Luận văn Hội đồng xét xử sở thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam

pdf 84 trang vuhoa 24/08/2022 9060
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Hội đồng xét xử sở thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_hoi_dong_xet_xu_so_tham_theo_phap_luat_to_tung_hinh.pdf

Nội dung text: Luận văn Hội đồng xét xử sở thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI KHỔNG QUANG TRƢỜNG HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SỞ THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 60.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VĂN HIỂN HÀ NỘI, 2017
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. NGƢỜI CAM ĐOAN KHỔNG QUANG TRƢỜNG
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 7 1.1. Cơ sở lý luận về Hội đồng xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự 7 1.2. Địa vị pháp lý và thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm 18 Chƣơng 2: PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG 22 2.1. Quá trình phát triển của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về Hội đồng xét xử sơ thẩm 22 2.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về Hội đồng xét xử sơ thẩm 27 2.3. Những bất cập, tồn tại trong thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về Hội đồng xét xử sơ thẩm 41 Chƣơng 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ 57 3.1. Hoàn thiện các quy định của bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về Hội đồng xét xử sơ thẩm 57 3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự 67 KẾT LUẬN 73 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 75
  4. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Viết tắt Viết đầy đủ BLHS: Bộ luật hình sự BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự HLPL: HLPL HĐXX: Hội đồng xét xử HĐXXST: Hội đồng xét xử sơ thẩm HĐND: Hội đồng nhân dân TTHS: Tố tụng hình sự TSKH: Tiến sỹ khoa học TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao TAND: Tòa án nhân dân TAQS: Tòa án quân sự VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao VKSND: Viện kiểm sát nhân dân UBTP: Ủy ban Thẩm phán UBMTTQ: Ủy ban mặt trận Tổ quốc UBND: Ủy ban nhân dân UBTV: Ủy ban thường vụ
  5. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Xét xử là một hoạt động đặc thù của Tòa án để thực hiện quyền tư pháp (xét xử). Theo Hiến pháp năm 2013 của nước ta thì Tòa án là chủ thể duy nhất trong bộ máy nhà nước được giao thực hiện thẩm quyền này: “TANDTC, các TAND địa phương, các TAQS và các Tòa án khác do luật định là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp” (khoản 1 Điều 102). Trong TTHS, xét xử sơ thẩm là khâu (hoạt động) đầu tiên của giai đoạn xét xử vụ án hình sự - giai đoạn trung tâm và giữ vai trò quyết định đối với toàn bộ quá trình TTHS. Bằng phán quyết của mình về vụ án Tòa án nhân danh Nhà nước kết tội đối với người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm hoặc tuyên bố họ vô tội: “Không ai có thể bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội có HLPL của Tòa án”. Đặc thù của hoạt động xét xử thể hiện ở chỗ quyền tư pháp (xét xử) của Tòa án được thực hiện thông qua Thẩm phán, Hội thẩm (HĐXX), hay nói cách khác HĐXX là chủ thể trực tiếp thực hiện quyền tư pháp. Vì vậy, địa vị pháp lý cũng như vai trò của HĐXX trong xã hội và trong TTHS nói riêng vô cùng quan trọng. Nghị quyết số 49-NQ/TW đã khẳng định: “Tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm” [11]. Mọi sự thiếu thận trọng, không khách quan, vô tư của HĐXX đều có thể dẫn đến hậu quả rất nghiêm trọng, xâm phạm các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, thậm chí có thể tước bỏ cả quyền sống của con người, gây ảnh hưởng lớn đến uy tín của Nhà nước, gây mất lòng tin của nhân dân vào công lý. Trên cơ sở các quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp, tổng kết thực tiễn thi hành BLTTHS năm 1988 và tiếp thu có chọn lọc thành tựu của khoa học pháp lý và kinh nghiệm lập pháp của các nước tiên 1
  6. tiến, ngày 26/11/2003 Quốc hội khóa XI đã thông qua BLTTHS sửa đổi (BLTTHS năm 2003). BLTTHS năm 2003 đã bổ sung nhiều quy định mới theo hướng mở rộng dân chủ, đề cao tính tranh tụng trong xét xử; các quy định về HĐXX, về quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán, Hội thẩm trong quá trình xét xử cũng được sửa đổi bổ sung cụ thể và đầy đủ hơn. Tuy nhiên, sau hơn 10 năm áp dụng, BLTTHS năm 2003 nói chung và các quy định về HĐXX nói riêng đã bộc lộ nhiều bất cập, không phù hợp với vị trí, vai trò và chức năng xét xử của Tòa án Vì vậy, nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hoàn thiện hệ thống pháp luật theo tinh thần Nghị quyết số 48- NQ/TW và Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 27/11/2015 Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật số 101/2015/QH13 về BLTTHS sửa đổi (BLTTHS năm 2015). Tuy chưa có hiệu lực thi hành nhưng BLTTHS mới nói chung và các quy định về HĐXX nói riêng cho thấy các bất cập, tồn tại của BLHS năm 2003 vẫn chưa được khắc phục triệt để. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu lý luận về HĐXX (và HĐXXST nói riêng) nhằm làm rõ vai trò và địa vị pháp lý của chủ thể này trong TTHS, phân tích những bất cập, hạn chế trong các quy định của BLTTHS hiện hành (và cả các quy định của BLTTHS năm 2015) về HĐXXST, trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện pháp luật TTHS và nâng cao hiệu quả xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự là vấn đề cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Các luận cứ nêu trên chính là lý do để tác giả lựa chọn vấn đề “Hội đồng xét xử sơ thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam” làm đề tài Luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Ở nước ta đã có nhiều công trình nghiên cứu ở các góc độ khác nhau về các chủ thể (HĐXX, Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, Điều tra viên, Luật sư ) cũng như về địa vị pháp lý của các chủ thể này trong TTHS, trong đó có 2
  7. một số Luận văn Thạc sĩ Luật học nghiên cứu về các vấn đề này như: “Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong Luật TTHS Việt Nam” (2000), Luận văn thạc sỹ luật học của Hoàng Văn Hạnh; “Các chức năng tố tụng cơ bản trong TTHS” (2001), Luận văn thạc sỹ luật học của Lê Tiến Châu; Nhiều bài viết của các nhà khoa học và cán bộ thực tiễn về các vấn đề liên quan đến HĐXX đăng trên các báo và tạp chí chuyên ngành như: “Một số vấn đề về chế định Hội thẩm nhân dân” của Chánh án TANDTC Trương Hòa Bình, dan/155171.vgp; “Nguyên tắc việc xét xử của Tòa án có Hội thẩm nhân dân tham gia, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán: Thực tiễn và những bất cập” của tác giả Trần Kỳ, tac-viec-xet-xu-cua-toa-an-nhan-dan-co-hoi-tham-nhan-dan-tham-gia-hoi- tham-ngang-quyen-voi-tham-phan-thuc-tien-va-nhung-bat-cap/; “Nguyên tắc suy đoán vô tội” (2006) của PGS TS. Nguyễn Thái Phúc, Tạp chí Nhà nước pháp luật số 11; “Địa vị pháp lý của những người tiến hành tố tụng” (2008) của TS. Nguyễn Văn Tuân, Tạp chí TAND số 02; "Cải cách tư pháp và việc hoàn thiện các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự Việt Nam" (2012), Tạp chí Kiểm sát số 08 và “Xác định Tòa án có vị trí trung tâm, xét xử là hoạt động trọng tâm” của GS.TSKH Đào Trí Úc, hoc/chi-tiet/79/276; “Vị trí, chức năng của TAND trong Hiến pháp năm 2013” của PGS. TS Trần Văn Độ, tham-khao.aspx?ItemID=13; "Về quyền tư pháp, hoạt động tư pháp, cơ quan tư pháp, kiểm sát hoạt động tư pháp" của PGS TS Trần Đình Nhã, hoat-dong-tu-phap,-co-quan-tu-phap,-kiem-sat-hoat-dong-tu-phap.html; Ngoài ra, các đề tài khoa học, sách chuyên khảo, bình luận, giáo trình cũng đề cập về HĐXXST ở các mức độ khác nhau như: “Hoàn thiện pháp luật 3
  8. TTHS nhằm nâng cao hiệu quả xét xử theo tinh thần cải cách tư pháp” (2009), Đề tài khoa học cấp trường của Đại học luật Hà Nội; “Thể chế tư pháp trong Nhà nước pháp quyền” (2004) của GS. TS Nguyễn Đăng Dung, NXB Tư pháp; Giáo trình Luật TTHS Việt Nam (2012) của Đại học Luật Hà Nội Qua nghiên cứu các công trình nêu trên cho thấy, HĐXXST đã được nghiên cứu ở các góc độ, phạm vi khác nhau. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu, có hệ thống và toàn diện về HĐXXST kết hợp so sánh với các quy định của BLTTHS năm 2015. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu về HĐXXST trong TTHS, chỉ ra những bất cập, tồn tại trong các quy định của BLTTHS hiện hành cũng như của BLTTHS năm 2015 về HĐXXST, những vướng mắc trong thực tiễn và nguyên nhân làm cơ sở để đưa ra một số giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật TTHS nói chung (và các quy định về HĐXXST nói riêng) và nâng cao hiệu quả xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự là nhu cầu cấp thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn có mục đích nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống về HĐXXST nhằm làm sáng tỏ khái niệm, địa vị pháp lý (vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn) của HĐXXST; quá trình phát triển của pháp luật TTHS Việt Nam về HĐXXST; quy định của pháp luật TTHS Việt Nam hiện hành về HĐXXST và những bất cập, tồn tại khi áp dụng các quy định này trong thực tiễn để làm cơ sở đưa ra một số giải pháp hoàn thiện pháp luật TTHS nói chung và về HĐXXST nói riêng TTHS và nâng cao hiệu quả xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự. Luận văn tập trung nghiên cứu một số vấn đề cơ bản về HĐXXST trong TTHS, cụ thể là: - Cơ sở lý luận, khái niệm, địa vị pháp lý và thẩm quyền của HĐXXST - Lịch sử phát triển của pháp luật TTHS Việt Nam về HĐXXST; 4
  9. - Quy định của BLTTHS Việt Nam hiện hành về HĐXXST và những bất cập, tồn tại của các quy định này (có so sánh với các quy định tương ứng của BLTTHS mới); - Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật TTHS về HĐXXST và nâng cao hiệu quả xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự ở nước ta. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của Luận văn bao gồm các vấn đề sau: - Nghiên cứu một số vấn đề chung (cơ sở lý luận, khái niệm, đặc điểm, địa vị pháp lý và thẩm quyền) của HĐXXST làm cơ sở cho việc phân tích các quy định của pháp luật TTHS về vấn đề này. - Phân tích, làm rõ các quy định của BLTTHS hiện hành và các văn bản pháp luật có liên quan về HĐXXST. - Chỉ ra những bất cập, hạn chế trong các quy định của BLTTHS hiện hành (có so sánh với các quy định tương ứng của BLTTHS mới) về HĐXXST và nguyên nhân; - Đưa ra một số giải pháp tiếp tục hoàn thiện các quy định của BLTTHS về HĐXXST và nâng cao hiệu quả xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự. Phạm vi nghiên cứu của Luận văn là chế định HĐXXST trong TTHS, các quy định của pháp luật TTHS hiện hành, BLTTHS năm 2015 và các văn bản hướng dẫn áp dụng; thực tiễn áp dụng các quy định của BLTTHS về HĐXXST. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối và các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN và cải cách tư pháp. 5
  10. Ngoài ra, trong quá trình thực hiện đề tài tác giả còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích - tổng hợp, hệ thống, so sánh, thống kê, khảo sát thực tiễn, đồng thời tham khảo nhằm kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học về vấn đề này và các vấn đề liên quan. Các kết luận và đề xuất trong Luận văn đều dựa trên cơ sở phân tích lý luận, thực tiễn và xu hướng phát triển của nền tư pháp Việt Nam trong tương lai. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn góp phần bổ sung về lý luận cho khoa học Luật TTHS khi làm sáng tỏ đầy đủ hơn về khái niệm, vị trí, vai trò và thẩm quyền của HĐXXST; chỉ ra những bất cập, hạn chế trong BLTTHS hiện hành về HĐXXST và những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật TTHS và nâng cao chất lượng xét xử các vụ án hình sự đề xuất trong Luận văn có thể sử dụng để tham khảo trong quá trình sửa đổi bổ sung BLTTHS. Ngoài ra, Luận văn là tài liệu bổ ích cho những người quan tâm về vấn đề này hoặc có thể sử dụng tham khảo trong công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập ở các cơ sở đào tạo luật và cán bộ thực tiễn. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài Lời mở đầu, Mục lục, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Luận văn được kết cấu gồm 3 chương: Chương 1. Một số vấn đề chung về Hội đồng xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự. Chương 2. Pháp luật tố tụng hình sự Việt nam hiện hành về Hội đồng xét xử sơ thẩm và thực tiễn áp dụng. Chương 3. Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về Hội đồng xét xử sơ thẩm và một số giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự. 6
  11. Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1. Cơ sở lý luận về Hội đồng xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự 1.1.1. Chế định Hội đồng xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Về bản chất thì nhân dân là chủ thể cao nhất của quyền lực nhà nước (hay nói cách khác tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân). Do vậy, đảm bảo sự tham gia của nhân dân trong việc thực hiện và kiểm soát quyền lực nhà nước (quản lý nhà nước, quản lý xã hội) là yêu cầu tất yếu và quan trọng đặt ra đối với bất kỳ một nhà nước dân chủ, tiến bộ nào. Xét xử là hoạt động của Tòa án nhằm thực hiện quyền tư pháp (một trong ba nhánh quyền lực nhà nước). Sự tham gia của nhân dân vào hoạt động xét xử là một chế định thể hiện bản chất dân chủ, tiến bộ của nền tư pháp và được coi là một trong những nguyên tắc cơ bản mang tính hiến định được ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật của nhiều quốc gia. Sự tham gia của nhân dân vào công tác xét xử của Tòa án là rất cần thiết xuất phát trước hết từ chỗ pháp luật chỉ là những khuôn mẫu chung khá cứng nhắc được xây dựng trên sự đồng thuận theo tỷ lệ mà xã hội chấp nhận được mà không phải là sự đồng thuận tuyệt đối, cho nên pháp luật cũng không phải là một giá trị tuyệt đối đúngcó thể áp dụng cho mọi trường hợp. Mặt khác, pháp luật cũng chỉ là một loại quy phạm xã hội có giá trị áp dụng cao nhất chứ không phải là toàn bộ các quy phạm xã hội và có thể thay thế các quy phạm xã hội khác trong đời sống hàng ngày. Vì vậy, quá trình xét xử cần thiết phải có tiếng nói từ thực tiễn xã hội (của nhân dân) nhằm bảo đảm không chỉ sự “thấu tình, đạt lý” của các phán quyết có tính quyết định đối với một quan hệ xã hội (hay một người) nào đó, mà còn thể hiện tính nhân dân của Nhà nước pháp quyền [1]. 7
  12. Tuy nhiên, hình thức tham gia xét xử của nhân dân ở các nước được thể hiện rất khác nhau với chế định Bồi thẩm đoàn hoặc chế định Hội thẩm. Chế định Bồi thẩm đoàn được áp dụng không chỉ ở các nước thuộc hệ thống luật án lệ (như Anh, Mỹ, ) mà cả ở một số nước thuộc hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa (như Pháp, Đức, Nga, ). Ví dụ: tại khoản 2 Điều 3 Hiến pháp của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ quy định: “Mọi Toà án xét xử các vụ trọng tội, trừ những trường hợp bị luận tội, phải được xét xử theo thể thức bồi thẩm đoàn ” [45]. Một số nước khác lại áp dụng chế định Hội thẩm, theo đó Hội đồng xét xử có thể bao gồm Thẩm phán chuyên nghiệp và Thẩm phán không chuyên nghiệp (ví dụ: Theo quy định của BLTTHS Hàn Quốc (Điều 352), khi xét xử các vụ án hình sự sơ thẩm nghiêm trọng, thì Hội đồng xét xử bao gồm 03 Thẩm phán và 06 Hội thẩm) [53]. Một số nước khác lại quy định chỉ các Thẩm phán chuyên nghiệp mới có thẩm quyền xét xử (ví dụ: Nhật Bản). Ở Việt Nam, chế định Hội thẩm là sự thể hiện tập trung và nét rõ nhất sự tham gia của nhân dân vào hoạt động xét xử của Tòa án, thể hiện tư tưởng “lấy dân làm gốc”, bản chất nhà nước của dân, do dân và vì dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và được ghi nhận trong tất cả các Hiến pháp của nước ta từ năm 1946 đến nay [2]. Theo quy định của Luật tổ chức TAND năm 2014 (và Hiến pháp năm 2013) thì “TAND là cơ quan xét xử , thực hiện quyền tư pháp . có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, ” (Điều 2) và hoạt động xét xử của Tòa án được thực hiện theo nguyên tắc “chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm” (Điều 6). Theo nguyên tắc này thì sơ thẩm là cấp xét xử thứ nhất và phúc thẩm là cấp xét xử thứ hai, còn giám đốc thẩm hoặc tái thẩm không phải là cấp xét xử mà chỉ là thủ tục tố tụng đặc biệt để xem xét lại các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới. Xét xử sơ thẩm được hiểu là “lần đầu tiên đưa vụ 8
  13. án ra xét xử tại một Tòa án có thẩm quyền” [51, tr.870], “là việc xét xử lần thứ nhất (cấp thứ nhất) do Tòa án được giao thẩm quyền thực hiện theo quy định của pháp luật”, kể cả trường hợp một vụ án bị Toà án cấp trên (phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm) huỷ bản án để xét xử sơ thẩm lại [25]. Trong TTHS chế định HĐXXST là sự cụ thể hóa hai nguyên tắc hiến định được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 (Điều 103), Luật tổ chức TAND năm 2014 (Điều 8 và Điều 10) và BLTTHS năm 2015 (Điều 22 và Điều 24): “Việc xết xử sơ thẩm của Tòa án có Hội thẩm tham gia theo quy định của luật tố tụng, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn “Toàn án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn”. Theo quy định này theo đa số, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn”. Theo các quy định này thì trong đa số các trường hợp việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự do HĐXX thực hiện, còn trường hợp áp dụng thủ tục rút gọn thì việc xét xử án do một Thẩm phán tiến hành (Điều 463 BLTTHS năm 2015). 1.1.2. Khái niệm và các đặc điểm của Hội đồng xét xử sơ thẩm * Khái niệm Hội đồng xét xử sơ thẩm: Theo Từ điển luật học thì HĐXX (sơ thẩm) là “Hội đồng gồm các Thẩm phán và Hội thẩm do Tòa án có thẩm quyền lập ra để nhân danh Nhà nước trực tiếp xét xử tại phiên tòa các vụ án và ra bản án hoặc quyết định đối với các vụ án” [51, tr.386]. Khi xét xử sơ thẩm, HĐXX có trách nhiệm giải quyết toàn bộ vụ án, mọi chứng cứ tài liệu được thu thập ở giai đoạn điều tra hoặc bổ sung đều được xem xét, thẩm tra, đánh giá công khai tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng được trình bày ý kiến và tranh luận bình đẳng tại phiên tòa. Đây là điểm khác biệt giữa xét xử sơ thẩm với các cấp xét xử khác (phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm). 9
  14. Thực tiễn xét xử cho thấy tất cả các vụ án hình sự bị đưa ra xét xử đều phải qua xét xử sơ thẩm. Vì vậy, đây là hoạt động thường xuyên và chủ yếu trong các hoạt động xét xử của toàn ngành của TAND nói chung và của các Tòa án cấp sơ thẩm nói riêng. Đây cũng là hoạt động tác động đến rất nhiều mặt (chính trị, kinh tế, xã hội ) của đời sống xã hội và trực tiếp tác động đến các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đặc biệt là đối với bị cáo. Theo quy định của pháp luật TTHS hiện hành, chỉ có các TAND cấp huyện (TAQS khu vực) và TAND cấp tỉnh (TAQS cấp quân khu) mới có thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự. Theo quy định của BLTTHS năm 2015 thì Thẩm phán và Hội thẩm được Chánh án Tòa án phân công xét xử vụ án (điểm b khoản 1 Điều 44). Trong thời hạn chuẩn bị xét xử Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải ra một trong các quyết định sau (khoản 1 Điều 277): a) Đưa vụ án ra xét xử; b) Trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung; Trong quyết định đưa vụ án ra xét xử phải ghi rõ họ tên Thẩm phán, Hội thẩm và Thẩm phán dự khuyết, Hội thẩm dự khuyết nếu có (Điều 255). Như vậy, về mặt pháp lý HĐXXST không phải là bộ phận thường trực trong cơ cấu tổ chức của Tòa án mà chỉ là chủ thể mang tính “lâm thời” được thành lập trên cơ sở phân công của Chánh án và quyết định đưa vụ án ra xét xử của Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa và sẽ tự giải tán sau khi xét xử xong vụ án đó (kết thúc phiên tòa). Xuất phát từ địa vị pháp lý đặc biệt của Tòa án (là cơ quan thực hiện quyền tư pháp có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân ), nhằm bảo đảm sự thận trọng, tính khách quan, công bằng và chính xác ra phán quyết về số phận con người (bị cáo), đồng thời căn cứ vào 10
  15. tính chất của các vụ án hình sự mà BLTTHS có quy định khác nhau về thành phần HĐXXST, cụ thể là: a) Trường hợp xét xử các vụ án về tội có mức cao nhất của khung hình phạt không phải là tù chung thân, tử hình, thì HĐXXST gồm 01 Thẩm phán và 02 Hội thẩm (khoản 1 Điều 254). b) Trường hợp xét xử vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì HĐXXST có thể gồm 02 Thẩm phán và 03 Hội thẩm (khoản 1 Điều 254). c) Trường hợp xét xử vụ án có bị cáo bị xét xử về tội mà mức cao nhất của khung hình phạt là tù chung thân, tử hình, thì HĐXXST bắt buộc phải có 02 Thẩm phán và 03 Hội thẩm (khoản 2 Điều 254). Ngoài các thành viên chính thức, HĐXXST còn có thể có Thẩm phán và Hội thẩm dự khuyết. Các thành viên này phải có mặt tại phiên tòa từ đầu mới được tham gia xét xử. Trường hợp xét xử người dưới 18 tuổi phạm tội thì HĐXXST bắt buộc phải có 01 Hội thẩm là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn thanh niên hay người có kinh nghiệm, hiểu biết tâm lý người dưới 18 tuổi (khoản 1 Ðiều 423). Trong mọi trường hợp, Chủ tọa phiên tòa bắt buộc phải là Thẩm phán và các Hội thẩm luôn chiếm đa số (02/03 hoặc 03/05) trong HĐXX. Theo Luật tổ chức TAND năm 2014, Thẩm phán “là công dân Việt Nam, trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần dũng cảm và kiên quyết bảo vệ công lý, liêm khiết và trung thực; Có trình độ cử nhân luật trở lên; Đã được đào tạo nghiệp vụ xét xử; Có thời gian làm công tác thực tiễn pháp luật; Có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao được Chủ tịch nước bổ nhiệm để làm nhiệm vụ xét xử” (Điều 65 và Điều 67). Hội thẩm “là công dân Việt Nam, trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt; Có kiến thức pháp luật; Có hiểu biết xã hội; Có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được 11
  16. giao” (Điều 85) được HĐND có thẩm quyền bầu theo sự lựa chọn và giới thiệu của UBMTTQ Việt Nam cùng cấp. (Điều 86). Việc quy định về các điều kiện và tiêu chuẩn này của Thẩm phán và Hội thẩm nhằm bảo đảm để họ có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và không làm oan người vô tội. Từ phân tích trên, có thể rút ra khái niệm sau: HĐXXST là Hội đồng gồm Thẩm phán và các Hội thẩm do Tòa án có thẩm quyền lập ra để thực hiện quyền tư pháp - xét xử sơ thẩm đối với một vụ án hình sự cụ thể tại phiên tòa và ra phán quyết nhân danh Nhà nước về vụ án đó”. * Các đặc điểm của HĐXXST: Từ, phân tích trên về khái niệm HĐXXST có thể rút ra một số đặc điểm sau đây của HĐXXST: 1) Xét xử sơ thẩm là cấp xét xử lần đầu và là khâu đầu tiên của giai đoạn xét xử vụ án hình sự do HĐXXST thực hiện. 2) Thành phần HĐXXST được quy định khác nhau (03 hoặc 05 thành viên) tùy thuộc vào tính chất của vụ án hình sự được đưa ra xét xử. Trong mọi trường hợp thì Chủ tọa phiên tòa phải là Thẩm phán và các Hội thẩm luôn chiếm đa số trong HĐXX. 3) HĐXXST là chủ thể “lâm thời” được Tòa án thành lập để trực tiếp thực hiện quyền tư pháp (xét xử) đối với một vụ án cụ thể và tự giải tán sau khi phiên tòa kết thúc. 4) Việc xét xử sơ thẩm vụ án được tiến hành trên cơ sở cáo trạng của Viện kiểm sát theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. 5) HĐXXST thảo luận tập thể và biểu quyết theo đa số mọi vấn đề cần giải quyết trong vụ án và bằng bản án nhân danh Nhà nước tuyên bố một người là phạm tội hoặc không phạm tội. 1.1.3. Các nguyên tắc hoạt động của Hội đồng xét xử sơ thẩm Theo Từ điển tiếng Việt thì “nguyên tắc là điều cơ bản định theo, nhất 12
  17. thiết phải tuân theo” [45, tr.1077]. Về khái niệm nguyên tắc cơ bản của TTHS hiện nay trong Khoa học luật TTHS còn có ý kiến khác nhau. Tuy nhiên, theo đa số các nhà khoa học thì các nguyên tắc cơ bản của TTHS là những phương châm, định hướng quan trọng chi phối toàn bộ hay một số giai đoạn của quá trình TTHS, quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật TTHS, được quy định trong BLTTHS mà các chủ thể tham gia vào quá trình TTHS, các cơ quan nhà nước, tổ chức và mọi công dân phải tuân theo [24, tr.232]. Các nguyên tắc này bảo đảm cho các hoạt động TTHS được tiến hành theo đúng các quy định của pháp luật nhằm đạt được mục đích đặt ra của TTHS là “phát hiện chính xác và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội”. Là một hoạt động giữ vai trò trung tâm của quá trình TTHS, hoạt động xét xử cũng phải tuân theo những nguyên tắc chung được quy định trong BLTTHS, trong đó các nguyên tắc như: Suy đoán vô tội; Xác định sự thật của vụ án; Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số có tác động trực tiếp đến hoạt động của HĐXXST. * Nguyên tắc suy đoán vô tội: Đây là một trong các nguyên tắc hiến định của TTHS được quy định tại Điều 72 Hiến pháp và Điều 13 BLTTHS năm 2015:“Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội”. Theo nguyên tắc này thì một người bị khởi tố, điều tra, truy tố và bị đưa ra xét xử tại phiên tòa vẫn được coi là không có tội. Kể cả trong trường hợp Tòa án (HĐXX) đã tuyên bản án kết tội và áp dụng hình phạt đối 13
  18. với bị cáo, thì họ cũng vẫn được coi là không có tội cho đến khi bản án kết tội này có HLPL. Nguyên tắc suy đoán vô tội đòi hỏi tại phiên tòa HĐXX và các chủ thể tham gia tố tụng khác phải có thái độ tôn trọng, không được định kiến, không được đối xử với bị cáo như người có tội. Việc xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa phải bảo đảm sự vô tư, khách quan mà không được suy diễn hay kết luận không có căn cứ. Tuy nhiên, trên thực tế nhiều trường hợp việc nhận thức và thực hiện nguyên tắc này không đúng và thống nhất. Không ít chủ thể tiến hành tố tụng (Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm) vẫn định kiến đối với bị cáo, coi họ là có tội ngay khi đang xét xử nên có thái độ ép buộc bị cáo nhận tội, suy diễn theo hướng bị cáo có tội. Nhiều trường hợp trên các phương tiện thông tin đại chúng người ta đã “kết án” khi gọi bị cáo “tên giết người”, “tên tội phạm”, mặc dù trên thực tế vụ án mới chỉ được khởi tố, điều tra hoặc đang xét xử. Đây là những biểu hiện vi phạm nguyên tắc suy đoán vô tội cần được khắc phục. * Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án: Điều 15 BLTTHS năm 2015 quy định như sau: “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ”. Đây là nguyên tắc xuyên suốt toàn bộ quá trình TTHS nhằm bảo đảm để xác định sự thật khách quan làm cơ sở để Tòa án đưa ra phán quyết đúng đắn về vụ án. Nguyên tắc này đòi hỏi HĐXX phải kiểm tra xác minh tính hợp pháp và đánh giá một cách khách quan, đầy đủ và toàn diện tất cả các chứng cứ (cả buộc tội và gỡ tội), tài liệu được thu thập và được đưa ra tại phiên tòa cũng như các tình tiết khác có liên quan để từ đó đưa ra phán quyết đúng đắn về vụ án. 14
  19. Tuy nhiên, giữa các nhà khoa học cũng như cán bộ thực tiễn đang có các ý kiến khác nhau về nguyên tắc này. Ý kiến thứ nhất cho rằng, quy định về nguyên tắc này trong BLTTHS hiện hành là phù hợp, nó gắn trách nhiệm xác định sự thật của vụ án và chứng minh tội phạm cho cả Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án [18]. Ý kiến thứ hai cho rằng, cần loại bỏ quy định trách nhiệm chứng minh tội phạm của Tòa án với lý do Tòa án là người thực hiện chức năng xét xử, còn trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về chức năng buộc tội và phải do các chủ thể của bên buộc tội thực hiện. Việc quy định Tòa án có trách nhiệm chứng minh tội phạm là không phù hợp với vai trò trọng tài “cầm cân công lý” của Tòa án. Mặt khác, quy định này còn dẫn đến tình trạng bất bình đẳng giữa bên buộc tội và bên bào chữa vì HĐXX luôn đứng về phía bên buộc tội [12; 24, tr.35 - 36]. Chúng tôi đồng tình với quan điểm thứ hai và cho rằng, đây là một trong những bất cập của BLTTHS cần được sửa đổi. * Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật (Điều 23 BLTTHS năm 2015): Đây là một trong các nguyên tắc hiến định thể hiện sự đặc thù quan trọng nhất của hoạt động xét xử. Nguyên tắc này thể hiện ở các nội dung sau: Thứ nhất, khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập. Nội dung này đòi hỏi Thẩm phán và Hội thẩm phải độc lập, khách quan trong xem xét đánh giá các chứng cứ, tài liệu đã được kiểm tra, làm rõ tại phiên tòa để đưa ra bản án, quyết định về vụ án trên cơ sở các quy định của pháp luật mà không chịu sự tác động của bất kỳ yếu tố khách quan, chủ quan nào. - Độc lập với những yếu tố khách quan (bên ngoài) thể hiện ở chỗ khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập với Tòa án cấp trên, với Lãnh đạo Tòa án cấp mình, với cấp ủy Đảng, độc lập đối với các yêu cầu, sự đánh giá của các chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng về các chứng cứ, tài liệu, các tình 15
  20. tiết của vụ án, với dư luận xã hội, báo chí - Độc lập với những yếu tố chủ quan (bên trong) thể hiện ở chỗ Thẩm phán và Hội thẩm tự do xem xét, đánh giá chứng cứ và đưa ra kết luận theo quan điểm của mình trên cơ sở quy định của pháp luật. Khi nghị án, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán và độc lập đưa ra ý kiến, kết luận của mình về tất cả các vấn đề cần giải quyết trong vụ án. Thẩm phán phải tôn trọng và không được áp đặt quan điểm của mình đối với các Hội thẩm, Thẩm phán biểu quyết sau cùng. Bản án thể hiện quan điểm đa số thành viên trong HĐXX. Thứ hai, Thẩm phán và Hội thẩm chỉ tuân theo pháp luật. Nội dung này đòi hỏi, khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm phải căn cứ vào các quy định pháp luật nội dung (BLHS, BLDS ) để đưa ra các phán quyết của mình về vụ án mà không chịu sự tác động nào khác. Thứ ba, các cơ quan, tổ chức, cá nhân không được can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm dưới bất kỳ hình thức nào. Nội dung này chỉ nhằm nhấn mạnh tầm quan trọng của hai nội dung nêu trên. Độc lập xét xử và chỉ tuân theo pháp luật là hai nội dung quan hệ chặt chẽ với nhau. Chỉ khi Thẩm phán và Hội thẩm độc lập xét xử thì họ mới có thể chỉ tuân theo pháp luật và ngược lại. Và chỉ khi đó, Thẩm phán và Hội thẩm mới đề cao trách nhiệm và chất lượng xét xử mới được nâng cao, công lý mới được thực thi. Thực tiễn ở nước ta cho thấy, nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm độc lập xét xử và chỉ tuân theo pháp luật chưa có cơ chế hữu hiệu để bảo đảm tính khả thi của nó. Sự can thiệp vào hoạt động xét xử vẫn xảy ra phổ biến ở cả ở Trung ương và địa phương dưới nhiều hình thức: “chỉ đạo án”, “duyệt án”, “xin ý kiến Tòa án cấp trên” hoặc bị tác động từ nhiều phía (cấp ủy Đảng, Chính quyền địa phương, các hiện tượng tiêu cực “chạy án”). Mặt khác, Thẩm phán và Hội thẩm chưa “dám” độc lập xét xử một phần do trình độ năng lực hạn chế, nể nang, phụ thuộc vào lãnh đạo hoặc sợ không được tái bổ nhiệm 16