĩa vụ tài chính cho bên bán. Trong trường hợp HĐ thanh toán nhiều lần thì bên bán sẽ chuyển giao quyền sở hữu cho bên mua sau khi nhận được một khoản tiền hai bên đồng ý hoặc tùy vào sự thỏa thuận của các bên. Thông thường mua bán lúa gạo giữa doanh nghiệp với nông dân thì doanh 13
- nghiệp sẽ thanh toán đủ tiền cho bên bán sau khi nhận lúa gạo đầy đủ và đúng chất lượng, việc chuyển giao lúa gạo từ người nông dân sang doanh nghiệp là đã chuyển giao quyền sở hữu vì lúa gạo là loại tài sản không phải đăng ký quyền sở hữu nên người nông dân giao quyền sở hữu cùng với lúa gạo mà mình sở hữu cho doanh nghiệp. 1.2.2. Phân loại hợp đồng bao tiêu lúa gạo Các hình thức của HĐBTLG rất đa dạng, có thể phân loại thành ba hình thức cơ bản: (1) HĐ tiếp cận đầu ra về thị trường, (2) HĐ quản lý sản xuất và (3) HĐ cung cấp đầu dịch vụ đầu vào [26]. - HĐ tiếp cận về đầu ra thị trường: Là một hình thức thỏa thuận và cam kết trước của nhà thu mua (doanh nghiệp) về việc đảm bảo thu mua lúa gạo cho nhà sản xuất (nông dân) với giá cả, số lượng và chất lượng tại một thời điểm nhất định trước khi lúa gạo được thu hoạch. Nông dân phải đảm bảo cung cấp lúa gạo đúng số lượng, chất lượng và thời gian cho doanh nghiệp. Hình thức này chỉ phát huy hiệu quả cao nhất khi giá cả trên thị trường ổn định và không có sự dao động lớn, các thông tin về giá cả phải được doanh nghiệp dự đoán chính xác cũng như trình độ sản xuất của nông dân phải cao để đảm bảo được số lượng và chất lượng sản phẩm như đã ký trong HĐ. Hình thức này làm giảm được chi phí giao dịch cho hai bên trong việc tìm kiếm thị trường và khách hàng. - HĐ quản lý sản xuất: Đây là một hình thức mà người nông dân phải chấp nhận thực hiện theo các yêu cầu kỹ thuật, quy trình sản xuất, các chế độ đầu vào, thời điểm mùa vụ và các khâu xử lý sau thu hoạch do nhà doanh nghiệp đặt ra. Ngoài việc đảm bảo thu mua lại sản phẩm cho nông dân, doanh nghiệp thường chịu trách nhiệm chuyển giao kỹ thuật và giám sát quá trình sản xuất của nông dân. Chi phí chuyển giao kỹ thuật và giám sát sản xuất cho nông dân được bù đắp thông qua việc mua lại được sản phẩm có chất lượng cao hơn và đúng thời gian. Hình thức này giúp nông dân giảm chi phí trong việc tìm kiếm thông tin về 14
- kỹ thuật sản xuất, còn doanh nghiệp thì giảm chi phí và rủi ro trong việc tìm kiếm sản phẩm có chất lượng. - HĐ cung cấp dịch vụ đầu vào: Theo hình thức này doanh nghiệp cung cấp trước đầu vào sản xuất cần thiết cho nông dân như giống, phân bón, Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng thực hiện việc cung cấp kỹ thuật và theo dõi quá trình sản xuất của người dân. Hình thức này đảm bảo cho doanh nghiệp kiểm soát được toàn bộ quy trình sản xuất của người dân từ đầu vào cho đến đầu ra, người nông dân gần như trở thành một “nhân viên” của doanh nghiệp. Việc thu mua lại sản phẩm của nông dân sẽ đảm bảo cho doanh nghiệp trong việc thu hồi lại được vốn đã ứng trước cho người dân. Hình thức này giúp cho cả hai bên giảm được chi phí giao dịch trong việc tìm kiếm thông tin về thị trường, khách hàng và chất lượng sản phẩm đầu vào. 1.3. So sánh hợp đồng bao tiêu lúa gạo với một số hợp đồng mua bán tài sản khác 1.3.1. So sánh hợp đồng bao tiêu lúa gạo với hợp đồng mua bán nông sản khác HĐBTLG với HĐ mua bán nông sản có cùng điểm chung là HĐ mua bán tài sản là hàng hóa từ nông nghiệp, cùng là HĐ song vụ mang tinh chất ưng thuận. Nội dung của HĐ đều do sự thoả thuận của hai bên, về cách thức thanh toán do hai bên chọn, quyền và nghĩa vụ của hai bên đều bằng nhau, không bên nào bị thiệt hại so với bên nào. Tuy nhiên, trong HĐBTLG hai bên sẽ thỏa thuận về hình thức bao tiêu, quy cách chất lượng, thời gian thu hoạch và địa điểm giao nhận lúa gạo, nhận tiêu thụ toàn bộ hoặc một phần sản phẩm lúa gạo (của một đơn vị sản xuất) theo những điều kiện nhất định; ràng buột về chất lượng sản phẩm để giúp bên mua đảm bảo được chất lượng đầu vào tối thiểu, số lượng lúa gạo tối thiểu mà bên mua mong muốn, bởi vì hình thức bao tiêu thường theo diện tích sản xuất hoặc đầu giống; mức giá thấp nhất mà bên bao tiêu chi trả cho một khối lượng sản 15
- phẩm nhất định, đảm bảo việc bên bán ít có khả năng bị ép giá hơn; trong phần diện tích bao tiêu người bán không được bán cho bên thứ ba đảm bảo việc tuân thủ HĐ của bên bán với bên mua. Đặc biệt, HĐ được ký kết ngay từ đầu vụ sản xuất, đầu năm hoặc chu kỳ sản xuất. 1.3.2. So sánh hợp đồng bao tiêu lúa gạo với hợp đồng mua bán tài sản khác (hợp đồng mua bán nhà) HĐBTLG với HĐ mua bán tài sản khác có bản chất chung là HĐ mua bán, có sự thỏa thuận của bên mua và bên bán theo đó, bên bán có nghĩa vụ giao hàng cho bên mua và chuyển giao quyền sở hữu cho bên mua; bên mua có nghĩa vụ nhận hàng, quyền sở hữu và thanh toán cho bên bán, bên cạnh đó hai loại HĐ này đều có thể xác lập bằng hình thức lời nói, văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể, khi pháp luật không có quy định loại HĐ đó phải được giao kết bằng một hình thức nhất định. Tuy nhiên, giữa HĐBTLG với HĐ mua bán tài sản khác mà ở đây điển hình là HĐ mua bán nhà cũng có điểm khác nhau. Ngoài sự khác nhau về định nghĩa về hai loại HĐ thì HĐBTLG có bản chất là HĐ mua bán tài sản hàng hóa lúa gạo mà người nông dân sản xuất ra hình thành trong tương lai. HĐ mua bán nhà thì được BLDS 2015 quy định thành một chế định riêng, còn HĐBTLG được hiểu dựa vào khái niệm HĐ mua bán tài sản trong luật dân sự để xác định bản chất của HĐ. Bên cạnh đó, có thể xem HĐBTLG là loại HĐ mua bán tài sản được hình thành trong tương lai và trong mua bán nhà cũng có hình thức HĐ mua bán nhà hình thành trong tương lai, nhưng trái với HĐBTLG thì HĐ mua bán nhà hình thành trong tương lai phải tuân thủ các điều kiện nghiêm ngặt của pháp luật, cụ thể theo Luật Kinh doanh bất động sản sản năm 2014 về thời điểm được quyền bán, tiến độ và tỷ lệ vốn được huy động vốn, bảo lãnh của Ngân hàng thương mại đối với chủ đầu tư dự án khi bán/cho thuê nhà ở hình thành trong tương lai [34] 16