Luận văn Hoàn thiện pháp luật về chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam

pdf 113 trang vuhoa 25/08/2022 5640
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Hoàn thiện pháp luật về chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_hoan_thien_phap_luat_ve_chi_nhanh_ngan_hang_nuoc_ng.pdf

Nội dung text: Luận văn Hoàn thiện pháp luật về chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN hoµn thiÖn ph¸p luËt vÒ chi nh¸nh ng©n hµng n­íc ngoµi ë viÖt nam LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN hoµn thiÖn ph¸p luËt vÒ chi nh¸nh ng©n hµng n­íc ngoµi ë viÖt nam Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN THỊ ÁNH VÂN HÀ NỘI - 2015
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyễn Thị Thanh Huyền
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI VÀ PHÁP LUẬT VỀ CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI 6 1.1. Khái quát về chi nhánh ngân hàng nước ngoài 6 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của chi nhánh ngân hàng nước ngoài 6 1.1.2. Vai trò của chi nhánh ngân hàng nước ngoài 17 1.1.3. Sự hình thành và phát triển của ngân hàng nước ngoài và chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở một số nước trên thế giới và ở Việt Nam 23 1.2. Pháp luật về chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam 30 1.2.1. Khái niệm, nội dung của pháp luật về chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam 30 1.2.2. Sự cần thiết phải điều chỉnh pháp luật đối với chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam 32 1.2.3. Các nhân tố cơ bản ảnh hưởng tới pháp luật điều chỉnh chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam 34 Kết luận chương 1 38 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM 39 2.1. Những thành tựu của pháp luật điều chỉnh chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam 39
  5. 2.1.1. Pháp luật quy định khá cụ thể về điều kiện cấp phép thành lập và hoạt động đối với chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam theo hướng nâng cao các tiêu chí đảm bảo an toàn trong hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài 39 2.1.2. Pháp luật điều chỉnh hoạt động huy động vốn của chi nhánh ngân hàng nước ngoài về cơ bản hợp lý và đáp ứng nhu cầu chính đáng của thị trường 45 2.1.3. Quy định về cho vay theo lãi suất thoả thuận, bỏ cơ chế lãi suất trần tạo tính minh bạch thông thoáng cho hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài 57 2.2. Những hạn chế của pháp luật điều chỉnh về chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam 61 2.2.1. Một số quy định về điều kiện mở chi nhánh ngân hàng nước ngoài còn chưa rõ dẫn đến không ít khó khăn trong thực tiễn thi hành 61 2.2.2. Quy định về hồ sơ xin cấp phép thành lập chi nhánh ngân hàng nước ngoài tương đối rườm rà 64 2.2.3. Quy định về thủ tục cấp phép thành lập chi nhánh ngân hàng nước ngoài quá cồng kềnh 70 2.2.4. Quy định về loại tiền gửi được bảo hiểm chưa hợp lý và hạn mức chi trả bảo hiểm tiền gửi quá thấp 76 2.2.5. Quy định về hạn mức tín dụng 15% trên vốn tự có của chi nhánh ngân hàng nước ngoài gây khó khăn trong hoạt động của các chi nhánh này tại Việt Nam 79 2.2.6. Các quy định về lãi suất còn gây không ít khó khăn cho các ngân hàng nói chung và chi nhánh ngân hàng nước ngoài nói riêng trong thực tiễn thi hành 81 2.2.7. Quy định không cho người nước ngoài được gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ là lãng phí nguồn vốn cho ngân hàng 83 2.2.8. Quy định bó hẹp phạm vi hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài 85 Kết luận chương 2 87
  6. Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM 88 3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam 88 3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam 90 3.2.1. Quy định rõ ràng và chặt chẽ về các điều kiện cấp giấy phép thành lập và hoạt động 90 3.2.2. Đơn giản hoá các thủ tục hành chính trong hoạt động cấp phép thành lập chi nhánh ngân hàng nước ngoài 92 3.2.3. Cần quy định về hạn mức chi trả bảo hiểm tiền gửi và đối tượng tiền gửi được bảo hiểm hợp lý hơn 93 3.2.4. Cần điều chỉnh lại quy định về hạn mức tín dụng của chi nhánh ngân hàng nước ngoài 95 3.2.5. Cần có những xem xét, điều chỉnh hợp lý liên quan đến vấn đề lãi suất cho vay 95 3.2.6. Cần xem xét và sửa đổi lại quy chế tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ 97 Kết luận chương 3 98 KẾT LUẬN 99 TÀI LIỆU THAM KHẢO 100
  7. DANH MỤC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 1.1: Tỷ trọng tổng tài sản của các Ngân hàng thương mại so với toàn hệ thống (%) 30 Bảng 1.2: Thị phần tiền gửi của các NHTM (%) 30
  8. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã trở thành xu thế tất yếu và đang diễn ra ngày càng sâu rộng về nội dung và quy mô trên nhiều lĩnh vực, được bắt đầu từ năm 1986 khi Đại hội Đảng lần thứ VI mở đường cho công cuộc đổi mới nền kinh tế một cách toàn diện. Theo đó, Việt Nam gia nhập khối ASEAN năm 1995, tham gia vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) năm 1996, gia nhập APEC năm 1998, ký Hiệp định Thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ năm 2000 và ký kết nhiều hiệp định thương mại, đầu tư khác. Năm 2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới WTO, là dấu mốc quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, bắt đầu quá trình hội nhập sâu rộng với thị trường quốc tế nói chung và trong lĩnh vực ngân hàng nói riêng. Có thể nói, việc chính thức là thành viên của WTO đem lại cho Việt Nam những cơ hội và cũng đặt ra nhiều thách thức, nhất là trong lĩnh vực ngân hàng, bởi ngân hàng là một trong những lĩnh vực được mở cửa mạnh nhất sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức này. Thực hiện chủ trương khuyến khích và thu hút đầu tư nước ngoài, Ngân hàng nhà nước đã cấp giấy phép hoạt động cho các tổ chức tài chính và ngân hàng của nhiều nước vào Việt Nam để hoạt động. Từ đó, các ngân hàng trong nước được tiếp cận với thị trường tài chính quốc tế, có điều kiện học hỏi, nâng cao trình độ quản trị, điều hành, phát triển các sản phẩm dịch vụ mới, nhất là về các hoạt động nghiệp vụ mà ngân hàng trong nước chưa có hoặc ít có kinh nghiệm cung ứng cho thị trường. Dưới tác động của xu hướng toàn cầu hoá và nhu cầu phát triển nền kinh tế trong điều kiện nền kinh tế thị trường, thực hiện nền kinh tế mở cửa 1
  9. tại Việt Nam, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam đã từng bước được thiết lập và phát triển. Sự xuất hiện của chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam giúp cho hệ thống ngân hàng nước ta trở nên đa dạng và hoàn thiện hơn. Cũng từ đây, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam đã góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại, đẩy nhanh quá trình mở cửa nền kinh tế, đồng thời hoạt động cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng cũng diễn ra mạnh mẽ và sôi động hơn. Các ngân hàng thương mại trong nước sẽ được tiếp cận, học hỏi công nghệ ngân hàng tiên tiến từ nước ngoài, từ đó cải tiến nâng cao kỹ thuật nghiệp vụ ngân hàng, đáp ứng yêu cầu về tiêu chuẩn dịch vụ ngân hàng và kinh doanh tiền tệ. Về mặt pháp lý, chúng ta đã có nhiều cố gắng trong việc hoàn thiện các văn bản pháp luật điều chỉnh về loại hình ngân hàng này, tuy nhiên pháp luật điều chỉnh ngân hàng nước ngoài nói chung và chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở nước ta nói riêng đến nay vẫn chưa thực sự được hoàn thiện. Pháp luật còn khá nhiều bất cập và hạn chế trong các quy định cả về thủ tục cấp phép và về hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, điều này là trở ngại đối với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài khi tham gia vào thị trường nước ta. Vì vậy, việc nghiên cứu một cách sâu sắc và có hệ thống pháp luật về chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam là hết sức cần thiết và vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn. Vì lý do đó, tác giả chọn đề tài “Hoàn thiện pháp luật về chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam”, làm đề tài luận văn thạc sỹ, chuyên ngành Luật kinh tế với mong muốn được tìm hiểu sâu hơn về hệ thống pháp luật điều chỉnh loại hình ngân hàng này; tìm ra những ưu điểm, hạn chế trong các quy định của pháp luật, từ đó đề ra một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật Việt Nam điều chỉnh chi nhánh ngân hàng nước ngoài. 2. Tình hình nghiên cứu Pháp luật về chi nhánh ngân hàng nước ngoài là một đề tài mới, chưa 2
  10. được các nhà khoa học pháp lý quan tâm nghiên cứu nhiều mà chủ yếu được đề cập nghiên cứu dưới góc độ chuyên ngành về kinh tế, ngân hàng. Trong phạm vi và mức độ khác nhau, có khá nhiều công trình nghiên cứu dưới dạng bài viết, sách tham khảo đề cập đến vấn đề chung nhất về các khía cạnh pháp lý của ngân hàng nước ngoài hoặc một vài vấn đề pháp lý cụ thể của ngân hàng nước ngoài, như: “Pháp luật về Ngân hàng thương mại 100% vốn nước ngoài ở Việt Nam” của Nguyễn Thị Thuý- Luận văn thạc sỹ Luật học, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2010; “Pháp luật về Ngân hàng liên doanh ở Việt Nam”của Đồng Thị Nhân- Luận văn thạc sỹ Luật học, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2013; “Hoàn thiện pháp luật về hoạt động của Ngân hàng thương mại trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam” của Ngô Quốc Kỳ, Nxb Tư pháp, năm 2005. Ngoài ra có một số Khoá luận tốt nghiệp đề cập góc độ này hay góc độ khác của ngân hàng nước ngoài, như: “Pháp luật về ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam” của Nguyễn Thuỳ Dương, Khoá luận tốt nghiệp- Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2009; “Địa vị pháp lý của ngân hàng thương mại- nhìn từ góc độ những điểm mới của Luật các tổ chức tín dụng 2010” của Nguyễn Ngọc Mai- Khoá luận tốt nghiệp- Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2011 Những công trình nghiên cứu nói trên, như tên gọi của từng công trình đã phản ánh, chỉ nghiên cứu ở góc độ này hay góc độ khác của ngân hàng thương mại và ngân hàng nước ngoài nói chung, hoặc một số khía cạnh pháp lý của ngân hàng thương mại 100% vốn nước ngoài và ngân hàng liên doanh, mà chưa có một nghiên cứu nào đi sâu vào vấn đề pháp luật điều chỉnh về chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam. Như vậy, theo hiểu biết của cá nhân tác giả cho đến nay, ở nước ta chưa có một công trình nghiên cứu nào đề cập đến vấn đề pháp luật về chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam một cách tương đối hệ thống, chuyên sâu, 3
  11. đặc biệt là các đề tài cấp thạc sỹ trở lên là chưa có. Vì vậy vấn đề này cần được nghiên cứu một cách đầy đủ hoàn thiện và sâu sắc hơn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu trước hết của luận văn là làm rõ những khía cạnh lý luận về chi nhánh ngân hàng nước ngoài; tiếp đến và đây cũng là mục đích chính của luận văn là nghiên cứu thực trạng pháp luật về chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam (gồm: đánh giá những ưu điểm và hạn chế, tồn tại của pháp luật hiện hành trong những quy định pháp luật về cấp phép thành lập, hoạt động; và quy định pháp luật về hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam; từ đó đề ra một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam. Với mục đích đó, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là: - Làm rõ một số vấn đề lý luận về chi nhánh ngân hàng nước ngoài. - Làm rõ thực trạng pháp luật về chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam, cụ thể là chỉ ra những ưu điểm, hạn chế bất cập của pháp luật hiện hành về cấp phép thành lập, hoạt động, thực trạng về hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam - Đề xuất định hướng và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. 4. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận về chi nhánh ngân hàng nước ngoài thông qua việc tìm hiểu khái niệm, đặc điểm và vai trò của chi nhánh ngân hàng nước ngoài, sự hình thành và phát triển của ngân hàng này. Trọng tâm luận văn hướng tới là nghiên cứu thực trạng pháp luật về chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam, cụ thể là giới hạn trong thực trạng những ưu điểm và hạn chế của pháp luật về thủ tục cấp giấy phép thành lập và hoạt động, thực trạng pháp luật về hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. 4
  12. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn dựa trên phương pháp luận của Triết học Mac- Lênin về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Luận văn còn thực hiện dựa trên sự kết hợp giữa phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp logic và lịch sử, phân tích và so sánh, đặc biệt là phương pháp so sánh Luật học về đầu tư trực tiếp nước ngoài ở các quốc gia khác với Việt Nam. 6. Ý nghĩa và điểm mới của luận văn Luận văn đã đưa ra và làm rõ nhiều vấn đề quan trọng về “Pháp luật về chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam” mà trước đó chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách sâu sắc và có hệ thống như vậy. Luận văn đã phân tích từ những vấn đề mang tính lý luận đến những nội dung cụ thể của pháp luật điều chỉnh về vấn đề này, và đưa ra những đề xuất hoàn thiện pháp luật về chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam. Từ những đề xuất đưa ra, luận văn có ý nghĩa góp phần hoàn thiện pháp luật Việt Nam về chi nhánh ngân hàng nước ngoài, giúp cho hệ thống chi nhánh ngân hàng nước ngoài nói riêng và các tổ chức tín dụng nói chung ngày càng phát triển. 7. Bố cục luận văn Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn bao gồm ba chương: Chương 1: Khái quát về chi nhánh ngân hàng nước ngoài Chương 2: Thực trạng pháp luật về chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam Chương 3: Định hướng và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam. 5
  13. Chương 1 KHÁI QUÁT VỀ CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI VÀ PHÁP LUẬT VỀ CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI 1.1. Khái quát về chi nhánh ngân hàng nước ngoài 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của chi nhánh ngân hàng nước ngoài Chi nhánh ngân hàng nước ngoài là khái niệm cần được làm rõ thông qua hai khái niệm hợp thành là “ngân hàng nước ngoài” và “chi nhánh” (ở đây là chi nhánh của pháp nhân). Về khái niệm “ngân hàng”, dường như mỗi quốc gia có cách định nghĩa khác nhau. Thông thường nhất, người ta định nghĩa ngân hàng thông qua chức năng (những phương diện hoạt động chủ yếu, thể hiện dưới dạng các dịch vụ mà chúng cung cấp trong nền kinh tế). “Theo pháp luật Mỹ, bất kì một tổ chức nào cung cấp một tài khoản tiền gửi, cho phép khách hàng rút tiền theo yêu cầu (như bằng cách viết séc hay rút tiền điện tử) và cho vay đối với các tổ chức kinh doanh hay cho vay thương mại, sẽ được xem là một ngân hàng” [70]. Định nghĩa này hoàn toàn dựa trên những chức năng tiêu biểu của ngân hàng là nhận tiền gửi và cấp tín dụng. Một định nghĩa về ngân hàng bao quát hơn có thể tìm thấy tại Điều 1 Luật ngân hàng và hoạt động ngân hàng của Liên Bang Nga năm 1990, theo đó: “Ngân hàng là tổ chức kinh doanh, là một pháp nhân trên cơ sở giấy phép do ngân hàng trung ương Nga cấp, có quyền huy động tiền từ các pháp nhân, cá nhân, và nhân danh mình cho vay số tiền này với điều khoản hoàn trả có lãi, theo thời gian và có thể thực hiện những nghiệp vụ ngân hàng khác”. Theo Peter S.Rose thì cách tiếp cận thận trọng nhất trong định nghĩa về ngân hàng là dựa trên những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch 6
  14. vụ tài chính đa dạng nhất, - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán – và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kì một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế” [70]. Định nghĩa này được đưa ra trong bối cảnh khó có thể phân biệt giữa các công ty tài chính và ngân hàng trên thị trường tiền tệ và tín dụng ở Mỹ. Theo định nghĩa này, những chức năng cơ bản của ngân hàng đa năng ngày nay là: tín dụng, tiết kiệm, thanh toán, bảo lãnh, môi giới, bảo hiểm, quản lý tiền mặt, ủy thác và đầu tư. Ở Việt Nam, Ngân hàng được coi là một tổ chức tín dụng bên cạnh những tổ chức tín dụng khác, tuy nhiên, ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng duy nhất được thực hiện tất cả mọi hoạt động ngân hàng theo quy định của luật các Tổ chức tín dụng. Luật này cũng liệt kê các loại hình hoạt động ngân hàng: nhận tiền gửi; cấp tín dụng; cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản. Như vậy, pháp luật Việt Nam định nghĩa ngân hàng từ góc độ các loại dịch vụ mà loại hình doanh nghiệp này cung cấp trong nền kinh tế. Ngân hàng chính là một tổ chức có tư cách pháp nhân có khả năng thực hiện đầy đủ các hoạt động ngân hàng luật định. “Ngân hàng nước ngoài” là thuật ngữ chỉ một ngân hàng được thành lập và có tư cách pháp nhân theo pháp luật của một nước khác. Về khái niệm “chi nhánh” (branch of legal person), ở đây được hiểu là chi nhánh của pháp nhân. Khái niệm này được hiểu khá thống nhất theo pháp luật các quốc gia khác nhau, là đơn vị phụ thuộc của pháp nhân, có nhiệm vụ thực hiện toàn bộ hoặc một phần chức năng của pháp nhân, kể cả chức năng đại diện theo ủy quyền. Từ ba khái niệm trên, có thể hiểu “chi nhánh của ngân hàng nước ngoài” là thuật ngữ hàm chỉ một đơn vị phụ thuộc của ngân hàng nước ngoài, có nhiệm vụ thực hiện các hoạt động của ngân hàng mẹ như nhận tiền gửi, cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản; thực hiện toàn bộ 7
  15. hoặc một phần chức năng của ngân hàng nước ngoài, và được cấp phép, hoạt động ở một quốc gia khác với quốc gia mà ngân hàng mẹ mang quốc tịch. “Chi nhánh ngân hàng nước ngoài” lần đầu tiên được thừa nhận trong “Pháp lệnh về ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính” của Hội đồng nhà nước năm 1990. Đến năm 1997, “Chi nhánh ngân hàng nước ngoài” lại tiếp tục được thừa nhận trong Luật các tổ chức tín dụng do Quốc hội khoá X ban hành với tư cách là một loại hình tổ chức tín dụng. Tuy vậy, vị trí pháp lý của chủ thể này trong các văn bản pháp luật lại khác nhau qua từng thời kì, phù hợp với nhu cầu và trình độ phát triển của nền tài chính đất nước. Tại Điều 1 Pháp lệnh về ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính 1990 mới chỉ nhận định “Ngân hàng nước ngoài là ngân hàng được thành lập theo pháp luật nước ngoài, chi nhánh ngân hàng nước ngoài là cơ sở của ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam”, Tới Luật các tổ chức tín dụng 1997 cũng chưa định nghĩa cụ thể thế nào là “chi nhánh ngân hàng nước ngoài” mà chỉ định nghĩa về “Tổ chức tín dụng nước ngoài” như sau: “Tổ chức tín dụng nước ngoài là tổ chức tín dụng được thành lập theo pháp luật nước ngoài” (Điều 20). Khi đó, “Chi nhánh ngân hàng nước ngoài” chưa được điều chỉnh như một chủ thể chính trong luật này mà được coi như một chi nhánh của pháp nhân theo pháp luật Việt Nam. Trong trường hợp đáp ứng nhu cầu cần thiết cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước thì nhà nước mới cho phép mở tại Việt Nam chi nhánh của ngân hàng nước ngoài (Điều 12). Như vậy, tại thời điểm đó, nhà nước ta khá thận trọng trong việc cho phép sự hiện diện của các tổ chức tín dụng nước ngoài nói chung và chi nhánh của ngân hàng nước ngoài nói riêng. Đến khi ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng vào năm 2004, tại Điều 12 sửa đổi bổ sung về các loại hình tổ chức tín dụng thì định nghĩa “chi nhánh ngân hàng nước ngoài” vẫn chưa được luật hóa. 8
  16. Sau Hiệp định thương mại Việt - Mỹ được kí kết vào năm 2000 và khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) năm 2006, Quốc hội đã ban hành “Luật Các tổ chức tín dụng” mới vào năm 2010 để các quy định pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và ngân hàng phù hợp với cam kết quốc tế. Theo đó, “Chi nhánh ngân hàng nước ngoài” được coi là một chủ thể chính thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật. Khoản 9 Điều 4 Luật Các tổ chức tín dụng 2010 đã định nghĩa như sau: “Chi nhánh ngân hàng nước ngoài là đơn vị phụ thuộc của ngân hàng nước ngoài, không có tư cách pháp nhân, được ngân hàng nước ngoài bảo đảm chịu trách nhiệm về mọi nghĩa vụ, cam kết của chi nhánh tại Việt Nam” [46]. Trong điều kiện mở cửa, hội nhập trong lĩnh vực ngân hàng, việc đưa chủ thể “Chi nhánh ngân hàng nước ngoài” trở thành chủ thể chính được điều chỉnh bởi luật các tổ chức tín dụng là một tất yếu khách quan, cần thiết và hợp lý. Trong luận văn này, với mục đích nghiên cứu hoàn thiện pháp luật về chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt nam, “Chi nhánh ngân hàng nước ngoài” được hiểu theo quy định tại Luật các tổ chức tín dụng 2010. Chi nhánh ngân hàng nước ngoài có khả năng thực hiện các hoạt động ngân hàng, nhưng lại là chi nhánh, do đó, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mang những đặc điểm của loại hình ngân hàng nói chung và mang những đặc điểm riêng giúp phân biệt với các loại hình ngân hàng khác. Về đặc điểm chung: Với tư cách là một loại hình ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có những đặc điểm chung sau đây: Thứ nhất, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có đối tượng kinh doanh trực tiếp là tiền tệ, có hoạt động kinh doanh chính, thường xuyên và mang tính nghề nghiệp là hoạt động ngân hàng. 9
  17. Đặc điểm này có ý nghĩa quyết định đến cơ chế điều chỉnh của pháp luật đối với việc tổ chức và hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài bởi lẽ tổ chức tín dụng có tác động to lớn đến nền kinh tế với những hoạt động mang tính rủi ro cao. Đối với khái niệm hoạt động ngân hàng thì có thể thấy đó là các hoạt động điển hình là nhận tiền gửi của các cá nhân và các tổ chức, cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán. Ngày nay, các hoạt động của ngân hàng có nhiều nghiệp vụ đa dạng, như nghiệp vụ chiết khấu (mua lại hối phiếu và séc), nghiệp vụ chứng khoán (thu nhận và trích giao chứng khoán phục vụ khách hàng), nghiệp vụ lưu ký (lưu giữ và điều hành chứng khoán phục vụ khách hàng), nghiệp vụ đầu tư, cam kết mua lại những khoản có phải đòi của các khoản tín dụng dài hạn trước khi tới hạn thu hồi vốn, nghiệp vụ bảo đảm (nhận bảo lãnh, bảo đảm và hoạt động bảo đảm khác), nghiệp vụ thanh toán (thực hiện hoạt động thanh toán bù trừ và thanh toán không dùng tiền mặt) [38] Cụ thể hơn, tuỳ thuộc vào phạm vi giấy phép được cấp thì chi nhánh ngân hàng nước ngoài có thể được cung ứng các loại dịch vụ truyền thống sau đây: - Thực hiện trao đổi ngoại tệ: đây là một trong những loại dịch vụ ngân hàng đầu tiên. Sự trao đổi này rất quan trọng đối với du khách vì họ cần phải sử dụng đồng tiền bản xứ nơi du lịch một cách thường xuyên. Ngày nay, việc mua bán ngoại tệ cần nhiều tính kĩ thuật hơn, do đó nó phụ thuộc vào chính sách từng quốc gia, không phải bất cứ ngân hàng nào cũng được thực hiện dịch vụ này, và đề thực hiện thì cũng cần rất nhiều quy định chặt chẽ của pháp luật. - Chiết khấu thương phiếu và cho vay thương mại: bản chất của chiết khấu thương phiếu là cho vay đối với doanh nhân – những người bán các khoản nợ phải thu của khách hàng cho ngân hàng để lấy tiền mặt. Đây là bước chuyển tiếp từ chiết khấu thương phiếu sang cho vay trực tiếp với khách hàng và hiện nay hoạt động cho vay đã trở thành nghiệp vụ ngân hàng phổ biến nhất. 10
  18. - Nhận tiền gửi: nhận tiền gửi là nhu cầu phát sinh từ hoạt động cho vay của ngân hàng. Với lợi nhuận cao từ việc cho vay, các ngân hàng đã huy động nguồn vốn có trong xã hội, nhận tiền gửi và cho vay lại với lãi suất chênh lệnh. - Bảo quản vật có giá: ngay từ thời Trung cổ, các ngân hàng đã bắt đầu thực hiện việc lưu giữ vàng và các giấy tờ có giá khác cho khách hàng trong kho bảo quản. Các giấy chứng nhận lưu giữ tài sản này có thể được lưu hành như tiền. Đó chính là hình thức sơ khai của séc và thẻ tín dụng ngày nay. - Cung cấp các tài khoản giao dịch: cung cấp tài khoản tiền gửi cho khách hàng mang lại nhiều tiện ích. Theo đó, một tài khoản tiền gửi cho phép người gửi tiền viết séc thanh toán cho việc mua hàng hóa, dịch vụ. Công cụ tài khoản tiền gửi này là một bước tiến đáng kể trong dịch vụ thanh toán, làm cho các giao dịch thanh toán trở nên dễ dàng và nhanh chóng, an toàn hơn, đặc biệt với sự trợ giúp của công nghệ thông tin. Ngày nay, các ngân hàng còn thực hiện nhiều dịch vụ khác phải kể đến như: Cho vay tiêu dùng: các khoản vay tiêu dùng thường có giá trị rất nhỏ và độ rủi ro cao. Từ đầu những năm 1920, cho vay tiêu dùng mới xuất hiện ở Mỹ do sự cạnh tranh khốc liệt trong ngành ngân hàng về thị trường tín dụng. Hiện nay, dịch vụ này đang phát triển mạnh mẽ nhờ sự minh bạch trong việc chứng minh thu nhập của người tiêu dùng. Tư vấn tài chính: ngân hàng ngày nay đã cung cấp nhiều dịch vụ tư vấn tài chính đa dạng từ chuẩn bị về thuế và kế hoạch tài chính cho các cá nhân đến tư vấn về các cơ hội thị trường trong nước và ngoài nước cho khách hàng kinh doanh của họ. Tuy nhiên, dịch vụ này hiện mới chỉ bắt đầu ở các nước phát triển, nơi mà thông tin thị trường khá là minh bạch và cơ hội tiếp cận thông tin là tương đối công bằng. Thuê mua thiết bị: dịch vụ này thường được biết đến dưới dạng hợp đồng thuê mua tài chính. Trong hợp đồng này, ngân hàng sẽ cung cấp tiền để 11
  19. một bên thuê mua sử dụng mua một thiết bị và thuê lại, trong khi ngân hàng vẫn giữ quyền sở hữu đối với thiết bị đó. Hợp đồng này đang rất phát triển hiện nay với sự xuất hiện của rất nhiều công ty cho thuê tài chính. Cho vay tài trợ dự án: việc thực hiện các dự án đặc biệt là xây dựng các nhà máy mới trong các ngành công nghệ cao cần lượng vốn rất lớn. Nắm bắt được cơ hội đó, các ngân hàng tỏ ra rất năng động trong việc cho vay để thực hiện các dự án này. Thông thường, việc cho vay phải thực hiện qua một công ty đầu tư hoặc công ty quản lý quỹ đầu tư do tính chất phức tạp của việc thẩm định dự án. Số lượng các dịch vụ ngân hàng rất đa dạng và không ngừng phát triển. Tựu chung lại, luôn xoay quanh đối tượng là tiền tệ, dòng vốn của thị trường. Nói cách khác, ngân hàng luôn cung ứng những dịch vụ giúp đồng tiền luân chuyển dễ dàng hơn. Đặc điểm này cho phép phân biệt chi nhánh ngân hàng nước ngoài nói riêng, ngân hàng nói chung đối với các thực thể khác kinh doanh trong những lĩnh vực khác, và phân biệt với các loại hình doanh nghiệp có hoạt động ngân hàng không thường xuyên như các công ty bảo hiểm, công ty tài chính, quỹ hỗ trợ đầu tư Thứ hai, chi nhánh ngân hàng nước ngoài là một định chế tài chính trung gian: Tính chất trung gian của chi nhánh ngân hàng nước ngoài được thể hiện dưới hai khía cạnh: là trung gian giữa Ngân hàng Nhà nước và nền kinh tế, và trung gian giữa người đi vay và người cho vay. Trung gian giữa Ngân hàng Nhà nước và nền kinh tế: Với mô hình ngân hàng hai cấp, thì chi nhánh ngân hàng nước ngoài cũng là một loại ngân hàng trung gian chứ không phải là ngân hàng phát hành tiền (Ngân hàng Trung ương). Để điều tiết chính sách tiền tệ, điều tiết nền kinh tế, Ngân hàng 12
  20. nhà nước thường sử dụng các công cụ áp dụng trực tiếp lên các ngân hàng trung gian như tái cấp vốn, lãi suất, dự trữ bắt buộc, chứ không phải áp dụng trực tiếp lên các chủ thể khác. Trung gian giữa người đi vay và người cho vay: Các tổ chức tín dụng là chủ thể thực hiện khâu trung gian trong quá trình luân chuyển nguồn vốn của xã hội. Khi thực hiện nghiệp vụ huy động vốn, ngân hàng thu hút chủ thể dư thừa vốn gửi tiền, và sau đó ngân hàng thực hiện nghiệp vụ tín dụng nhằm cấp vốn cho những chủ thể thiếu vốn. Như vậy, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cũng như các loại hình ngân hàng khác đều là tổ chức trung gian quan trọng thực hiện điều chuyển nguồn vốn từ chủ thể dư thừa vốn sang chủ thể thiếu vốn, đảm bảo tiền tệ được lưu thông một cách ổn định và hài hoà. Tất cả các dịch vụ này đều là dịch vụ có bồi hoàn và dựa trên lãi suất quy định. “Chức năng này của ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc điều hòa lưu thông tiền tệ, ổn định sức mua của đồng tiền, kiềm chế lạm phát” [63]. Thứ ba, chi nhánh ngân hàng nước ngoài là tổ chức tín dụng chịu sự điều chỉnh của pháp luật ngân hàng và các quy định của pháp luật liên quan, đồng thời chịu sự quản lý nhà nước trực tiếp từ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Với vai trò quan trọng và ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế, pháp luật về ngân hàng được xây dựng phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Từ những năm 90 của thế kỉ trước, nước ta đã bắt đầu xuất hiện những văn bản đầu tiên điều chỉnh hoạt động ngân hàng, cho đến thời điểm này, Luật các tổ chức tín dụng và các văn bản hướng dẫn thi hành là luật khung cho hoạt động, tổ chức của các ngân hàng nói chung, chi nhánh ngân hàng nước ngoài nói riêng. Và Ngân hàng trung ương cũng là cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng và các tổ chức khác có hoạt động ngân hàng. Nội dung quản lý nhà nước của Ngân hàng nhà nước Việt Nam đối với 13
  21. các tổ chức tín dụng bao quát các vấn đề từ thành lập, tái cơ cấu, giải thể, đến hoạt động thường xuyên. Để đáp ứng những công việc đó, Ngân hàng nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh, thanh tra, kiểm tra thường xuyên đối với hoạt động của các tổ chức tín dụng. Như vậy, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cũng như các tổ chức tín dụng khác, chịu sự điều chỉnh trực tiếp của pháp luật ngân hàng, chịu sự điều chỉnh gián tiếp của Luật Doanh nghiệp và chịu sự quản lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Bên cạnh đó, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cũng như các loại hình ngân hàng nước ngoài khác, như ngân hàng thương mại 100% vốn nước ngoài và ngân hàng liên doanh, còn chịu sự điều chỉnh của Luật Đầu tư. Chi nhánh ngân hàng nước ngoài là một trong những hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài, theo quy định tại Điều 21 Luật Đầu tư 2005, các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài gồm có: 1. Thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư trong nước hoặc 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài. 2. Thành lập tổ chức kinh tế liên doanh giữa các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. 3. Đầu tư theo hình thức hợp đồng BCC, hợp đồng BOT, hợp đồng BTO, hợp đồng BT. 4. Đầu tư phát triển kinh doanh. 5. Mua cổ phần hoặc góp vốn để tham gia quản lý hoạt động đầu tư. 6. Đầu tư thực hiện việc sáp nhập và mua lại doanh nghiệp. 7. Các hình thức đầu tư trực tiếp khác. Tại Điều 22 Luật Đầu tư về đầu tư thành lập tổ chức kinh tế quy định, nhà đầu tư được thành lập: tổ chức tín dụng, doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm, quỹ đầu tư và các tổ chức tài chính khác theo quy định của pháp luật. Như vậy, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài cũng thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật đầu tư. 14