Luận văn Hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết Phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết Phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_hoan_thien_phap_luat_ve_thu_tuc_giai_quyet_pha_san.pdf
Nội dung text: Luận văn Hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết Phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay
- Đại học Quốc gia Hà nội Khoa luật Trần Thị Thu Trang Hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết Phá sản doanh nghiệp ở việt nam hiện nay Luận văn thạc sĩ Hà Nội - 2009
- Đại học Quốc gia Hà nội Khoa luật Trần Thị Thu Trang Hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết Phá sản doanh nghiệp ở việt nam hiện nay Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số: 60 38 50 Luận văn thạc sĩ luật học Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Dương Đăng Huệ Hà nội - 2009
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! TÁC GIẢ LUẬN VĂN Trần Thị Thu Trang
- MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1 CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP VÀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 9 1.1. Khái niệm về phá sản và thủ tục giải quyết phá sản 9 1.1.1. Khái niệm phá sản 10 1.1.2. Thủ tục giải quyết phá sản 14 1.2. Thủ tục giải quyết phá sản của một số nước trên thế giới 20 1.2.1. Một vài nét chung về phá sản và pháp luật phá sản của các nước trên thế giới 20 1.2.2. Thủ tục giải quyết phá sản của một số nước trên thế giới 23 CHƢƠNG 2: PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 32 2.1. Pháp luật về mở thủ tục phá sản 32 2.1.1. Nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản 32 2.1.2. Nhận đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản 42 2.1.3. Thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản 49 2.1.4. Mở thủ tục phá sản và những công việc cần tiến hành 50 2.2. Pháp luật về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh 60 2.2.1. Khái niệm, đặc điểm, mục đích, ý nghĩa của thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh 60 2.2.2. Nội dung của thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh 63 2.3. Pháp luật về thủ tục thanh lý tài sản và các khoản nợ 65
- 2.3.1. Khái niệm thủ tục thanh lý tài sản và các khoản nợ 65 2.3.2. Nội dung của thủ tục thanh lý tài sản và các khoản nợ 66 2.4. Pháp luật về thủ tục tuyên bố doanh nghiệp phá sản 71 2.4.1. Khái niệm thủ tục tuyên bố doanh nghiệp phá sản 71 2.4.2. Nội dung của thủ tục tuyên bố doanh nghiệp phá sản 71 CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 75 3.1. Thực tiễn giải quyết yêu cầu phá sản tại Toà án nhân dân trong thời gian qua 75 3.1.1. Tình hình thụ lý và giải quyết yêu cầu phá sản 75 3.1.2. Những tồn tại, vướng mắc trong quá trình giải quyết yêu cầu phá sản 76 3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết phá sản 93 3.2.1. Trong giai đoạn mở thủ tục giải quyết phá sản 93 3.2.2. Trong giai đoạn phục hồi hoạt động sản xuất, kinh doanh 102 3.2.3. Trong giai đoạn thanh lý tài sản và các khoản nợ của doanh nghiệp 103 3.2.4. Trong giai đoạn tuyên bố phá sản doanh nghiệp 104 3.2.5. Các giải pháp khác 106 KẾT LUẬN 113 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 114
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ở nước ta từ những năm 1980 trở về trước nền kinh tế còn mang nặng tính hành chính, bao cấp. Với Đại hội Đảng VI (năm 1986), công cuộc đổi mới của đất nước đã được khởi xướng. Nền kinh tế của nước ta đã có sự tăng trưởng vượt bậc do được xây dựng và hoạt động trên quan điểm mới - quan điểm phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) cũng đã góp phần tạo cho nền kinh tế nước ta cơ hội mới để phát triển toàn diện đồng thời cũng đặt ra những thách thức lớn, đòi hỏi nước ta phải tiếp tục hoàn thiện môi trường kinh doanh, hoàn thiện hệ thống pháp luật để tạo được môi trường kinh doanh lành mạnh, bình đẳng, an toàn cho nhà đầu tư. Trong nền kinh tế thị trường, các loại hình doanh nghiệp khác nhau thuộc mọi thành phần kinh tế đều được Nhà nước khuyến khích thành lập và tạo điều kiện hoạt động một cách bình đẳng và cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân khác nhau mà bên cạnh những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội thì còn có một bộ phận không nhỏ những doanh nghiệp đã và đang làm ăn thua lỗ, mất khả năng thanh toán. Vì vậy có thể nói, phá sản là một thuộc tính của nền kinh tế thị trường. Để tạo cơ sở pháp lý cho việc xử lý tài sản của các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, bảo vệ lợi ích của chủ nợ, con nợ và của Nhà nước nói chung, Nhà nước nào cũng phải ban hành Luật Phá sản. Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 của nước ta được ban hành là nhằm đảm bảo thực hiện yêu cầu này. Tuy nhiên, trong quá trình thi hành các quy định của Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 cho thấy Luật này còn nhiều quy định 1
- tỏ ra bất cập, chưa phù hợp với thực tế khách quan. Để khắc phục những tồn tại đó và đáp ứng được yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, từ năm 2000 Quốc hội đã có kế hoạch sửa đổi bổ sung Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993. Tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khoá XI đã thông qua Luật phá sản mới thay thế cho Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993. Luật Phá sản năm 2004 ra đời là một bước tiến mới trong hệ thống pháp luật về phá sản ở nước ta, đã tạo điều kiện để các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản có thể phục hồi sản xuất - kinh doanh, thúc đẩy sự lưu thông vốn trong nền kinh tế thị trường, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ. Luật Phá sản năm 2004 là kết quả của quá trình tổng kết kinh nghiệm 10 năm thi hành Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 và tiếp thu kinh nghiệm của các nước trên thế giới. Tuy nhiên thủ tục giải quyết phá sản của Luật Phá sản năm 2004 vẫn còn một số vấn đề hạn chế lớn như sau: - Thứ nhất, Luật Phá sản năm 2004 xác định Toà án có vai trò trung tâm trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản, nhưng Toà án sẽ không thể thực hiện tốt nhiệm vụ của mình nếu không có sự phối hợp tích cực của Cơ quan thi hành án. Trên thực tế, do thiếu các quy định cần thiết trong Luật, cộng với việc các Chấp hành viên, Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản chưa nhận thức đầy đủ trách nhiệm, quyền hạn của mình nên đã không tích cực phối hợp, dẫn đến việc giải quyết phá sản không đạt hiệu quả. - Thứ hai, nhiều vấn đề phát sinh trong giai đoạn từ khi nhận đơn xin mở thủ tục giải quyết phá sản cho đến lúc Toà án ra quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã đều do cán bộ của các cơ quan nhà nước thực hiện.Các quy định của Luật như vậy là không phù hợp với nguyên tắc dân sự là quyền quyết định và tự định đoạt thuộc về các đương sự. - Thứ ba, theo Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993, có 2 tổ chức được thành lập là Tổ quản lý tài sản và Tổ thanh toán tài sản. Để đảm bảo tập trung 2
- đầu mối quản lý, giảm thủ tục hành chính, Luật Phá sản năm 2004 đã quy định thành lập một Tổ là Tổ quản lý và thanh lý tài sản do một Chấp hành viên của Cơ quan thi hành án cùng cấp làm tổ trưởng. Tuy nhiên, trên thực tế, hoạt động của Tổ quản lý và thanh lý tài sản đã không đạt hiệu quả do nhiều quy định về nó chưa hợp lý, chưa khoa học, không phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta hiện nay. - Thứ tư, theo quy định của Luật Phá sản năm 2004, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp được uỷ quyền cho người khác đề nghị Toà án mở thủ tục phá sản với chính doanh nghiệp mình và tham gia toàn bộ quá trình giải quyết của Toà án. Tuy nhiên, do Luật không quy định cụ thể điều kiện của người được uỷ quyền nên trên thực tế có nhiều người nhận uỷ quyền của các doanh nghiệp nhưng lại không nắm được tình hình công nợ, tình hình tài sản của doanh nghiệp nên đã kê khai không đúng với Tổ quản lý, thanh lý tài sản. Việc thiếu những quy định chặt chẽ về trách nhiệm của các doanh nghiệp cũng như của Tổ quản lý, thanh lý tài sản đã dẫn đến nhiều khoản nợ phải thu của doanh nghiệp phá sản đã không được thu hồi kịp thời trước khi tuyên bố phá sản, làm cho việc thụ lý giải quyết vụ án phá sản bị kéo dài. Từ những ví dụ nêu trên, cùng với nhiều hạn chế có tính thủ tục khác đã làm giảm hiệu lực của Luật Phá sản năm 2004 trong cuộc sống. Để góp phần nâng cao hơn nữa hiệu lực và hiệu quả của Luật này, Tôi chọn đề tài: “Hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học luật tại Đại học Quốc gia Hà Nội. 2. Tình hình nghiên cứu Vấn đề phá sản có thể nói không còn là vấn đề hoàn toàn mới mẻ ở Việt Nam. Xung quanh vấn đề này, đã có nhiều công trình nghiên cứu do các nhà khoa học pháp lý, người làm công tác thực tiễn của Việt Nam thực hiện. 3
- Các công trình nghiên cứu về pháp luật phá sản được thực hiện dưới nhiều hình thức với nhiều cấp độ khác nhau. Trong đó có công trình nghiên cứu toàn diện về các vấn đề liên quan đến pháp luật phá sản nhưng cũng có công trình chỉ nghiên cứu một khía cạnh nhất định liên quan đến pháp luật phá sản. Trong số các công trình nghiên cứu về pháp luật phá sản ở nước ta sau khi Luật Phá sản năm 2004 được ban hành, có thể kể đến một số công trình nghiên cứu như sau: - Công trình nghiên cứu khoa học cấp Bộ của TS. Nguyễn Văn Dũng về “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc áp dụng các quy định của Luật phá sản về thủ tục phá sản” năm 2004; - Luận văn thạc sỹ Luật học của Nguyễn Trường Nhật Phượng với đề tài “Chế độ pháp lý về phá sản- Thực tiễn thi hành và hướng hoàn thiện”, được bảo vệ thành công tại trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh tháng 8/2004. Luận văn dày 156 trang đã nghiên cứu một cách tương đối toàn diện các vấn đề liên quan đến pháp luật về phá sản ở nước ta trong đó có Luật Phá sản năm 2004. Tuy nhiên do luận văn được viết khi Luật Phá sản năm 2004 mới được ban hành nên chưa xem xét, đánh giá được tính hiệu lực và hiệu quả của Luật Phá sản năm 2004; - Công trình nghiên cứu “Pháp luật phá sản của Việt Nam” của PGS.TS Dương Đăng Huệ, Nhà xuất bản tư pháp, năm 2005. Đây là công trình chuyên khảo nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện các vấn đề liên quan đến phá sản như một hạ tầng của kinh tế thị trường và pháp luật về phá sản với tư cách là một công cụ pháp lý để giải quyết hậu quả của doanh nghiệp bị Toà án tuyên bố phá sản. Công trình này cũng đã dành nhiều trang cho việc nghiên cứu các quy định mới của Luật Phá sản năm 2004 so với Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993. Tuy nhiên, do tính bao quát của mình nên công trình đã không 4
- dành nhiều công sức cho việc nghiên cứu một cách chi tiết các thủ tục phá sản theo Luật Phá sản năm 2004. - Luận án tiến sĩ “Hoàn thiện các quy định liên quan đến quản lý và thanh lý tài sản phá sản” của Nguyễn Thị Hồng Vân, được bảo vệ thành công tại khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội năm 2008. Đây là một công trình nghiên cứu rất chuyên sâu về các hạn chế, yếu kém trong các quy định của pháp luật có liên quan đến công tác quản lý và thanh lý tài sản phá sản và Tổ quản lý, thanh lý tài sản. Như vậy, các nội dung khác của Luật Phá sản chưa được đề cập đến trong luận án này; - Công trình nghiên cứu khoa học cấp Bộ “ Thực trạng pháp luật về phá sản và việc hoàn thiện môi trường pháp luật kinh doanh tại Việt Nam” của Bộ Tư pháp bảo vệ năm 2009 Ngoài ra, còn có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu đăng trên các tạp chí, các báo cáo chuyên đề, hội thảo chuyên đề về phá sản và pháp luật về phá sản như: - “Về thực trạng pháp luật phá sản Việt Nam hiện nay” của TS. Dương Đăng Huệ, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 1/2003; - “Tài sản phá sản và phân chia tài sản của con nợ bị phá sản” của Hà Thị Thanh Bình, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 5/2003; - “Phá sản doanh nghiệp- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Nguyễn Tấn Hơn, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, năm 2005; - Đặc san chuyên đề về Luật phá sản của Tạp chí Toà án nhân dân, tháng 8-2004; - Báo cáo rà soát, đánh giá thực tiễn thi hành Luật phá sản năm 2004, Bộ Tư pháp, năm 2008 Tuy nhiên, qua nghiên cứu tôi thấy, vấn đề về hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay vẫn chưa được 5
- nhiều nhà khoa học và những người làm công tác thực tiễn quan tâm nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc. Vì vậy, trong bối cảnh khi mà pháp luật Việt Nam về vấn đề này còn nhiều hạn chế thì việc nghiên cứu đề tài này là rất cần thiết và bổ ích. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài Để áp dụng đúng đắn các quy định của pháp luật phá sản, cần nghiên cứu để nắm vững các quy định của pháp luật về phá sản bao gồm: Luật Phá sản năm 2004, các văn bản hướng dẫn thi hành như Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Nghị định của Chính phủ Trong phạm vi luận văn, tôi tập trung nghiên cứu các quy định về thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp của Luật Phá sản năm 2004. Thông qua nghiên cứu, phân tích, luận văn nêu ra những ưu điểm và tồn tại của từng loại thủ tục phá sản và đưa ra một số giải pháp để hoàn thiện các quy định của pháp luật về các loại thủ tục đó nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động giải quyết phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mac- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật bao gồm phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các văn kiện đại hội Đảng, quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với nền kinh tế nói chung và hoạt động của doanh nghiệp nói riêng. Các phương pháp cụ thể được vận dụng khi viết luận văn là phương pháp phân tích, tổng hợp, chứng minh, hệ thống hoá pháp luật và phương pháp luật học so sánh. Luận văn tiến hành tổng hợp và phân tích các quy định trong các văn bản pháp luật của Việt Nam về phá sản để đánh giá thực trạng, những khó khăn, vướng mắc trong việc giải quyết các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Trên cơ sở đó, luận văn sẽ đưa ra những kiến nghị về việc 6
- hoàn thiện các quy định về thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Sự vận dụng một cách nhuần nhuyễn các phương pháp nghiên cứu cụ thể nêu trên sẽ góp phần đưa đến thành công của luận văn. 5. Những đóng góp mới của Luận văn Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật về thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp, luận văn sẽ làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn, đề xuất các giải pháp nhằm giải quyết một cách nhanh chóng, kịp thời, hiệu quả của các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Cụ thể, luận văn có những đóng góp mới sau đây: Một là, nghiên cứu, phân tích các quy định của thủ tục giải quyết phá sản theo quy định của Luật Phá sản năm 2004, so sánh, phân tích thủ tục giải quyết phá sản theo Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 và Luật Phá sản năm 2004. Hai là, nhận diện và trình bày những quy định chung về thủ tục giải quyết phá sản của một số nước trên thế giới . Ba là, đánh giá thực trạng pháp luật về thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp trong thời gian qua. Thông qua đó, xác định những vướng mắc, khó khăn của việc áp dụng các quy định của pháp luật về thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp. Bốn là, kiến nghị phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp nhằm xây dựng các quy định phù hợp, có hiệu quả cho việc giải quyết phá sản doanh nghiệp. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn Kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ đóng góp một phần nhỏ vào việc làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc giải quyết phá sản doanh nghiệp. Những kiến nghị từ kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp 7
- phần trực tiếp vào việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam về thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp trong thời gian tới. 7. Kết cấu của Luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của Luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về phá sản doanh nghiệp và thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay Chương 2: Pháp luật về thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay 8
- CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP VÀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 1.1. Khái niệm về phá sản và thủ tục giải quyết phá sản Danh từ phá sản bắt nguồn từ chữ “Ruin” trong tiếng Latinh, có nghĩa là sự khánh tận. Khái niệm này dùng để chỉ tình trạng mất cân đối giữa thu và chi của một chủ thể kinh doanh mà biểu hiện trực tiếp của sự mất cân đối ấy là tình trạng mất khả năng thanh toán. Trong thuật ngữ tiếng Anh, phá sản là “Bankruptcy”, trong từ điển Tiếng Việt thì “phá sản là tình trạng tài sản chẳng còn gì, và thường là vỡ nợ, do kinh doanh bị thua lỗ, thất bại” [23]. Về mặt xã hội, phá sản đồng nghĩa với “tán gia bại sản”. Do đó, người ta thường có định kiến xấu với vấn đề phá sản. Nhất là các nước phương Đông, khi nói đến phá sản người ta thường liên tưởng đến những thất bại không thể cứu vãn trong kinh doanh và suy luận đến khả năng quản lý kém cỏi của doanh nhân. Hiện nay quan điểm này đã dần thay đổi: Định kiến về vấn đề phá sản không còn quá nặng nề, phá sản dần trở thành một hiện tượng bình thường mang tính khách quan, những con nợ bị phá sản do kém may mắn cũng được đối xử độ lượng hơn [15,T5]. Theo quan niệm chung, tình trạng phá sản là hậu quả đương nhiên của quá trình cạnh tranh trên thương trường. Việc giải quyết hậu quả của quá trình đó là tất yếu, là nhiệm vụ của bất kỳ quốc gia nào nhằm đảm bảo một môi trường kinh doanh lành mạnh cho các chủ thể tham gia kinh doanh, đảm bảo vai trò của Nhà nước trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Trải qua quá trình dài của lịch sử phát triển kinh tế, bên cạnh những yếu tố tích cực là thúc đẩy khoa học kỹ thuật phát triển, nâng cao cuộc sống của người dân thì thế giới cũng xảy ra nhiều biến động. Hậu quả khủng hoảng kinh tế kéo theo sự phá sản hàng loạt của các thương nhân. Để giải quyết hậu quả của kinh doanh 9
- thua lỗ, mất khả năng thanh toán, giữa chủ nợ và con nợ đã cùng nhau tìm ra những phương thức giải quyết. Tuy nhiên, các phương thức giải quyết tự phát đôi khi không đạt được hiệu quả, từ đó phát sinh nhu cầu có những quy định của pháp luật và sự can thiệp cần thiết để điều chỉnh, giải quyết hiện tượng phá sản một cách hiệu quả hơn, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan: chủ nợ, con nợ và người lao động. Phá sản là hiện tượng kinh tế khách quan trong nền kinh tế thị trường mà hậu quả của nó là sự xung đột lợi ích của các bên tham gia quan hệ kinh doanh. Phá sản không chỉ là sự xung đột lợi ích giữa con nợ mất khả năng thanh toán với các chủ nợ của nó mà còn dẫn đến sự xung đột với lợi ích của tập thể người lao động làm việc tại cơ sở của con nợ, đến lợi ích chung của xã hội, đến tình hình trật tự trị an tại một địa phương, vùng lãnh thổ nhất định nào đó. Ban hành pháp luật phá sản là mong muốn của nhà làm luật sử dụng những thuộc tính của pháp luật với tư cách là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội trong điều kiện tồn tại Nhà nước như tính quy phạm, tính bắt buộc chung nhằm tác động một cách hiệu quả nhất đến quan hệ giữa các chủ thể quan hệ phá sản, giải quyết xung đột lợi ích của các chủ thể đó theo đúng bản chất vốn có của nó. Như vậy phá sản là hiện tượng bình thường và cần thiết của kinh tế thị trường, còn pháp luật phá sản là sự can thiệp có ý thức của Nhà nước vào hiện tượng này nhằm hạn chế tối đa những hậu quả tiêu cực và khai thác những mặt tích cực của nó. Thông qua pháp luật phá sản, Nhà nước có thể can thiệp vào quá trình hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp với một cách nhìn hiện đại, năng động và hết sức mềm dẻo. 1.1.1. Khái niệm phá sản 10
- a) Khái niệm doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản theo Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 Tiếp theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ngày 29/12/1987, Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân 1990, Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 được nhìn nhận như là sự tiếp nối lôgic trong việc thể chế hoá chính sách đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước ta. Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 là đạo luật về phá sản đầu tiên của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được ban hành trong hoàn cảnh nước ta mới bước vào nền kinh tế thị trường. Kinh nghiệm của chúng ta về kinh tế thị trường nói chung và về phá sản nói riêng còn rất hạn chế. Kinh nghiệm lập pháp về phá sản hoàn toàn không có. Có thể nói, Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 được xây dựng chủ yếu dựa trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm lập pháp của nước ngoài. Theo Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 thì doanh nghiệp lâm vào “tình trạng phá sản” là doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh sau khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn [3, Điều 2]. Còn phá sản doanh nghiệp là tình trạng một doanh nghiệp do làm ăn thua lỗ dẫn đến việc hoàn toàn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn và bị tòa án, theo thủ tục luật định, ra quyết định buộc chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp và thanh lý tài sản của nó để trả nợ cho các chủ nợ. Trong pháp luật của nhiều nước, thuật ngữ phá sản được sử dụng với nghĩa hẹp để chỉ một số trường hợp cụ thể, khi con nợ thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật hình sự gây thiệt hại cho các chủ nợ. Pháp luật của các nước này thường sử dụng thuật ngữ insolvency (không có khả năng trả nợ hay khánh tận) để thay thế cho thuật ngữ phá sản (bankruptcy). Ở Việt Nam, hiện tượng phá sản doanh nghiệp lần đầu tiên được quy định tại Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993. 11
- Pháp luật của các nước quy định về đối tượng có thể bị tuyên bố phá sản cũng rất khác nhau. Ở một số nước thủ tục tuyên bố phá sản có thể được áp dụng đối với tất cả những người mắc nợ mà không phân biệt cá nhân hay pháp nhân và cũng không phân biệt thương nhân hay không là thương nhân, không phân biệt nợ dân sự hay là nợ thương mại (chẳng hạn Hoa Kỳ, Nhật ). Một số nước lại chỉ xem thương nhân với các khoản nợ thương mại mới là đối tượng có thể bị tuyên bố phá sản (chẳng hạn là pháp luật của Nga trước khi ban hành Luật mất khả năng thanh toán năm 2002). Một số nước lại quy định chỉ doanh nghiệp mới là đối tượng có thể bị tuyên bố phá sản. Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 của Việt Nam đã quy định theo hướng này. b) Khái niệm doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản theo Luật Phá sản năm 2004 Luật Phá sản năm 2004 ra đời là một cố gắng mới của các nhà lập pháp nước ta trong việc nâng cao hiệu quả điều chỉnh pháp luật đối với hiện tượng phá sản bằng việc khắc phục những hạn chế, bất cập của Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 và bổ sung những nội dung mới trên cơ sở tổng kết thực tiễn 9 năm áp dụng Luật này, tham khảo kinh nghiệm nước ngoài, thể chế hóa chính sách kinh tế của Đảng, Nhà nước ta trong giai đoạn phát triển mới của đất nước. Trong số các điểm mới đó có khái niệm mới về tình trạng phá sản. Khái niệm tình trạng phá sản là khái niệm có ý nghĩa quan trọng của pháp luật phá sản. Tùy thuộc vào định nghĩa này trong pháp luật phá sản của mỗi quốc gia mà sự can thiệp của Nhà nước vào hiện tượng phá sản sớm hay muộn, lập trường của Nhà nước nghiêng về bảo vệ lợi ích của ai nhiều hơn: chủ nợ hay con nợ. Trong Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 khái niệm này dường như được xây dựng trên cơ sở kết hợp tiêu chí định lượng và tiêu chí định tính. Tính định lượng thể hiện ở quy định về việc chủ nợ có quyền nộp đơn yêu cầu 12
- tuyên bố phá sản nếu con nợ không trả nợ sau thời hạn 30 ngày kể từ ngày đòi nợ, quy định về thời hạn 3 tháng nợ lương liên tiếp với người lao động. Tính định tính thể hiện ở quy định về những tài liệu cần thiết mà con nợ phải gửi cho Tòa án sau khi Tòa án thụ lý đơn yêu cầu giải quyết tuyên bố phá sản để Tòa án đánh giá tổng số nợ và tổng tài sản của con nợ như danh sách chủ nợ kèm theo số nợ, báo cáo về tình trạng tài chính, tài sản và khả năng thanh toán nợ của con nợ Khái niệm tình trạng phá sản còn phải gắn với lý do khó khăn, thua lỗ trong hoạt động kinh doanh hoặc lý do bất khả kháng. Với khái niệm như vậy, trên thực tế các chủ nợ sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc thực hiện quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản đối với con nợ của mình bởi lẽ họ phải chứng minh là con nợ thua lỗ trong hoạt động kinh doanh. Chủ nợ chỉ có thể chứng minh là con nợ đã trễ hạn thực hiện nghĩa vụ thanh toán nợ, còn vì sao con nợ trễ hạn thanh toán – không trả nợ thì chủ nợ có thể không biết mà cũng không cần biết. Những thông tin này thuộc phạm vi bí mật kinh doanh của con nợ và chỉ có thể xác định trên cơ sở sổ sách kế toán của con nợ. Điều này dường như nằm ngoài khả năng của con nợ. Theo Điều 3 Luật Phá sản năm 2004 thì doanh nghiệp không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì coi là lâm vào tình trạng phá sản [4, Điều 3]. Như vậy, Luật Phá sản năm 2004 khi đưa ra khái niệm tình trạng phá sản đã đoạn tuyệt với nguyên nhân khó khăn, thua lỗ trong hoạt động kinh doanh và thời hạn thua lỗ. Đây là một bước tiến lớn của pháp luật phá sản nước ta, thể hiện sự can thiệp sớm của Nhà nước vào hiện tượng phá sản. Tính chất nghiêm trọng về hậu quả có tính dây chuyền của hiện tượng phá sản trong đời sống kinh tế đòi hỏi khách quan sự can thiệp sớm của Nhà nước. Tuy nhiên, cũng giống như Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993, trong Luật Phá sản năm 2004 thì khái niệm phá sản vẫn chưa được đề cập. 13
- 1.1.2. Thủ tục giải quyết phá sản a) Khái niệm thủ tục giải quyết phá sản Thủ tục giải quyết phá sản là thủ tục tư pháp vì nó do Toà án với tư cách là cơ quan tư pháp tiến hành. Trong thủ tục phá sản khi các chủ nợ thực hiện quyền đòi nợ của mình nhưng yêu cầu đó không được đáp ứng từ phía con nợ thì xuất hiện một sự xung đột về lợi ích tài sản giữa chủ nợ và con nợ. Xung đột này là xung đột về mặt tài sản, liên quan đến việc thực hiện các nghĩa vụ pháp lý phát sinh từ hợp đồng hoặc một sự kiện pháp lý nào đó. Sự xung đột mà thực chất là sự không chấp hành hoặc chấp hành không đầy đủ nghĩa vụ của một bên đương nhiên ảnh hưởng đến lợi ích của bên đối tác. Để có thể bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình, chủ nợ buộc phải yêu cầu Toà án mở thủ tục phá sản đối với con nợ với mục đích thu hồi nợ. Khi có yêu cầu mở thủ tục phá sản, Toà án phải xem xét yêu cầu đó có chính đáng hay không. Nếu xác định con nợ đã mất khả năng thanh toán thì tuỳ từng trường hợp cụ thể Toà án căn cứ vào quy định của pháp luật để ra quyết định áp dụng thủ tục phù hợp là thủ tục phục hồi hoặc thủ tục thanh toán hay thủ tục tuyên bố con nợ bị phá sản. Tại hội nghị chủ nợ các bên có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận kế hoạch tổ chức lại hoạt động kinh doanh của con nợ thì đó cũng là một hình thức hoà giải để giải quyết xung đột pháp lý giữa các bên. Như vậy, xét về mặt đối tượng của hoạt động thì thủ tục giải quyết phá sản cũng là một thủ tục tư pháp vì đối tượng của nó là các quan hệ pháp lý phát sinh giữa bên có quyền và bên có nghĩa vụ, giữa bên là chủ nợ và bên kia là con nợ. Tóm lại, xét về bản chất thì thủ tục giải quyết phá sản là một thủ tục tư pháp đặc biệt, do Toà án tiến hành nhằm giúp chủ nợ và con nợ giải quyết các tranh chấp có tính chất tài sản giữa họ với nhau [16, 96-97]. b) Cấu trúc của thủ tục giải quyết phá sản 14
- Một trong những dấu hiệu đặc biệt chính là cấu trúc đặc thù của thủ tục giải quyết phá sản. Nếu như tố tụng hình sự, tố tụng dân sự là một quá trình hoạt động của Tòa án và những người tham gia tố tụng, hình thành từ những giai đoạn nối tiếp nhau, giai đoạn trước là nền tảng cho giai đoạn sau, giai đoạn sau kiểm tra tính hợp pháp, khắc phục những thiếu sót của giai đoạn trước thì thủ tục phá sản là một quá trình hoạt động có cấu trúc hoàn toàn khác. Theo Điều 5 Luật Phá sản năm 2004 thì thủ tục giải quyết phá sản là một thủ tục lớn bao gồm nhiều thủ tục cấu thành (thủ tục nhỏ) và giữa những thủ tục cấu thành đó có mối liên hệ với nhau theo những nguyên tắc khác nhau [4, Điều 5]. Tính thứ tự, nối tiếp nhau không phải là yếu tố bắt buộc giữa các thủ tục cấu thành. Đây là bước phát triển về lý luận của pháp luật phá sản nước ta. Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 tuy cũng có những quy định về phục hồi hoạt động kinh doanh, thanh lý tài sản của doanh nghiệp nhưng Luật chưa thừa nhận những nội dung đó là những thủ tục cấu thành độc lập, chưa nhìn nhận được tính đặc thù về mối quan hệ giữa các thủ tục đó. Trong Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993, phục hồi hoạt động kinh doanh gần như là một hoạt động bắt buộc trước hoạt động thanh lý. Chỉ sau khi phục hồi không thành công – thực hiện kế hoạch tổ chức lại hoạt động kinh doanh không đem lại kết quả, con nợ vi phạm cam kết hoặc Hội nghị chủ nợ không chấp nhận kế hoạch phục hồi hoặc con nợ không có kế hoạch thì lúc đó Tòa án mới có thể quyết định chuyển sang tuyên bố phá sản với con nợ và thanh lý tài sản của nó. Giải quyết mối quan hệ giữa hai thủ tục phục hồi và thanh lý như vậy là cứng nhắc và máy móc. Thực tế cho thấy, trong nhiều trường hợp, tại thời điểm thụ lý đơn yêu cầu giải quyết tuyên bố phá sản đã có nhiều con nợ ngừng hoạt động, hoàn toàn không còn khả năng phục hồi nhưng do Luật quy 15
- định nên thẩm phán vẫn phải tuần tự thực hiện các quy định của thủ tục phục hồi. Điều này chỉ làm kéo dài thời gian vô ích, không có ý nghĩa gì cả. Quan điểm của tác giả Nguyễn Tấn Hơn cho rằng, thủ tục giải quyết phá sản là một quá trình bao gồm ba giai đoạn chính yếu: + Giai đoạn thứ nhất: Giai đoạn điều tra khả năng thanh toán nợ của doanh nghiệp. Trong giai đoạn này nếu con nợ không muốn rơi vào giai đoạn sau thì phải chứng minh cho Tòa án khả năng thanh toán nợ của mình. Nếu Tòa án nhận thấy con nợ không còn khả năng thanh toán nợ đến hạn thì áp dụng ngay giai đoạn tiếp theo. + Giai đoạn thứ hai: Giai đoạn giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản. Giai đoạn này có nội dung chủ yếu là xây dựng phương án hòa giải, phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu không hòa giải được hoặc phương án hòa giải thực hiện không thành công thì Tòa án chuyển sang giai đoạn tiếp theo. + Giai đoạn thứ ba: Giai đoạn phá sản và thanh lý tài sản của doanh nghiệp [14, T6 ]. Cách tiếp cận thủ tục phá sản như là hoạt động bao gồm nhiều giai đoạn nối tiếp nhau như trên vừa không phù hợp về lý luận, vừa không phù hợp với thực tiễn. Mỗi giai đoạn trong tố tụng tư pháp có nhiệm vụ riêng của mình nhưng việc giải quyết nhiệm vụ của giai đoạn trước luôn là tiền đề cho việc thực hiện nhiệm vụ của giai đoạn tiếp theo và xét cho cùng là thực hiện nhiệm vụ chung của toàn bộ tiến trình tố tụng. Ví dụ trong tố tụng hình sự, giai đoạn điều tra có nhiệm vụ khác với nhiệm vụ của giai đoạn xét xử sơ thẩm. Đó là nhiệm vụ phát hiện nhanh chóng kịp thời tội phạm và kẻ phạm tội, thu thập đầy đủ các chứng cứ về các tình tiết sự kiện của vụ án. Thực hiện nhiệm vụ của giai đoạn điều tra là cơ sở để thực hiện nhiệm vụ của giai đoạn xét xử sơ thẩm là xét xử đúng người, đúng tội, không làm oan người vô tội. 16