Luận văn Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt Nam

pdf 99 trang vuhoa 25/08/2022 9120
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_hoi_cung_bi_can_trong_luat_to_tung_hinh_su_viet_nam.pdf

Nội dung text: Luận văn Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐINH THỊ HẢI YẾN HỎI CUNG BỊ CAN TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐINH THỊ HẢI YẾN HỎI CUNG BỊ CAN TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật Hình sự - Tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐỖ THỊ PHƯỢNG Hà Nội – 2015
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Đinh Thị Hải Yến
  4. MỤC LỤC Trang phụ bìa Trang Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các biểu đồ MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ HỎI CUNG BỊ CAN 8 1.1. Khái niệm và nhiệm vụ hỏi cung bị can 8 1.1.1 Khái niệm hỏi cung bị can 8 1.1.2. Nhiệm vụ của hỏi cung bị can 10 1.2. Bảo đảm thực hiện các nguyên tắc của Bộ luật tố tụng hình sự trong hỏi cung bị can 14 1.2.1. Bảo đảm thực hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa 15 1.2.2. Bảo đảm thực hiện nguyên tắc xác định sự thật của vụ án và nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng 17 1.2.3. Bảo đảm thực hiện các nguyên tắc khác liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị can 19 1.3. Khái quát các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam về hỏi cung bị can 22 1.3.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 cho đến trước khi có Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 1988. 22 1.3.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 1988 đến năm 2003 24 1.4. Hỏi cung bị can của pháp luật tố tụng hình sự một số nước trên thế giới 26 1.4.1. Hỏi cung bị can trong Bộ luật tố tụng hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa 26 1.4.2. Hỏi cung bị can trong Bộ luật tố tụng hình sự Liên Bang Nga 28
  5. 1.4.3. Hỏi cung bị can trong Bộ luật tố tụng hình sự Cộng hòa Liên Bang Đức 29 Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ HỎI CUNG BỊ CAN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG 33 2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về hỏi cung bị can 33 2.1.1. Đối tượng của hỏi cung bị can 33 2.1.2. Chủ thể của hỏi cung bị can 34 2.1.3. Trình tự, thủ tục tiến hành hỏi cung bị can 36 2.1.4. Hỏi cung bị can là người chưa thành niên 42 2.1.5. Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động hỏi cung bị can 46 2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về hỏi cung bị can 48 2.2.1. Những kết quả đạt được 48 2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế 53 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG HỎI CUNG BỊ CAN 68 3.1. Một số giải pháp hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về hỏi cung bị can 68 3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động hỏi cung bị can . 77 3.2.1. Hoàn thiện tổ chức Cơ quan điều tra và tăng cường số lượng Điều tra viên phục vụ cho công tác điều tra 77 3.2.2. Nâng cao vai trò Người bào chữa trong hoạt động hỏi cung bị can nói riêng và toàn bộ quá trình điều tra vụ án nói chung 82 3.2.3. Tăng cường công tác phối hợp, chế ước chặt chẽ giữa hai cơ quan Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong hỏi cung bị can. 84 3.2.4. Nâng cao chất lượng cơ sở vật chất để phục vụ cho công tác điều tra. 84 KẾT LUẬN 87 TÀI LIỆU THAM KHẢO 89
  6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT XHCN : Xã hội chủ nghĩa BLHS : Bộ luật hình sự TTHS : Tố tụng hình sự CQĐT : Cơ quan điều tra VKS : Viện Kiếm sát TAND : Tòa án nhân dân
  7. DANH MỤC CÁC BIỀU ĐỒ Biểu đồ 1: Số lượng các vụ việc bức cung, dùng nhục hình 57 Biểu đồ 2: Số bị can bị khởi tố điều tra về tội bức cung, dùng nhục hình 58
  8. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, để giải quyết nhanh chóng vụ án hình sự và xử lý công minh, đúng đắn kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, các cơ quan tiến hành tố tụng phải triệt để tuân thủ các quy định của pháp luật Tố tụng hình sự để góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, đồng thời giáo dục mọi người đề cao ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Điều tra trong tố tụng hình sự là giai đoạn đầu tiên có vai trò quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Giai đoạn này cơ quan tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ để chứng minh tội phạm, người thực hiện hành vi phạm tội, xác định tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra. Để thu thập chứng cứ, trong giai đoạn này, Cơ quan điều tra được tiến hành các biện pháp điều tra theo quy định của Bộ luật TTHS. Hoạt động điều tra là cần thiết đối với tất cả các vụ án hình sự, thiếu hoạt động điều tra, Viện kiểm sát không có cơ sở để truy tố, Tòa án không có cơ sở để xét xử vụ án. Chính vì vậy mà pháp luật tố tụng hình sự quy định rất chặt chẽ về các biện pháp điều tra. Điều này được thể hiện trong Bộ luật TTHS 2003, Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự 2004 và các văn bản chuyên ngành khác. Trong những biện pháp điều tra theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, hỏi cung bị can là biện pháp có vai trò, vị trí hết sức quan trọng. Qua hỏi cung bị can giúp cơ quan điều tra làm rõ sự thật khách quan của vụ án, làm rõ được âm mưu, ý đồ, động cơ, hành vi phạm tội của bị can và đồng bọn. Đồng thời hỏi cung còn tạo điều kiện mở rộng công tác điều tra, giúp phòng ngừa và ngăn chặn tội phạm có hiệu quả. Với ý nghĩa ấy hỏi cung bị can đựơc xem là hoạt động trọng yếu của quá trình điều tra vụ án. 1
  9. Trong thời gian qua, những vấn đề lý luận cơ bản về hỏi cung bị can đã được quan tâm đáng kể song không có nhiều công trình nghiên cứu độc lập về vấn đề này. Vì vậy, việc đi sâu nghiên cứu về hỏi cung bị can trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam có ý nghĩa to lớn cả về mặt lý luận và thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm, là nhiệm vụ cấp bách đặt ra không chỉ với khoa học điều tra hình sự mà còn là yêu cầu cấp thiết đối với thực tiễn điều tra tội phạm trong giai đoạn hiện nay. Chính vì vậy, tác giả quyết định chọn đề tài “Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ luật học cho mình. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Ở Việt Nam, cho đến nay đã có một số công trình nghiên cứu về biện pháp hỏi cung bị can ở những mức độ và phạm vi nghiên cứu khác nhau như: “Hỏi cung bị can phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia trong tình hình hiện nay”, đề tài cấp Bộ của Phó giáo sư, tiến sỹ Lê Minh Hùng năm 2001 – Học viện An Ninh Nhân dân; “Hỏi cung bị can phạm tội gián điệp trong tình hình hiện nay”, luận án tiến sỹ của Nguyễn Quý Khoát năm 2003 – Học viện An Ninh Nhân dân; “Các biện pháp điều tra trong tố tụng hình sự”, luận văn thạc sỹ của Nguyễn Thị Minh năm 2008 – Khoa Luật Đại học Quốc Gia Hà Nội; “Một số vấn đề lý luận cơ bản về chuẩn bị hỏi cung bị can”, Khóa luận tốt nghiệp của Nguyễn Thị Hoa năm 2010 – Đại học Luật Hà Nội; Ngoài ra, các công trình nghiên cứu khác cũng đề cập đến vấn đề này nhưng chỉ ở mức độ đại cương, chưa sâu sắc như: “Giáo trình Luật tố tụng hình sự” của Trường Đại học Luật Hà Nội (Nhà xuất bản Công an nhân dân, 2013); “Bình luận khoa học Bộ luật TTHS” của GS.TS Nguyễn Ngọc Anh (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2013); "Sổ tay điều tra hình sự" (Nhà xuất bản Công an nhân dân, 2010); "Khoa học Điều tra hình sự" của Trường Đại học Luật Hà Nội (Nhà xuất bản Công an nhân dân, 2012); “Chiến thuật điều 2
  10. tra hình sự” (sách chuyên khảo) của Phó giáo sư, tiến sỹ Nguyễn Huy Thuật (Nhà xuất bản Công an nhân dân, 2010) và một số bài báo được công bố trong một số tạp chí Đây là những công trình nghiên cứu cơ bản các vấn đề thuộc lĩnh vực điều tra hình sự, đã đề cập đến các biện pháp điều tra hình sự trong đó có hỏi cung bị can. Tuy nhiên các công trình này ở những mức độ khác nhau mới chỉ đề cập tới vấn đề mang tính bình luận các quy định của pháp luật về hỏi cung bị can mà chưa đi sâu phân tích biện pháp này theo quy định của Bộ luật TTHS như chủ thể có thẩm quyền hỏi cung, trình tự và thủ tục hỏi cung, cũng như chưa phân tích các bất cập, hạn chế, từ đó đưa ra đề xuất về giải pháp hoàn thiện, cũng như những kiến nghị trong việc hoàn thiện pháp luật về biện pháp hỏi cung bị can trong pháp TTHS. Như vậy, có thể nói rằng chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc về biện pháp hỏi cung bị can với quy mô là một đề tài độc lập, chuyên biệt. Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu về hỏi cung bị can với những vấn đề lí luận cơ bản và thực tiễn áp dụng là cần thiết. 3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý luận cơ bản, luận văn đánh giá một cách có hệ thống về thực tiễn áp dụng biện pháp hỏi cung bị can trong các vụ án hình sự và từ đó đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả biện pháp điều tra này trong thời gian tới, góp phần bổ sung, hoàn thiện lý luận trong pháp luật tố tụng hình sự. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ đặt ra đối với luận văn là: - Nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung về hỏi cung bị can; - Phân tích các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về hỏi cung bị can và thực tiễn áp dụng ; 3
  11. - Đưa ra một số giải pháp kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp hỏi cung bị can trong thực tiễn. 3.3 Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là khái niệm, nhiệm vụ, Bảo đảm thực hiện các nguyên tắc của Bộ luật TTHS trong hỏi cung bị can; khái quát những quy định của pháp luật TTHS Việt Nam từ sau 1945 đến nay; Hỏi cung bị can theo quy định Bộ luận TTHS của một số nước trên thế giới; những quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn hỏi cung bị can trong tình hình hiện nay. 3.4. Phạm vi nghiên cứu Hỏi cung bị can là một biện pháp điều tra đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án. Tuy nhiên, đây là một biện pháp khá phức tạp và nhạy cảm. Bởi để hỏi cung mang lại hiệu quả, thu được chứng cứ có giá trị chứng minh cao thì ngoài việc biện pháp này phải được tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật TTHS quy định, còn cần phải có sự kết hợp với các biện pháp nghiệp vụ, tác động trực tiếp đến tâm lý bị can trong quá trình hỏi cung. Việc tác động tâm lý bị can, nắm bắt được tâm lý bị can giúp cho quá trình hỏi cung đạt được hiệu quả cao, nhằm thu được lời khai đúng và đầy đủ. Do vậy, trong phạm vi đề tài, luận văn không đi sâu vào nghiên cứu các phương pháp, chiến thuật hỏi cung bị can mà tập trung làm rõ những quy định của Bộ luật TTHS hiện hành và một số văn bản có liên quan đến biện pháp điều tra này và thực tiễn áp dụng hiện nay. Theo quy định của pháp luật, ngoài Điều tra viên – chủ thể chính tiến hành hỏi cung bị can thì Kiểm sát viên, những người khác thuộc Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng cảnh sát biển cũng tiến hành hỏi cung bị can trong những trường hợp cần thiết. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, luận văn chủ yếu đề cập tới chủ thể chính tiến hành hoạt động hỏi cung là Điều tra viên. 4
  12. 4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn - Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và về giải quyết vụ án hình sự nói riêng, những thành tựu của các khoa học: triết học, luật hình sự, luật TTHS, lôgic học, tội phạm học, điều tra hình sự và các học thuyết chính trị pháp lý. - Cơ sở thực tiễn của luận văn dựa trên cơ sở nghiên cứu luật TTHS thực định và các văn bản khác có liện quan về hoạt động hỏi cung bị can, quá trình giải quyết vụ án hình sự các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như các văn bản của 3 ngành Công an, Kiểm sát, Toà án hướng dẫn về hoạt động, điều tra, xử lý vụ án hình sự. - Phương pháp nghiên cứu: Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Kết hợp với một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương pháp: hệ thống, lôgic, phân tích, tổng hợp, so sánh, khảo sát thực tế để chọn lọc tri thức khoa học, kinh nghiệm thực tiễn liên quan đến những vấn đề phải chứng minh trong các vụ án người chưa thành niên phạm tội, từ đó làm sáng tỏ nội dung của luận văn. 5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn Đây là một trong những công trình chuyên khảo trong khoa học luật hình sự, tố tụng hình sự Việt nam nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản và thực tiễn áp dụng biện pháp hỏi cung bị can với cấp độ là một luận văn thạc sỹ. Luận văn đã giải quyết về mặt lý luận những vấn đề sau: Một là, xây dựng khái niệm hỏi cung bị can một cách khoa học và hợp lí Hai là, tìm hiểu quy định pháp luật của Liên bang Nga, Liên bang Đức và cộng hòa nhân dân Trung Hoa về hỏi cung bị can đồng thời rút ra một số nhận xét. Ba là, phân tích đối tượng và chủ thể của hỏi cung bị can, trình tự, thủ tục hỏi cung bị can. 5
  13. Bốn là, tìm hiểu những quy định của Bộ luật TTHS hiện hành về hỏi cung bị can người chưa thành niên; Năm là, đánh giá và làm sáng tỏ các quy định của pháp luật nước ta về hoạt động hỏi cung bị can trong giai đoạn hiện nay, qua đó rút ra những nhận xét Sáu là, chỉ ra những hạn chế, thiếu xót và từ đó đề xuất những giải pháp có tính khoa học, tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp hỏi cung bị can trong thời gian tới. Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích dành cho không chỉ các nhà lập pháp, mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác của các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự được khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn. Luận văn là công trình nghiên cứu một cách toàn diện cơ sở lý luận và thực tiễn về hỏi cung bị can. Trên cơ sở nghiên cứu này, luận văn góp phần cho việc nâng cao hiệu quả của hoạt động này trong thực tiễn điều tra vụ án hình sự. Thông qua việc đưa ra những khái niệm cũng như việc phân tích sâu sắc những vấn đề liện quan đến hỏi cung bị can nhằm tác động đến nhận thức của Điều tra viên về việc tuân thủ các trình tự, yêu cầu của pháp luật tố tụng hình sự trong hỏi cung bị can. Qua đó đảm bảo cho quá trình điều tra, giải quyết vụ án hình sự chính xác, khách quan, đúng người, đúng tội nhằm nâng cao hiệu quả của việc vận dụng các quy định của pháp luật về hỏi cung bị can trong thực tiễn. Ngoài ra, luận văn còn tìm hiểu, nghiên cứu thực tiễn hỏi cung bị can để thấy được những điểm hạn chế, tồn tại của việc sử dụng biện pháp này, từ đó 6
  14. đề xuất những kiến nghị sát thực nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của hoạt động hỏi cung bị can nói riêng và hoạt động điều tra, giải quyết vụ án hình sự nói cung. 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lí luận về hỏi cung bị can. Chương 2: Quy định của Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về hỏi cung bị can và thực tiễn áp dụng Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện các quy định của Pháp luật tố tụng hình sự và nâng cao hiệu quả của hoạt động hỏi cung bị can. 7
  15. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ HỎI CUNG BỊ CAN 1.1.Khái niệm và nhiệm vụ hỏi cung bị can 1.1.1 Khái niệm hỏi cung bị can Quá trình giải quyết vụ án hình sự là một quá trình liên tục gồm nhiều hoạt động có quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong đó, giai đoạn điều tra đóng vai trò quan trọng nhằm tìm kiếm chứng cứ, chứng minh tội phạm, người phạm tội, xác định thiệt hại do tội phạm gây ra mà trong đó hoạt động hỏi cung bị can là một biện pháp thu thập chứng cứ quan trọng. Điều 131 Bộ luật TTHS năm 2003 quy định về việc hỏi cung:“Việc hỏi cung bị can phải do Điều tra viên tiến hành ngay sau khi có quyết định khởi tố bị can. Có thể hỏi cung bị can tại nơi tiến hành điều tra hoặc tại nơi ở của người đó” [30]. Như vậy, có thể thấy rằng Bộ luật TTHS đã không có điều luật cụ thể khái niệm về hỏi cung bị can. Theo từ điển Luật học đưa ra định nghĩa: “Hỏi cung bị can là hoạt động tố tụng hình sự do Điều tra viên tiến hành khi có quyết định khởi tố bị can để lấy lời khai về các tình tiết của vụ án hình sự”. Hay trong cuốn sách chuyên khảo chiến thuật điều tra hình sự của Phó giáo sư, tiến sỹ Nguyễn Huy Thuật đã đưa ra định nghĩa: hỏi cung bị can là một biện pháp điều tra hình sự do những người theo luật định tiến hành nhằm mục đích thu thập theo trình tự TTHS lời khai của bị can về vụ án, hành vi và mức độ phạm tội của bị can và đồng phạm và những tin tức, tài liệu khác mà bị can biết có ý nghĩa đối với hoạt động điều tra và phòng ngừa tội phạm [22, tr.173]. Trong giáo trình tâm lí học tư pháp do tác giả Đặng Thanh Nga chủ biên có viết: Hoạt động hỏi cung bị can là một dạng hoạt động điều tra sử dụng các phương pháp tác động tâm lí đến tư duy, tình cảm, ý chí của bị can trong khuôn khổ pháp luật thông qua giao tiếp bằng ngôn ngữ và các phương 8
  16. pháp biểu cảm khác như ánh mắt, cử chỉ, nét mặt giữa Điều tra viên với bị can nhằm thu thập chứng cứ do họ đưa ra góp phần giải quyết vụ án hình sự [13, tr. 275]. Theo đó, có thể thấy, hỏi cung bị can là cuộc đấu tranh quyết liệt giữa bị can và ĐTV trong khuôn khổ pháp luật. Dưới góc độ tâm lí học, hỏi cung bị can là được hiểu là quá trinh nhận thức gián tiếp của CQĐT, Điều tra viên về vụ án thông qua tài liệu, thông tin mà bị can cung cấp. Nói cách khác, hoạt động hỏi cung là một dạng hoạt động phức tạp gồm hai quá trình độc lập tương đối: Quá trình khai thác thông tin và quá trình nhận thức đánh giá thông tin của Điều tra viên. Như vậy, hỏi cung bị can được xem xét, nghiên cứu ở nhiều khí cạnh khác nhau, mặc dù đưa ra những nhận định khác nhau về hỏi cung bị can nhưng trong các quan điểm đó cho thấy vị trí của hỏi cung bị can là một trong những biện pháp điều tra cơ bản của giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Mục đích của hỏi cung bị can là thu thập và mô tả theo trình tự TTHS thật đầy đủ, chính xác, khách quan lời khai của bị can về vụ án hình sự, hành vi phạm tội của bị can cùng đồng bọn và những tin tức, tài liệu khác mà bị can biết có ý nghĩa đối với hoạt động điều tra và phòng ngừa tội phạm. Đặc biệt chú ý, trong quá trình hỏi cung cần kiểm tra những tài liệu là cơ sở để khởi tố bị can, làm rõ động cơ và mục đích phạm tội, những nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh tội phạm. Thực tiễn điều tra cho thấy, hỏi cung bị can là một biện pháp khá phức tạp và nhạy cảm. Bởi để hỏi cung mang lại hiệu quả, thu được chứng cứ có giá trị chứng minh cao thì ngoài việc hoạt động này phải được tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật TTHS quy định, còn cần phải có sự kết hợp với các biện pháp nghiệp vụ, tác động trực tiếp đến tâm lý bị can trong quá trình hỏi cung. Việc tác động tâm lý bị can, nắm bắt được tâm lý bị can giúp cho quá trình hỏi cung đạt được hiệu quả cao, nhằm thu được lời khai đúng và đầy đủ. 9
  17. Vì vậy, từ việc nghiên cứu những quy định của Bộ luật TTHS, tác giả đưa ra khái niệm về hỏi cung bị can như sau: “Hỏi cung bị can là một biện pháp điều tra trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự do Điều tra viên và những người có thẩm quyền khác tiến hành sau khi có quyết định khởi tố bị can nhằm mục đích thu thập các tình tiết về nội dung vụ án, hành vi phạm tội của bị can và các tình tiết khác có ý nghĩa cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự”. 1.1.2. Nhiệm vụ của hỏi cung bị can Thứ nhất, thu thập chứng cứ, chứng minh tội phạm, người thực hiện hành vi phạm tội và các tình tiết khác có ý nghĩa cho việc giải quyết đúng đắng vụ án hình sự. Quá trình chứng minh trong TTHS là quá trình thu thập, kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ. Trong đó thu thập chứng cứ là giai đoạn đầu tiên có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và không thể thiếu của quá trình chứng minh. Nếu không có thu thập chứng cứ, thì cũng không có kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ. Điều đó lý giải tại sao vấn đề chứng cứ nói chung và vấn đề thu thập chứng cứ nói riêng luôn là một trong những mối quan tâm hàng đầu của các nhà lập pháp mỗi nước khi xây dựng Bộ luật TTHS. Thu thập chứng cứ là hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng nhằm tìm ra và thu giữ những sự kiện chứng minh hoặc những nguồn chứng cứ theo đúng trình tự, thủ tục luật định, để từ đó khai thác những sự kiện chứng minh. Xét trên góc độ thông tin, thì phát hiện, thu thập chứng cứ là quá trình thu thập thông tin để làm căn cứ xác định sự thật của vụ án. Phát hiện, thu thập chứng cứ vừa là hoạt động mang tính khoa học, vừa mang tính pháp lý nên quá trình phát hiện, thu thập chứng cứ vừa phải quán triệt những nguyên tắc, quy luật của nhận thức, vừa phải bảo đảm tính pháp lý, hay nói cách khác là phải khách quan và phải tuân thủ đúng quy định về trình tự, thủ tục của Bộ luật TTHS. 10
  18. Để thu thập chứng cứ trong giai đoạn, cơ quan có thẩm quyền được phép tiến hành nhiều biện pháp điều tra khác nhau, trong đó có biện pháp hỏi cung bị can. Pháp luật tố tụng hình sự quy định chủ thể, trình tự, thủ tục hỏi cung nhằm đạt được mục đích là thu thập chứng cứ, chứng minh tội phạm, người thực hiện hành vi phạm tội và các tình tiết khác có ý nghĩa cho việc giải quyết đúng đắng vụ án hình sự. Là chủ thể của tội phạm, bị can là chủ sở hữu một lượng thông tin tương đối lớn về vụ án. Hơn ai hết bị can là người biết rõ về toàn bộ quá trình chuẩn bị, thực hiện và che giấu hành vi phạm tội, những mục đích, động cơ đã thúc đẩy bị can phạm tội; những công cụ, phương tiện, thủ đoạn phạm tội, phương pháp đã được bị can sử dụng khi thực hiện hành vi phạm tội, những tài sản đã chiếm đoat được Vì vậy, khi hỏi cung bị can, Điều tra viên cần áp dụng mọi biện pháp mà pháp luật cho phép để có thể thu thập được tất cả những thông tin mà bị can biết, có liên quan đến vụ án nhằm làm rõ nội dung vụ án, hành vi phạm tội của bị can, lập hồ sơ đề nghị xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Thứ hai, tôn trọng và bảo đảm quyền con người. Hiến pháp năm 2013 – văn bản có giá trị pháp lý cao nhất, lần đầu tiên đã quy định nguyên tắc về giới hạn quyền tại khoản 2, Điều 14: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng” [29]. Ở nước ta, quyền con người luôn được tôn trọng và đảm bảo thực hiện. Tiếp tục đảm bảo quyền con người đã được ghi nhận tại các bản Hiến pháp trước đây và Hiến pháp hiện hành, Điều 4 Bộ luật TTHS năm 2003 quy định: “Khi tiến hành tố tụng, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm trong phạm vi trách nhiệm của mình phải tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, thường xuyên kiểm tra 11
  19. tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó, nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết nữa” [30]. Đồng thời, Hiến pháp năm 2013 khẳng định tại khoản 2 Điều 72 khẳng định:“Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” [29], do vậy bị can vẫn có đầy đủ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân mà các quyền này phải được tôn trọng và đảm bảo thực hiện đầy đủ. Do chưa được coi là có tội nên các cơ quan tiến hành tố tụng không được đối xử với bị can, bị cáo như người có tội, kể cả trường hợp họ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất như tạm giam chẳng hạn .Để quyền con người được tôn trọng và đảm bảo thực sự, pháp luật TTHS đòi hỏi những chủ thể có thẩm quyền hỏi cung phải thực hiện trách nhiệm của mình trong phạm vi pháp luật quy định, không được làm tùy tiện, vượt khỏi phạm vi giới hạn của luật dẫn đến việc xâm phạm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Thực hiện tốt nhiệm vụ này, hoạt động hỏi cung cần phải đảm bảo yêu cầu: Bảo đảm khi tiến hành hỏi cung, thu thập chứng cứ phải tuân theo đúng trình tự, thủ tục luật định, không được áp dụng các biện pháp xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân như bức cung, nhục hình Khoản 2 Điều 49 Bộ luật TTHS quy định: “Bị can có quyền trình bày lời khai của mình” [30]. Chính vì vậy, trong bất kỳ trường hợp nào thì CQĐT cũng cần phải tôn trọng quyền được trình bày lời khai của bị can. Bởi vì qua lời khai của chính bị can - người bị cho là đã thực hiện hành vi trái pháp luật ta có thể xác định sự thật một cách khách quan, không phiến diện. Đặc biệt CQĐT không được phép dùng các biện pháp trái pháp luật để buộc bị can phải khai báo. Điều đó sẽ dẫn đến sai lầm trong kết quả điều tra vụ án. Và nghiêm trọng hơn là việc làm đó của CQĐT đã vi phạm pháp luật, xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị can 12
  20. Thứ ba, những nhiệm vụ mang tính đặc trưng riêng của biện pháp hỏi cung bị can. Căn cứ vào yêu cầu của pháp luật và thực tiễn hoạt động điều tra, để thu thập các tình tiết về nội dung vụ án, hành vi phạm tội của bị can và các tình tiết khác có ý nghĩa cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự, khi tiến hành hỏi cung, một mặt chủ thể hỏi cung cần phải triệt để giải quyết những nhiệm vụ chung mà Bộ luật TTHS đã đặt ra, mặt khác cần phải giải quyết tốt những nhiệm vụ cụ thể mang tính đặc trưng riêng đó là: Phát hiện đồng bọn để kịp thời truy bắt, phát hiện những vật chứng còn cất giấu để kịp thời thu giữ, phát hiện những âm mưu và hành động chuẩn bị gây án hay đang gây án để kịp thời ngăn chặn; Làm rõ nội dung vụ án, vai trò, vị trí và mức độ phạm tội của từng bị can, thủ đoạn gây án và che giấu tội phạm, động cơ và mục đích phạm tội để lập hồ sơ đề nghị truy tố; Làm rõ những nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm và những sơ hở thiếu sót trong hoạt động điều tra để có biện pháp khắc phục, ngăn chặn [22, tr.176]. Như vậy, để thực hiện nhiệm vụ trên, pháp luật TTHS quy định cụ thể, rõ ràng tạo căn cứ pháp lí vững chắc, có hiệu quả cho hoạt động của chủ thể hỏi cung và đối tượng hỏi cung. Các quy định của pháp luật về biện pháp này là căn cứ để CQĐT, Viện kiểm sát ý thức rõ phạm vi, mức độ quyền hạn của mình; giúp cho bị can nhận thức rõ quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình để họ có thể bảo vệ quyền và thực hiện nghĩa vụ. Bộ luật TTHS quy định về chủ thể và đối tượng, trình tự, thủ tục hỏi cung Quy định này xác định trình tự tố tụng thống nhất đối với mọi vụ án và là căn cứ pháp lí để CQĐT, Viện kiểm sát tiến hành hỏi cung một cách thống nhất và đúng pháp luật. Để đạt được mục đích là nhằm thu thập chứng cứ, làm rõ sự thật khách quan của vụ án, xuất phát từ thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự đòi hỏi phải có sự thống nhất về trình tự hỏi cung, cho nên Bộ luật TTHS quy định trình tự (trật tự trước sau), thủ tục (yêu cầu phải đạt được về 13
  21. hình thức pháp lý, các biên bản hỏi cung phải lập như thế nào, việc lập biên bản phải có mặt ai ), thời gian tiến hành hỏi cung Đồng thời Bộ luật TTHS đòi hỏi Điều tra viên, Kiểm sát viên phải chấp hành nghiêm chỉnh những quy định đó thì mới thừa nhận tính hợp pháp, đúng đắn trong việc giải quyết vụ án hình sự. Để tiến hành hỏi cung bị can, Nhà nước quy định Điều tra viên, Kiểm sát viên và những người khác có thẩm quyền hỏi cung. Vì vậy, để có thể phát huy sức mạnh của những chủ thể này, đảm bảo sự phối hợp đồng bộ, có hiệu quả, tránh chồng chéo, mâu thuẫn lẫn nhau, Bộ luật TTHS không những có quy định chung về nhiệm vụ, quyền hạn của những chủ thể này mà còn quy định cụ thể về nhiệm vụ của các chủ thể này trong hoạt động hỏi cung. Để đảm bảo hiệu quả tính khách quan, toàn diện của hỏi cung, trong quá trình hỏi cung, chủ thể hỏi cung cần triệt để thực hiện và giải quyết tốt những nhiệm vụ này. Việc thực hiện tốt những nhiệm vụ cụ thể này, trong quá trình hỏi cung không những đảm bảo tính nhanh chóng, khách quan, toàn diện và đầy đủ của hoạt động điều tra mà còn thể hiện tính phòng ngừa tích cực của biện pháp này nói riêng và hoạt động điều tra nói chung. 1.2. Bảo đảm thực hiện các nguyên tắc của Bộ luật tố tụng hình sự trong hỏi cung bị can Các hoạt động TTHS đều phải tuân thủ triệt để những nguyên tắc luật định được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013, Bộ luật TTHS năm 2003 và các văn bản pháp luật có liên quan. Do đó, giai đoạn điều tra vụ án hình sự – một trong những giai đoạn của quá trình TTHS cũng không nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của các nguyên tắc này. Tuy nhiên, xuất phát từ vai trò và vị trí quan trọng của hoạt động điều tra trong đó có hoạt động hỏi cung bị can trong việc giải quyết vụ án hình sự; Hoạt động điều tra là cần thiết đối với tất cả các vụ án hình sự. Thiếu hoạt động điều tra, Viện kiểm sát không có cơ sở để truy tố, tòa án không có cơ sở để xét xử vụ án trong đó biện pháp điều tra hỏi cung 14
  22. bị can “là công tác chính yếu trong giai đoạn điều tra tội phạm, là một khâu rất quan trọng có liên quan trực tiếp đến quyền tự do thân thể, danh dự và nhân phẩm của công dân [33, tr. 57] nên các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền khi tiến hành hoạt động hỏi cung bị can phải triệt để tuân thủ và đảm bảo thực hiện những nguyên tắc của Bộ luật TTHS. 1.2.1. Bảo đảm thực hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa Nguyên tắc pháp chế XHCN là một nguyên tắc hiến định đã được quán triệt trong mọi hoạt động điều tra nói chung và hoạt động TTHS nói riêng của các cơ quan Nhà nước, các cá nhân có thẩm quyền. Do vậy, hỏi cung bị can - một biện pháp trong giai đoạn điều tra, giải quyết vụ án hình sự cũng không nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của nguyên tắc này: “Mọi hoạt động tố tụng hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng phải được tiến hành theo quy định của luật này” [30]. Tuy nhiên, bên cạnh đó, do những đặc thù cơ bản của biện pháp điều tra này nên việc vận dụng nguyên tắc pháp chế XHCN có những biểu hiện đặc thù riêng biệt. Theo đó, nguyên tắc trên chỉ được đánh giá là đã thực sự được tôn trọng và bảo đảm thực hiện trong quá trình hỏi cung bị can khi Điều tra viên quán triệt một số vấn đề cơ bản sau: Thứ nhất, trong mọi trường hợp hỏi cung bị can, Điều tra viên phải tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục về việc triệu tập bị can, trình tự tiến hành hỏi cung bị can và về việc lập biên bản hỏi cung đã được quy định trong các Điều 129, 130, 131, 132 Bộ luật TTHS hiện hành. Nội dung của nguyên tắc này thể hiện ở chỗ, trong mọi trường hợp hỏi cung bị can phải được tiến hành theo đúng trình tự và thủ tục được quy định trong Bộ luật TTHS. Cụ thể hỏi cung do Điều tra viên tiến hành ngay sau khi có quyết định khởi tố bị can. Có thể tiến hành hỏi cung bị can tại nơi tiến hành điều tra hoặc nơi ở của người đó, vào thời gian ban ngày, trừ trường hợp không thể trì hoãn nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản. Bị can khai báo trước Điều tra viên, trừ trường hợp theo 15