Luận văn Hoạt động hòa giải ở cơ sở từ thực tiễn tỉnh Bình Định

pdf 91 trang vuhoa 24/08/2022 12880
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Hoạt động hòa giải ở cơ sở từ thực tiễn tỉnh Bình Định", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_hoat_dong_hoa_giai_o_co_so_tu_thuc_tien_tinh_binh_d.pdf

Nội dung text: Luận văn Hoạt động hòa giải ở cơ sở từ thực tiễn tỉnh Bình Định

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN NGỌC HIỀN HOẠT ĐỘNG HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH ĐỊNH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2020
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN NGỌC HIỀN HOẠT ĐỘNG HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH ĐỊNH Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số : 8 38 01 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN VĂN QUÂN HÀ NỘI, năm 2020
  3. LỜI CAM ĐOAN Trước tiên, tôi xin trân trọng cảm ơn TS. Nguyễn Văn Quân đã hướng dẫn và giúp đỡ tôi về mọi mặt để hoàn thành bản luận văn này. Xin trân trọng cảm ơn Ban Giám đốc Học viện Khoa học xã hội, các thầy giáo, cô giáo và đội ngũ cán bộ, viên chức đã tận tình giảng dạy, giúp đỡ tôi thời gian tham gia học tập tại Học viện. Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu trích dẫn trong luận văn dựa trên nguồn tư liệu, số liệu bảo đảm độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Vậy tôi viết cam đoan kính đề nghị Học viện Khoa học xã hội xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Xin trân trọng cảm ơn! Bình Định, ngày tháng năm 2020 Tác giả Nguyễn Ngọc Hiền
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ 9 1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của hòa giải ở cơ sở 9 1.2. Nội dung, trình tự, thủ tục hòa giải ở cơ sở 29 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác hòa giải ở cơ sở 36 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH ĐỊNH 42 2.1. Các đặc điểm tự nhiên và tình hình phát triển kinh tế - xã hội tác động tới hoà giải cơ sở trên địa bàn tỉnh Bình Định 42 2.2. Thực tiễn công tác hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Bình Định 44 2.3. Nhận xét về thực trạng thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Bình Định 52 CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH ĐỊNH 63 3.1. Quan điểm nâng cao hiệu quả công tác hòa giải cơ sở trên địa bàn tỉnh Bình Định 63 3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Bình Định hiện nay 68 KẾT LUẬN 78 TÀI LIỆU THAM KHẢO
  5. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT STT Từ viết tắt Nghĩa đầy đủ 1 HĐND Hội đồng nhân dân 2 HGOCS Hòa giải ở cơ sở 3 NXB. Nhà Xuất bản 4 PBGDPL Phổ biến, giáo dục pháp luật 5 UBND Ủy ban nhân dân 6 XHCN Xã hội chủ nghĩa DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng 2.1 Kết quả hòa giải trên địa bàn tỉnh từ năm 2014-2019 50
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hòa giải ở cơ sở trước hết xuất phát từ đặc điểm lịch sử, truyền thống, đạo lý tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, mang đậm tính nhân văn, hoạt động vì mọi người trên cơ sở đạo đức xã hội, tình cảm con người và nền tảng quy định của pháp luật. Với sự phát triển mạnh mẽ của đời sống kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế trên mọi lĩnh vực, đất nước đã có những chuyển biến mạnh mẽ, sâu sắc, nền kinh tế phát triển vượt bậc nhưng HGOCS vẫn là một nét văn hóa, một lựa chọn tối ưu trong giải quyết những mâu thuẫn, tranh chấp trong cộng đồng. Bên cạnh việc góp phần hạn chế các tranh chấp, mâu thuẫn trong nội bộ Nhân dân; phòng ngừa tội phạm, vận động Nhân dân sống, chấp hành và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, củng cố tình nghĩa xóm làng, tăng cường đoàn kết trong cộng đồng dân cư, HGOCS còn góp phần quan trọng trong việc đảm bảo an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Hoạt động hòa giải đã được phát triển một bước, từ là một hoạt động mang tính chất tự phát trong nội bộ Nhân dân đã trở thành hoạt động của một tổ chức quần chúng được Nhà nước thừa nhận và điều chỉnh bằng pháp luật. Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, ngày 25/12/1998, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh số 09/1998/PL-UBTVQH10 về tổ chức và hoạt động HGOCS. Ngày 18/10/1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 160/1999/NĐ-CP quy định chi tiết một số Điều của Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động HGOCS. Đây là lần đầu tiên, Nhà nước ta ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về HGOCS nhằm tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội 1
  7. và cá nhân thực hiện quản lý và tham gia công tác HGOCS. Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng đã đề ra nhiệm vụ: “Khuyến khích việc giải quyết một số tranh chấp thông qua thương lượng, hoà giải, trọng tài; tòa án hỗ trợ bằng quyết định công nhận việc giải quyết đó.” [24]. Theo báo cáo tổng kết 13 năm thực hiện Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động HGOCS của các địa phương, cả nước có 121.251 Tổ hòa giải với 628.530 Hoà giải viên. Tính từ năm 1999 đến tháng 03/2012, tổng số vụ, việc do hòa giải viên của 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tiếp nhận là 4.358.662 vụ, việc với 3.488.144 vụ, việc hoà giải thành, đạt tỷ lệ 80%. Một số tỉnh, thành phố có tỷ lệ hòa giải thành cao như: Thái Bình (92,7%); Hà Nội (90,6%); Thừa Thiên Huế (90%); Lào Cai (89,7%); Đà Nẵng (88,57%) Hoạt động phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức trong công tác hòa giải được tăng cường, nhất là ở địa phương sự phối hợp giữa Sở Tư pháp và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp và một số tổ chức chính trị - xã hội như: Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh đã được thực hiện tích cực thông qua các chương trình phối hợp, kế hoạch liên ngành [8,tr.4]. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực thì tổ chức và hoạt động HGOCS vẫn còn nhiều hạn chế, vướng mắc. Tổ chức và đội ngũ cán bộ thực hiện nhiệm vụ theo dõi, hướng dẫn, quản lý công tác hòa giải chưa được thường xuyên củng cố, kiện toàn ngang tầm với nhiệm vụ; sự phối hợp giữa ngành tư pháp với các cơ quan, ban, ngành liên quan nhất là với Mặt trận Tổ quốc các cấp chưa đồng đều, chất lượng chưa cao. Mạng lưới hòa giải chưa đều khắp, trình độ pháp lý của hòa giải viên nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác này. Tổ hòa giải ở một số nơi hoạt động còn mang tính 2
  8. hình thức. Hoạt động hòa giải ở một số địa phương chưa thật hiệu quả, số vụ việc hòa giải không thành vẫn còn nhiều Với mục đích làm chuyển biến và nâng cao nhận thức trách nhiệm của các cấp, các ngành và toàn xã hội đối với công tác HGOCS; tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, toàn diện và thống nhất điều chỉnh về tổ chức và hoạt động của Tổ hòa giải và các tổ chức hòa giải thích hợp khác trong cộng đồng dân cư; tăng tỷ lệ hòa giải thành thông qua việc phát hiện và giải quyết kịp thời, có hiệu quả những vi phạm pháp luật, tranh chấp nhỏ thuộc phạm vi hòa giải; tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ thực hiện nhiệm vụ theo quản lý nhà nước về công tác HGOCS; nâng cao hiểu biết pháp luật, kỹ năng cho hòa giải viên, ngày 20/6/2013, tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XIII đã thông qua Luật Hòa giải ở cơ sở và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2014. Công tác HGOCS trên địa bàn tỉnh Bình Định trong những năm qua đạt được nhiều kết quả và có những chuyển biến mang chiều hướng tích cực. Đội ngũ hòa giải viên không ngừng được củng cố, kiện toàn và tăng cường; huy động được nhiều thành phần với những người có uy tín, năng lực, am hiểu pháp luật tham gia; chất lượng công tác hòa giải ngày càng được nâng cao. Công tác hòa giải đã hóa giải được nhiều vụ việc mâu thuẫn, hạn chế phát sinh tranh chấp phải giải quyết tại tòa án, góp phần tăng cường đoàn kết trong cộng đồng dân cư, ổn định tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, phục vụ tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Hệ thống các tổ HGOCS trên địa bàn tỉnh được thành lập và củng cố theo quy định của pháp luật. Hòa giải viên là những người được bầu, công nhận theo đúng quy định của pháp luật về HGOCS. Qua 06 năm, kể từ khi Luật Hòa giải ở cơ sở có hiệu lực thi hành, bên 3
  9. cạnh những kết quả đã đạt được, công tác HGOCS trên địa bàn tỉnh vẫn còn những hạn chế, vướng mắc nhất định. Cụ thể như: Việc huy động nguồn lực cho công tác HGOCS chưa được tiến hành một cách đồng bộ và thống nhất; Tổ hòa giải ở một số nơi hoạt động còn mang tính hình thức, chiếu lệ dẫn đến hiệu quả hoạt động thấp; đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về hòa giải phải kiêm nhiệm nhiều việc; việc tập huấn, bồi dưỡng, nâng cao kiến thức pháp luật và nghiệp vụ về HGOCS mặc dù đã được tỉnh quan tâm tổ chức thực hiện nhưng kinh phí có phần còn hạn chế nên chưa được tổ chức thường xuyên, rộng khắp; nhất là ở cấp xã; một bộ phận hòa giải viên còn hạn chế về kiến thức pháp luật và kỹ năng hòa giải dẫn đến hiệu quả chưa đạt được như yêu cầu, nhiều hòa giải viên không tự nguyện, nhiệt tình tham gia các hoạt động HGOCS đã ảnh hưởng không nhỏ đến vị trí, vai trò của công tác HGOCS trên địa bàn tỉnh Bình Định. Việc nghiên cứu sự hình thành, phát triển và thực tiễn công tác HGOCS trên địa bàn tỉnh Bình Định nhằm đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả, chất lượng công tác HGOCS là yêu cầu cấp thiết hiện nay. Do đó, học viên đã lựa chọn đề tài: “Hoạt động hòa giải ở cơ sở từ thực tiễn tỉnh Bình Định” làm Luận văn tốt nghiệp Cao học Luật Hiến pháp và Luật Hành chính; qua đó, rút ra những nhận xét, đánh giá, đề xuất giải pháp để góp phần nâng cao hiệu quả của công tác HGOCS trên địa bàn tỉnh nói riêng và trên cả nước nói chung. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Công tác HGOCS được Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành và nhiều cá nhân quan tâm và đã có nhiều công trình nghiên cứu của nhiều tác giả về HGOCS được công bố, như: - Sách “Những điều cần biết về công tác hoà giải ở cơ sở” của luật gia 4
  10. Trần Đông Tùng, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000. - Sách “Hoà giải ở cơ sở” của Nguyễn Phương Thảo, NXB. Tư pháp, Hà Nội, 2007. - Hướng dẫn quản lý công tác hoà giải ở cơ sở, NXB. Tư pháp năm 2007; - Sách: “Cẩm nang công tác hoà giải ở cơ sở” của luật gia Dương Bạch Long, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009. - Sách “Hỏi đáp về tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở” của Minh Anh, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010. - Những nội dung cơ bản của Luật Hoà giải ở cơ sở, Quách Dương (chủ biên), NXB. Tư pháp, Hà Nội, 2013; - Một số tác giả cũng đề cập đến vị trí, vai trò và ý nghĩa của công tác HGOCS trên báo, tạp chí như: “Thương lượng và hòa giải – các phương thức giải quyết tranh chấp ngoài tố tụng tư pháp” của Nguyễn Trung Tín trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 01(237)/2008; “Vai trò và sự phối hợp của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp với các cơ quan tư pháp trong công tác hoà giải ở cơ sở”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số chuyên đề tháng 6/2009; “Vai trò của chính quyền các cấp trong công tác hoà giải ở cơ sở”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số chuyên đề tháng 6/2009; “Một cách làm tốt công tác hoà giải ở cơ sở” của Ngọc Hiển, báo Pháp luật Việt Nam, ngày 27/9/2010 Một số nhà nghiên cứu cũng có công trình nghiên cứu liên quan đến HGOCS như: “Đồng thuận xã hội và việc xây dựng sự đồng thuận xã hội ở nước ta hiện nay” của Nguyễn Thị Lan đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị, số 6 năm 2006; Các bài viết của PGS.TS.Bùi Quang Dũng về “Giải quyết xích mích trong nhóm gia đình: phác thảo từ những kết quả nghiên cứu định tính”, “Giải quyết xích mích trong nội bộ nhân dân: phác thảo từ những kết quả 5
  11. nghiên cứu định tính”, “Hòa giải ở nông thôn miền Bắc Việt Nam (giả thuyết dành cho một cuộc nghiên cứu)” đăng trên tạp chí Xã hội học, số 4 năm 2001 và số 3 năm 2002, đề tài cấp thành phố “Hòa giải ở cơ sở trên địa bàn thành phố Hà Nội trong điều kiện hiện nay” của Học viện Tư pháp ngày 24/03/2010; Hòa giải ở cơ sở, kinh nghiệm từ một số địa bàn thực hiện dự án của quỹ thúc đẩy sáng kiến tư pháp năm 2020 (JIFF) chỉ phân tích một số kết quả, tồn tại đưa ra giải pháp nâng cao công tác HGOCS trong phạm vi một địa bàn nhất định. Những tài liệu, bài viết và công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến vấn đề hòa giải dưới nhiều góc độ, địa phương khác nhau. Tại tỉnh Bình Định, thời gian gần đây vẫn chưa có công trình khoa học nào được công bố về những nghiên cứu chi tiết, cụ thể và toàn diện về hoạt động HGOCS. Năm 2019, Bộ Tư pháp thực hiện tổng kết 05 năm thi hành Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013 trên toàn quốc (giai đoạn 2014 – 2018) nhằm đánh giá sự thống nhất, đồng bộ của Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật với các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành có liên quan; sự phù hợp của Luật với thực tiễn đời sống từ đó đề xuất các biện pháp, giải pháp làm cơ sở cho việc hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về HGOCS nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác HGOCS. Hiện nay, qua 06 năm thi hành Luật HGOCS trên địa bàn tỉnh Bình Định, học viên nhận thấy cần thiết phải phát huy hơn nữa những kết quả đạt được đồng thời phải tiếp tục nghiên cứu nhằm tìm ra những giải giáp đảm bảo nhằm nâng cao chất lượng HGOCS trên địa bàn tỉnh. Luận văn tiếp tục kế thừa và nghiên cứu về hoạt động HGOCS từ thực tiễn tỉnh Bình Định. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 6
  12. 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn nhằm phân tích những vấn đề lý luận, quy định pháp luật cơ bản về HGOCS, đánh giá thực trạng công tác HGOCS trên địa bàn tỉnh Bình Định; qua đó, đề xuất một số giải pháp cơ bản góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động HGOCS trên địa bàn tỉnh Bình Định trong thời gian đến. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tiếp tục làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về HGOCS, những quan điểm của Đảng và những cơ sở pháp lý của Nhà nước và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến công tác HGOCS. - Đánh giá một cách chính xác, khoa học về kết quả, thực trạng và phân tích nguyên nhân của thực trạng công tác HGOCS trên địa bàn tỉnh Bình Định. - Đề xuất các quan điểm, giải pháp qua đó nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác HGOCS ở trên địa bàn tỉnh Bình Định trong giai đoạn hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là những vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn thực hiện pháp luật về HGOCS trên địa bàn tỉnh Bình Định. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về không gian: Tỉnh Bình Định; - Về thời gian: Hoạt động HGOCS trong 06 năm: từ ngày 01/01/2014 (ngày Luật Hòa giải ở cơ sở có hiệu lực thi hành) đến 31/12/2019. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được nghiên cứu xây dựng trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt 7
  13. Nam về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và pháp luật của Nhà nước về HGOCS. Bên cạnh đó, còn có thực tiễn về tổ chức và hoạt động của công tác HGOCS trên địa bàn tỉnh Bình Định. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở nội dung đặt ra, Luận văn phối hợp sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh để nghiên cứu các vấn đề lý luận; thực hiện phương pháp khảo sát thực tế, thống kê để thu thập thông tin, số liệu thực tế làm tiền đề cho việc phân tích tình hình, đánh giá thực trạng, nguyên nhân của vấn đề nghiên cứu và luận chứng tính khả thi của các giải pháp đề xuất thực hiện. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài - Về thực tiễn, Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các cơ sở đào tạo chuyên ngành luật hoặc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm nhiệm vụ quản lý nhà nước về HGOCS; tài liệu cho báo cáo viên pháp luật tỉnh, cấp huyện, tuyên truyền viên pháp luật cấp xã thực hiện công tác PBGDPL về HGOCS; góp phần nâng cao nhận thức của chính quyền các cấp và các cơ quan liên quan trong việc tham mưu, tổ chức thực hiện công tác HGOCS tại tỉnh Bình Định nói riêng, trên địa bàn cả nước nói chung. - Về khoa học, Luận văn có giá trị tham khảo phục vụ cho công tác nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật về HGOCS. 7. Kết cấu của Luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về hòa giải ở cơ sở Chương 2: Thực trạng hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Bình Định Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác hòa giải ở cơ sở từ thực tiễn tỉnh Bình Định. 8
  14. CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ 1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của hòa giải ở cơ sở 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, quá trình phát triển và vai trò của hòa giải ở cơ sở 1.1.1.1. Khái niệm hòa giải ở cơ sở Hòa giải là một trong những biện pháp truyền thống để giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp trong nội bộ Nhân dân, nhưng quan niệm về hòa giải còn những vấn đề còn bất nhất. Trong lý luận cũng như trong thực tiễn, tùy theo cách người tiếp cận mà đưa ra những quan niệm khác nhau về hòa giải. Hòa giải đối với quốc tế cũng là một trong những nguyên tắc trong giải quyết tranh chấp quốc tế được quy định tại Khoản 1, Điều 33 Hiến chương Liên hợp quốc: “Các bên đương sự trong các cuộc tranh chấp, mà việc kéo dài các cuộc tranh chấp ấy có thể đe dọa đến hoà bình và an ninh quốc tế, trước hết, phải cố gắng tìm cách giải quyết tranh chấp bằng con đường đàm phán, điều tra, trung gian, hoà giải, trọng tài, toà án, sử dụng những tổ chức hoặc những điều ước khu vực, hoặc bằng các biện pháp hoà bình khác tùy theo sự lựa chọn của mình”. Trên thế giới có nhiều quan niệm khác nhau về hòa giải, cụ thể: Theo Hiệp hội Hòa giải Hoa Kỳ quan niệm “Hòa giải là một quá trình, trong đó bên thứ ba giúp hai bên tranh chấp ngồi lại với nhau để cùng giải quyết vấn đề của họ” [Error! Reference source not found., tr.7]; trong đó, người hòa giải đóng vai trò là người trung gian giúp hai bên tranh chấp ngồi lại với nhau giải quyết những mâu thuẫn, bất đồng trên cơ sở tự nguyện, người hòa giải không tham gia vào quá trình giải quyết, vào việc thỏa thuận của các bên. 9
  15. Từ Điển Luật học của Black, hòa giải (consilition) là: “Sự can thiệp, sự làm trung gian hòa giải; hành vi của người thứ ba làm trung gian giữa hai bên tranh chấp nhằm thuyết phục họ giàn xếp hoặc giải quyết tranh chấp giữa họ. Việc giải quyết tranh chấp thông qua người trung gian hòa giải (bên trung lập)” [19, tr17]. Ở Việt Nam, theo Đại từ điển tiếng Việt của Nguyễn Như Ý (chủ biên) đưa ra một cách hiểu chung nhất về hòa giải mà chưa nêu được cách thức và đặc trưng pháp lý của nó đó là: “làm cho ổn thỏa tình trạng mâu thuẫn xích mích giữa hai bên” [70, tr.208]. Còn theo Từ điển tiếng Việt của NXB. Khoa học xã hội thì hòa giải là: “hành vi thuyết phục các bên đồng ý chấm dứt xung đột hoặc xích mích một cách ổn thỏa”; trong đó, nêu lên phương thức và mục đích hòa giải nhưng lại chưa khái quát được bản chất, nội dung và các yếu tố cấu thành các loại hình hòa giải. Theo Từ điển Luật học, hòa giải là: “Tự chấm dứt việc xích mích, tranh chấp giữa các bên bằng sự thương lượng với nhau hoặc qua sự trung gian của một người khác. Hòa giải thành thì giữ gìn được sự đoàn kết giữa các bên, tránh được việc kiện tụng kéo dài, tốn kém và những trường hợp chỉ vì mâu thuẫn nhỏ mà biến thành việc hình sự” [65, tr.365]. Quan niệm này không phân biệt được phương thức thương lượng tự giải quyết với phương thức hòa giải, vô hình đồng nhất người trung gian với người hòa giải. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 quy định: “Ở cơ sở thành lập các tổ chức thích hợp của nhân dân để giải quyết những việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân theo quy định của pháp luật”. Điều 1 Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động HGOCS quy định: “HGOCS là việc hướng dẫn, giúp đỡ, thuyết phục các bên đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau những việc vi phạm pháp luật và các tranh chấp nhỏ nhằm giữ gìn đoàn kết trong nội bộ nhân dân, phòng 10
  16. ngừa, hạn chế vi phạm pháp luật, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trong cộng đồng dân cư.” Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2014) tiếp tục kế thừa và phát triển khái niệm HGOCS: “HGOCS là việc hòa giải viên hướng dẫn, giúp đỡ các bên đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật theo quy định của Luật này.” Như vậy, có thể hiểu rằng HGOCS là quá trình hòa giải viên bằng việc vận dụng pháp luật, đạo đức xã hội, bằng trình độ, năng lực, uy tín của mình để giải thích, thuyết phục, hướng dẫn, giúp đỡ các bên tranh chấp tự nguyện đạt được thỏa thuận, giải quyết với nhau những vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ nhằm xoá bỏ mâu thuẫn, bất đồng và đạt được những thoả thuận phù hợp với quy định của pháp luật và đạo đức xã hội; góp phần hàn gắn tình nghĩa gia đình, làng xóm, xây dựng tinh thần đoàn kết trong nội bộ Nhân dân, tương thân, tương ái; ổn định chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội trong cộng đồng dân cư, chủ động phòng ngừa và hạn chế những hành vi vi phạm pháp luật; tăng cường pháp chế, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. 1.1.1.2. Đặc điểm của hòa giải ở cơ sở Thứ nhất, HGOCS không mang tính tố tụng. Ở nước ta hiện nay, đối với hoạt động hòa giải, pháp luật hiện hành quy định một số cơ chế hòa giải ngoài tố tụng, như: hòa giải tranh chấp lao động cá nhân, tranh chấp lao động tập thể (về quyền, lợi ích) theo quy định của Bộ luật Lao động; hòa giải thương mại theo quy định của Luật Thương mại; hòa giải tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã theo quy định của Luật Đất đai; hòa giải của tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả, quyền liên quan theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ; hòa giải giữa tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ và người tiêu 11
  17. dùng theo quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Trong đó, hòa giải trước tố tụng đối với một số loại tranh chấp là thủ tục bắt buộc trước khi giải quyết tranh chấp tại Tòa án (còn được gọi là thủ tục tiền tố tụng). Theo quy định tại Khoản 2, Điều 2 Luật Hòa giải, đối thoại tại tòa án (có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2021) thì “Hòa giải tại Tòa án là hoạt động hòa giải do Hòa giải viên tiến hành trước khi Tòa án thụ lý vụ việc dân sự, nhằm hỗ trợ các bên tham gia hòa giải thỏa thuận giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Luật này.” Đối với Việt Nam, nền kinh tế nông nghiệp lúa nước đòi hỏi Nhân dân phải đảm bảo hệ thống thủy lợi, đắp đê, ngăn mặn, chống lũ lụt; bên cạnh đó là nguy cơ giặc ngoại xâm luôn “rình rập” khiến cho người Việt cổ sớm hình thành lối sống cộng đồng, tập thể, truyền thống đoàn kết, tương thân, thương ái. Ở các làng, xã xưa, người dân quen sống cộng đồng với nhau và có mối quan hệ xóm làng, huyết thống ràng buộc với nhau một cách chặt chẽ, gắn kết; họ rất coi trọng tình làng, nghĩa xóm “tối lửa tắt đèn có nhau”, “bán anh em xa, mua láng giềng gần”. Khi có mâu thuẫn, tranh chấp về quyền lợi, nghĩa vụ giữa các bên thì họ tự giải quyết với nhau, hóa giải mâu thuẫn, tranh chấp, xây dựng tình cảm hòa thuận, đoàn kết, hạnh phúc. Do đó, hòa giải được xem là lựa chọn tối ưu nhất để giải quyết những xích mích, mâu thuẫn, tranh chấp trong nội bộ Nhân dân Thứ hai, HGOCS là sự kết hợp giữa thực thi hiện pháp luật và tình cảm, đạo đức xã hội, phong tục, tập quán tốt đẹp cộng đồng. Khi hòa giải, việc hòa giải viên chỉ sử dụng các quy định của pháp luật để thực hiện hòa giải thì sẽ dễ dẫn tới cứng nhắc, mất bản chất hòa giải, do đó việc hòa giải cũng khó đạt hiệu quả. Nếu Hòa giải viên chỉ dùng các quy chuẩn đạo đức để hòa giải thì không chắc mang lại kết quả tích cực và thỏa đáng bởi vì có thể không phù hợp với 12
  18. quy định của pháp luật. Do vậy, một vụ việc chỉ được giải quyết dứt điểm và hiệu quả khi hòa giải viên bên cạnh việc nắm vững và vận dụng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước còn phải hiểu rõ quy chuẩn đạo đức, truyền thống, văn hóa, phong tục tập quán của từng địa phương, dòng họ để hòa giai mâu thuẫn, tranh chấp. Thứ ba, HGOCS mang tính tự nguyện, không bắt buộc, áp đặt. Hòa giải là sự thỏa thuận, ý kiến của các bên mâu thuẫn, tranh chấp; là tự nguyện trong tiến hành và thực hiện các cam kết giữa các bên. Tôn trọng sự tự nguyện của các bên; không bắt buộc, áp đặt các bên trong HGOCS. Để đảm bảo hiệu quả cho công tác HGOCS, đảm bảo các cam kết thỏa thuận trong biên bản hòa giải thành của các bên tranh chấp được thực thi trên thực tế, Bộ Tư pháp sau khi thống nhất với Tòa án nhân dân tối cao đã có văn bản hướng dẫn thực hiện thủ tục yêu cầu Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở. Theo đó, áp dụng quy định tại Chương 33 của Bộ luật Tố tụng Dân sự về “Thủ tục công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án”. Như vậy, sau khi hòa giải thành với những cam kết, thỏa thuận mà các bên đạt được, một trong các bên hoặc các bên tranh chấp có quyền yêu cầu Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành đó, yêu cầu này cũng là hoàn toàn tự nguyện. Trong trường hợp xét thấy đáp ứng đầy đủ điều kiện. Tòa án có thẩm quyền ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành thì tại thời điểm này, các cam kết, thỏa thuận của các bên phải được thực hiện một cách bắt buộc như quyền, nghĩa vụ dân sự mà các bên đã xác lập, nếu bên nào vi phạm không thực hiện thì sẽ bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự. Thứ tư, HGOCS có chủ thể, trình tự, thủ tục đa dạng, linh hoạt. 13
  19. Về chủ thể, HGOCS được tiến hành khi có một trong các căn cứ sau đây: Một bên hoặc các bên yêu cầu hòa giải; Hòa giải viên chứng kiến hoặc biết vụ, việc thuộc phạm vi hòa giải; Theo phân công của tổ trưởng tổ hòa giải hoặc đề nghị của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Trong quá trình hòa giải, nếu thấy cần thiết, hòa giải viên và một trong các bên khi được sự đồng ý của bên kia có thể mời người có uy tín trong dòng họ, ở nơi sinh sống, nơi làm việc; người có trình độ pháp lý, có kiến thức xã hội; già làng, chức sắc tôn giáo, người biết rõ vụ, việc; đại diện của cơ quan, tổ chức hoặc người có uy tín khác tham gia hòa giải Hòa giải được tiến hành trực tiếp, bằng lời nói với sự có mặt của các bên. Trong trường hợp các bên có người khuyết tật thì có sự hỗ trợ phù hợp để có thể tham gia hòa giải. Hòa giải được tiến hành công khai hoặc không công khai theo ý kiến thống nhất của các bên. Tùy thuộc vào vụ, việc cụ thể, trên cơ sở quy định của pháp luật, đạo đức xã hội, phong tục, tập quán tốt đẹp của nhân dân, hòa giải viên áp dụng các biện pháp thích hợp nhằm giúp các bên hiểu rõ về quyền lợi, trách nhiệm của mỗi bên trong vụ, việc để các bên thỏa thuận việc giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp và tự nguyện thực hiện thỏa thuận đó. Trong trường hợp không đạt được thỏa thuận, hòa giải viên hướng dẫn các bên đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật. HGOCS được thực hiện bởi hòa giải viên và những người tham gia khác như người có uy tín và các tổ chức thích hợp khác của Nhân dân, những người người có trình độ pháp lý, có kiến thức xã hội; già làng, chức sắc tôn giáo, người biết rõ vụ, việc; đại diện của cơ quan, tổ chức hoặc người có uy tín khác tham gia hòa giải. Họ tham gia giải thích, hướng dẫn, thuyết phục, vận động các bên tranh chấp, mâu thuẫn giải hòa với nhau. 14
  20. Về trình tự, thủ tục, cách thức HGOCS rất linh hoạt, hòa giải viên không phải tiến hành theo một khuôn mẫu thống nhất nào. Nguyên tắc của HGOCS là không bắt buộc, không áp đặt các bên tranh chấp phải tiến hành hoà giải, do vậy việc hoà giải được tiến hành bất cứ vào thời gian và địa điểm nào hoặc do các đương sự yêu cầu hoặc theo sáng kiến của tổ viên Tổ hoà giải phù hợp với nguyện vọng của các bên. Vụ, việc hòa giải có thể được hòa giải ngay lập tức tại nơi xảy ra vụ, việc hoặc nơi do các bên hoặc hòa giải viên lựa chọn, hoặc vào một thời gian khác nhằm bảo đảm thuận lợi cho các bên. 1.1.1.3. Vai trò của hòa giải ở cơ sở trong đời sống xã hội tại Việt Nam. Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, Nhân dân Việt Nam luôn phải chống chọi với giặc ngoại xâm và thiên tai khắc nghiệt đã hình thành ý thức rất sâu sắc về sức mạnh đoàn kết dân tộc, cộng đồng. Người Việt Nam sống có tình có lý, và chính tính cộng đồng đã hình thành đạo lý sống thiên về tình hơn và “quan hệ” là yếu tố quan trọng có tính quyết định để tồn tại được trong một cộng đồng. Bên cạnh đó, xuất phát từ bản chất của quan hệ dân sự được thiết lập trên cơ sở tự do, tự nguyện thương lượng thỏa thuận giữa các chủ thể, nên khi có mâu thuẫn, tranh chấp, xích mích xảy ra, mặc dù có nhiều phương thức giải quyết khác nhau (thương lượng, hòa giải, trọng tài, tòa án), nhưng hòa giải vẫn được xem là phương án tối ưu được lựa chọn. Ngày nay, dưới tác động của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, đời sống kinh tế - xã hội của người Việt Nam có những biến đổi sâu sắc, nhưng tinh thần đoàn kết cũng như lối sống trọng tình, trọng nghĩa đã tồn tại ngàn đời nay vẫn được bảo tồn, phát huy và đây chính là căn nguyên, là “mảnh đất” cho hòa giải, đặc biệt là HGOCS ngày càng phát huy ý nghĩa xã 15
  21. hội, ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Từ thực tiễn cho thấy, HGOCS ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong đời sống xã hội tại Việt Nam, cụ thể: Thứ nhất, HGOCS góp phần giải quyết có hiệu quả các tranh chấp, mâu thuẫn, vi phạm pháp luật, tiết kiệm thời gian, chi phí, công sức của Nhân dân cũng như của Nhà nước, góp phần giảm bớt khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện của Nhân dân. Trong xã hội, con người gắn kết với nhau bởi các mối quan hệ hết sức phong phú, đa dạng, phức tạp nên việc xảy ra mâu thuẫn, xung đột, tranh chấp là điều không tránh khỏi. Nhà nước không thể và cũng không cần thiết phải can thiệp, giải quyết hết tất cả các mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh, những vi phạm pháp luật nhỏ trong đời sống cộng đồng dân cư khi mà các bên có thể tự cùng nhau thương lượng, hòa giải. Ngoài ra, với phương châm xử sự trong gia đình thì “đóng cửa bảo nhau”, ra ngoài đường thì “một điều nhịn chín điều lành”, tâm lý cho rằng “vô phúc đáo tụng đình”, các bên thường tìm cách giải quyết êm thấm các mâu thuẫn, tranh chấp trong nội bộ gia đình, dòng tộc, làng xóm. Từ khi Luật Hòa giải ở cơ sở có hiệu lực thi hành, các hòa giải viên đã hòa giải thành được số lượng lớn các vi phạm pháp luật và tranh chấp trong cộng đồng dân cư. Theo số liệu thống kê, từ ngày 01/01/2014 đến hết ngày 31/12/2019, hòa giải viên trên cả nước đã hòa giải thành 707.945/875.312 vụ việc, đạt tỷ lệ 80,87% [11, tr.16], tức là đã giảm đi chừng đó vụ việc mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải giải quyết. Chỉ tính riêng tại tỉnh Bình Định, cũng trong cùng thời gian đó, hoạt động HGOCS đã hòa giải thành 13.098/10.703 vụ việc, đạt tỷ lệ 81,71%. Đội ngũ hòa giải viên đã phát huy được vai trò của mình, bằng sự tận tâm, nhiệt tình đã hàn gắn những rạn nứt về tình cảm, vun đắp tình yêu thương, sự đùm bọc, hòa thuận trong từng gia đình, khơi gợi tình làng nghĩa xóm trong cộng đồng dân cư. 16