Luận văn Hoãn thi hành án hình sự theo pháp luật Việt Nam

pdf 89 trang vuhoa 24/08/2022 9820
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Hoãn thi hành án hình sự theo pháp luật Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_hoan_thi_hanh_an_hinh_su_theo_phap_luat_viet_nam.pdf

Nội dung text: Luận văn Hoãn thi hành án hình sự theo pháp luật Việt Nam

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THU HIỀN HOÃN THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 60.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. Võ Khánh Vinh HÀ NỘI, 2016 HÀ NỘI - năm
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu cửa riêng tôi. Các số liệu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khó học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác. Tác giả Nguyễn Thu Hiền
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOÃN THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ .7 1.1. Khái niệm về thi hành án hình sự 7 1.2. Khái niệm, đặc điểm hoãn thi hành án hình sự 9 1.3. Vai trò, ý nghĩa của hoãn thi hành án hình sự 14 1.4. So sánh hoãn thi hành án hình sự và tạm đình chỉ thi hành án hình sự 15 1.5. Lịch sử hình thành và phát triển chế định hoãn thi hành án hình sự ở Việt Nam 17 1.6. Kinh nghiệm quốc tế trong việc quy định hoãn thi hành án hình sự của một số nước trên thế giới 21 CHƯƠNG 2: CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ HOÃN THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM 29 2.1. Các quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về hoãn thi hành các hình phạt không phải hình phạt tù 29 2.2.Các quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về hoãn thi hành hình phạt tù 36 2.3. Các quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về hoãn thi hành các biện pháp tư pháp hình sự 58 CHƯƠNG 3: HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ HOÃN THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ 66 3.1. Nhu cầu, quan điểm hoàn thiện các quy định pháp luật về hoãn thi hành án hình sự 66 3.2. Các giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về hoãn THAHS 70 3.3. Các giải pháp khác 75 KẾT LUẬN 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 81
  4. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BA, QĐ Bản án, Quyết định BLHS Bộ luật Hình sự BLTTHS Bộ luật Tố tụng Hình sự CHXHCNVN Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam HTHAHS Hoãn thi hành án hình sự TAND Tòa án nhân dân THAHS Thi hành án Hình sự VKSND Viện Kiểm sát nhân dân
  5. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ đều nỗ lực hết mình nhằm đưa nền kinh tế lên một tầm cao mới, Việt Nam cũng không ngoại lệ, nước ta đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa nhờ đó đạt được những thành tựu rất to lớn làm thay đổi bộ mặt xã hội trên mọi phương diện trong đó có cả pháp luật. Bên cạnh những mặt tích cực, chúng ta vẫn phải thừa nhận một việc đó là kinh tế càng phát triển, xã hội lại càng xảy ra nhiều vấn đề bức xúc, tình hình tội phạm gia tăng. Nhằm giảm bớt, dần dần xóa bỏ tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật, Nhà nước ta bên việc xử lý nghiêm khắc bằng các hình phạt dành cho tội phạm hay người có hành vi vi phạm pháp luật, pháp luật nước ta còn kết hợp với những chế độ tha miễn như: hoãn thi hành án, tạm đình chỉ thi hành án, miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt, . Nhận thấy, trên thực tế thấy việc thực hiện tốt việc hoãn thi hành án hình sự không chỉ làm cho pháp luật hình sự mềm mại hơn, nhân đạo hơn, bảo vệ quyền con người tốt hơn, mà hoãn thi hành án hình sự còn là một biện pháp tốt để giảm bớt gánh nặng cho nhà nước thông qua việc giảm bớt những chi phí đưa người bị kết án đi thi hành án đến việc những người bị kết án đó khi ở ngoài xã hội họ vẫn có thể có những đóng góp cho xã hội. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng quy định về hoãn thi hành án hình sự vẫn còn xuất hiện khó khăn vướng mắc cần xem xét và giải quyết dứt điểm như một số đối tượng không thuộc diện được hoãn thi hành án nhưng vẫn được hoãn hay những trường hợp nên được hoãn thi hành án nhưng quy định của pháp luật lại không đưa họ vào những trường hợp có thể được hoãn do đó không có căn cứ để xét hoãn cho họ; hay khó khăn vướng mắc do thủ tục xem xét hoãn thi hành án. Do đó, cần có bổ sung, điều chỉnh căn cứ pháp lý cụ thể để các cơ quan có thẩm quyền thực thi một cách đồng bộ, thống nhất đảm bảo tính nhân đạo nhưng cũng không ảnh hưởng đến tính pháp chế và sự công bằng của mọi công dân khi áp dụng chế định hoãn thi hành án hình sự. Với mục đích như vậy, cần quy định hệ thống quy phạm cụ thể về hoãn THAHS với từng điều kiện trong từng trường hợp và đảm bảo tính tương thích với pháp luật quốc tế về lĩnh vực bảo vệ quyền con người. Để hiểu hơn về chế định này và có những kiến nghị nhằm hoàn thiện, cần thấy phải nghiên cứu quy định của pháp luật để đối chiều thực tiễn áp dụng để từ đó nhận xét ưu 1
  6. nhược điểm để đưa ra phương hướng hoàn thiện các chế định trên nói riêng cũng như pháp luật hình sự nói chung. Chính vì nhận thức được vai trò quan trọng của chế định hoãn thi hành án hình sự theo pháp luật Việt Nam nên tác giả chọn đề tài “Hoãn thi hành án hình sự theo pháp luật Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sỹ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Chế định hoãn thi hành án hình sự là một trong những chế định quan trọng của BLHS, BLTTHS, Luật THAHS có liên quan mật thiết, chặt chẽ đến chế định hình phạt và nhiều chế định khác theo pháp luật hình sự. Tuy nhiên, vấn đề hoãn thi hành án hình sự mới chỉ được quy định một cách chung chung và tại một số điều luật riêng lẻ trong BLHS, BLTTHS, Luật THAHS mà chưa được ghi nhận tại một chương riêng như các chế định khác. Chế định hoãn thi hành án hình sự được đề cập, phân tích trong một số giáo trình và sách tham khảo như: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), tập thể tác giả do GS.TS.Võ Khánh Vinh chủ biên, Đại học Huế, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2000; Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, tập I, tập thể tác giả do GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2007; Sách chuyên khảo “Pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam, những vấn đề lý luận và thực tiễn” chủ biên GS.TS Võ Khánh Vinh và PGS.TS Nguyễn Mạnh Kháng, Nxb Tư pháp, 2006; Đồng thời, những năm gần đây đã có khá nhiều công trình nghiên cứu khoa học khác có liên quan đến hoãn thi hành án hình sự. Cụ thể: Về những nội dung bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực hình sự như: Luận án tiến sĩ luật học “Bảo vệ quyền con người trong trong tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Quan Hiền, năm 2009; Luận án tiến sĩ Luật học “Thực hiện pháp luật về quyền con người của phạm nhân” của Nguyễn Đức Phúc, năm 2013; Luận văn thạc sỹ Luật học “Bảo vệ quyền con người bằng các quy phạm về các biện pháp tha miễn trong pháp luật hình sự” của Phùng Thanh Mai, năm 2014; bài viết “Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật tố tụng hình sự” của tác giả Nguyễn Ngọc Chí, Tạp chí Khoa học (Kinh tế - Luật), số 23, 2007. Đây là những công trình nghiên cứu vấn đề về quyền con người được thể hiện trong các quy phạm pháp luật trong tố tụng hình sự và hoạt động tư pháp của Việt Nam, mới chỉ ra điều đã làm được, chưa làm được của Việt Nam trong việc bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực trên. Đồng thời các tác giả đã đưa ra những 2
  7. kiến nghị nhằm bảo vệ tốt hơn nữa quyền con người trong những hoạt động này. Trong đó vai trò của chế định hoãn thi hành án cũng đã phần nào được nói tới. Dưới góc độ khoa học pháp lý, hiện nay đã có một số công trình khoa học nghiên cứu liên quan đến chế định tha miễn hình phạt nhưng chủ yếu về miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt. Tuy nhiên, đối với đề tài hoãn thi hành án hình sự thì trên thực tế chưa có nhiều công trình nghiên cứu, mới chỉ có Luận văn thạc sỹ luật học “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hoãn thi hành án trong luật thi hành án hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Văn Sơn, năm 2014 còn hầu hết chủ yếu chỉ là những bài viết chuyên ngành trên tạp chí như bài viết “Một số ý kiến về điều kiện hoãn (tạm đình chỉ) thi hành án phạt tù trong trường hợp người bị kết án bị bệnh nặng” của tác giả Vũ Văn Tiếu trên tạp chí Tòa án nhân dân tháng 3/2006, hay kết luận của Hội nghị giao ban tháng 12/2010 của Ngành Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, tham luận của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh về thực trạng công tác thi hành án hình sự và những kiến nghị đề xuất năm 2011. Bên cạnh đó, có một số công trình trên báo như bài “Một số vấn đề về thi hành án hình sự của Tòa án” của tác giả Nguyễn Quang Lộc, trên báo Điện tử pháp luật Việt Nam năm 2009 hay bài “Kẽ hở lớn trong vụ tạm hoãn thi hành án và đặc xá ở Hải Dương” đăng trên báo Pháp luật Việt Nam năm 2011. Nhìn chung, hiện đã có một số công trình nghiên cứu liên quan đến những khía cạnh của chế định hoãn THAHS, nhưng chưa có bất kỳ công trình nào nghiên cứu một cách cơ bản và hệ thống về chế định hoãn thi hành án hình sự. Đặc biệt là tính tương thích của pháp luật về hoãn THAHS ở Việt Nam đối với pháp luật quốc tế về quyền con người. Trước yêu cầu đổi mới xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhu cầu hội nhập quốc tế có thể nói việc nghiên cứu đề tài này sẽ đóng góp một cách thiết thực vào việc hoàn thiện chế định hoãn THAHS nói riêng và hệ thống quy phạm pháp luật thi hành án hình sự nói chung. Đây cũng là công trình đầu tiên tại Học viện về hoãn thi hành án hình sự theo pháp luật Việt Nam. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc áp dụng các quy định về hoãn thi hành án hình sự, luận văn đưa ra các giải pháp góp phần hoàn thiện chế định hoãn thi hành án của Việt Nam 3
  8. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được những mục đích nghiên cứu của đề tài, cần thực hiện nhiệm vụ: - Phân tích nội dung, điều kiện áp dụng trường hợp hoãn thi hành án hình sự theo quy định của BLHS năm 1999 (được sửa đổi bổ sung năm 2009), Bộ luật hình sự năm 2015; Bộ luật tố tụng hình sự 2003; Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Luật Thi hành án hình sự, - Nghiên cứu kinh nghiệm một số nước; nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định về hoãn thi hành án của các cơ quan có thẩm quyền. Từ đây phân tích một số vướng mắc trong việc quy định và áp dụng các quy phạm pháp luật. - Luận chứng cho sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định pháp luật về hoãn thi hành án hình sự; định hướng cơ bản của việc hoàn thiện và từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện chế định hoãn thi hành án hình sự. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu - Những vấn đề lý luận về hoãn thi hành án hình sự được quy định trong pháp luật Việt Nam: khái niệm, bản chất pháp lý của hoãn thi hành án hình sự; lịch sử hình thành và phát triển của các quy phạm về chế định hoãn thi hành án hình sự. - Các quy định về hoãn thi hành án hình sự được quy định trong pháp luật Việt Nam và ở một số nước trên thế giới. - Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về hoãn thi hành án hình sự. Ngoài ra, trên cơ sở nghiên cứu nội dung cở bản của chế định hoãn thi hành án hình sự, tác giả luận văn đi sâu nghiên cứu chế định hoãn thi hành án hình sự trên phương diện lập pháp và việc áp dụng chế định này trong thực tiễn, đưa ra các giải pháp hoàn thiện các quy phạm của chế định này. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài nghiên cứu trong phạm vi những chế định về hoãn thi hành án hình sự theo pháp luật Việt Nam, kinh nghiệm một số nước và thực tiễn áp dụng, những kiến nghị đối với các vấn đề này. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận nghiên cứu Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, về xây dựng Nhà nước và pháp luật, đấu tranh phòng, chống tội phạm; quan điểm của 4
  9. Đảng và Nhà nước về đấu tranh chống tội phạm cũng như thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý như lịch sử pháp luật, xã hội học pháp luật, luật hình sự, tội phạm học, luật tố tụng hình sự, những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên tạp chí của một số nhà khoa học pháp lý chuyên ngành. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện mục đích nghiên cứu, luận văn sử dụng một số phương pháp tiếp cận để làm sáng tỏ về mặt khoa học từng vấn đề tương ứng, đó là phương pháp nghiên cứu như: lịch sử so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê, quy nạp, diễn dịch 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Đây là một công trình vừa có ý nghĩa về mặt lý luận, vừa có ý nghĩa về mặt thực tiễn trong việc nghiên cứu và thực thi các chế định về hoãn thi hành án hình sự. Để từ đó có những kiến nghị sửa đổi nhằm hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật về hoãn thi hành án hình sự ở nước ta. 6.1. Ý nghĩa lý luận của luận văn Luận văn là một công trình nghiên cứu chuyên khảo khá đồng bộ đề cập một cách có hệ thống và tương đối toàn diện về hoãn thi hành án hình sự theo pháp luật Việt Nam trên cơ sở thực tiễn áp dụng trong những năm qua tại Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện hơn về chế định hoãn thi hành án hình sự. Cụ thể, luận văn đã làm rõ các vấn đề chung về hoãn thi hành án; phân tích khái quát lịch sử hình thành và phát triển của chế định này trong pháp luật của nước ta; làm sáng tỏ các quy định mới của BLHS và BLTTHS 2015 so với Bộ luật hình sự năm 1999, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và các văn bản quy phạm pháp luật khác về hoãn thi hành án hình sự. Đồng thời luận văn cũng nghiên cứu các quy định về hoãn thi hành án của một số quốc gia. Qua đó chỉ ra những ưu điểm và cả những tồn tại, hạn chế trong những quy định của pháp luật về hoãn thi hành án hình sự và quá trình thực thi những quy định này; trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về hoãn thi hành án hình sự và nâng cao hiệu quả của những chế định trên. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn Luận văn góp phần vào việc chuẩn hóa các thủ tục xem xét đề nghị và quyết định hoãn thi hành án hình sự cũng như đưa ra các kiến nghị hoàn thiện các quy phạm 5
  10. pháp luật ở khía cạnh lập pháp và thực tiễn áp dụng. Những phương hướng, giải pháp luận văn đưa ra có tính chất định hướng cho hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền trong quá trình giải quyết việc hoãn thi hành án. Cùng với đó, luận văn còn có ý nghĩa là tài liệu tham khảo cần thiết cho các nhà khoa học pháp lý, cán bộ thực tiễn đang công tác tại các cơ quan bảo vệ pháp luật, các sinh viên và học viên cao học. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận kết cấu gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về hoãn thi hành án hình sự Chương 2: Các quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về hoãn thi hành án hình sự ở Việt Nam Chương 3: Hoàn thiện các quy định pháp luật về hoãn thi hành án hình sự 6
  11. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOÃN THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm về thi hành án hình sự Để bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định hình sự của Toà án, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tập thể, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, nhiều quy phạm pháp luật đã ra đời để điều chỉnh các mối quan hệ nêu trên, trong đó có pháp luật thi hành án. Thi hành án được hiểu là việc đưa các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để thi hành trên thực tế; buộc người bị kết án phải thực thi bản án đó. Thực tế, hoạt động THAHS ở nước ta trải qua các thời kỳ lịch sử, vì vậy quan niệm về bản chất của THAHS nhiều nhà khoa học nghiên cứu có những quan điểm khác nhau, phù hợp với yêu cầu từng thời kỳ. Cho đến nay vẫn chưa có một khái niệm rõ ràng về thi hành án hình sự, các quan điểm mới chỉ nêu ra ở dạng quan điểm, đại ý khái quát. Cụ thể: Quan điểm thứ nhất cho rằng: Thi hành án hình sự là hoạt động tư pháp, là một giai đoạn của quá trình tố tụng Trong hoạt động tố tụng hình sự, thi hành án là giai đoạn cuối cùng của quá trình giải quyết một vụ án, có mối quan hệ hữu cơ với giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Một vụ án chỉ có thể được coi là được giải quyết xong khi phán quyết của Tòa án được thi hành xong trong thực tế. Như vậy, thi hành án hình sự được coi là giai đoạn cuối cùng trong quá trình tố tụng, là sự tiếp nối để thực hiện bản án, quyết định của tòa án, hoạt động này diễn ra ngay sau quá trình xét xử, được quy định trong luật TTHS . Những người theo quan điểm này cho rằng, bản án, quyết định của Tòa án, kết quả của giai đoạn xét xử là cơ sở, căn cứ để tiến hành hoạt động thi hành án hình sự. Thi hành án hình sự dường như là sự tiếp tục của giai đoạn xét xử và chịu sự chi phối của cơ quan tố tụng, đặc biệt là tòa án. Quyết định thi hành hình phạt, xóa án tích là do Chánh án Tòa án nhân dân ra quyết định, thủ tục ở các khâu quan trọng trong thi hành án hình sự đều do cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện. Việc thi hành các bản án đều được tiến hành dựa trên các nguyên tắc cơ bản của pháp luật tố tụng, thậm chí được quy định trong luật tố tụng [74, tr 11]. Quan điểm thứ hai cho rằng: Thi hành án hình sự là việc cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật buộc người chấp hành án phải tuân thủ, chấp 7
  12. hành hình phạt, biện pháp mà Tòa án đã tuyên đối với họ tại phiên tòa, phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm mà họ gây ra [39, tr 8]. Tác giả nhận thấy quan điểm này phần nào nêu lên được bản chất của thi hành án hình sự nhưng chưa chỉ ra tính chất của hoạt động thi hành án này. Bởi lẽ, theo hiến pháp nước ta đã khẳng định các bản án quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, và mọi công dân tôn trọng và đơn vị hữu quan phải chấp hành nghiêm chỉnh. Vậy, thi hành án hình sự chính là thực hiện các phán quyết của Tòa án. Quan điểm thứ ba cho rằng: Thi hành án hình sự là một hoạt động hành chính- tư pháp [74, tr 13]; vừa mang tính chất của hoạt động hành chính, vừa có những yếu tố của hoạt động tư pháp, vấn đề này, được thể hiện bởi đặc điểm sau: Thứ nhất, thi hành án hình sự thực chất là hoạt động mang tính điều hành và chấp hành - đặc trưng của quản lý hành chính. Tuy nhiên, đây là hoạt động điều hành và chấp hành để thực hiện bản án, quyết định của Tòa án, tức là một nội dung có tính chất tư pháp. Do vậy, khó có thể nói thi hành án là giai đoạn của tố tụng. Thứ hai, với tính chất là một hoạt động chấp hành, dù căn cứ để THAHS là các bản án và quyết định của Tòa án, nhưng quá trình THAHS được thực hiện với hoạt động, biện pháp, cách thức không mang tính tố tụng, nghĩa là không thuần túy là luật hình thức, mà có thể thấy sự kết hợp giữa luật nội dung với luật hình thức. Thứ ba, trong quá trình thi hành, các cơ quan thi hành án tác động trực tiếp tới đối tượng phải thi hành án để họ tự giác thi hành hoặc áp dụng các biện pháp buộc họ phải thi hành nghĩa vụ được xác định trong bản án, quyết định của Tòa án; giáo dục họ ý thức tôn trọng pháp luật, lợi ích của cá nhân, của Nhà nước và xã hội, giáo dục họ trở thành người công dân có ích với xã hội. Phương pháp ở đây là thuyết phục giáo dục và mệnh lệnh hành chính. Thứ tư, việc thi hành các hình phạt không phải hình phạt tù như cải tạo không giam giữ, người bị phạt tù nhưng cho hưởng án treo được giao cho cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương; hình phạt tiền, trục xuất; các hình phạt bổ sung, các biện pháp tư pháp hình sự được thực hiện theo thủ tục hành chính. Như vậy, có thể nói trong quá trình THAHS, pháp luật được áp dụng không chỉ là pháp luật tố tụng mà cả quy định pháp luật hành chính - tư pháp. 8
  13. Thứ năm, THAHS trước hết là hoạt động của cơ quan nhà nước, tuy nhiên cùng với sự phát triển của xã hội, quá trình xã hội hóa hoạt động THAHS cũng đang được tiến hành với nhiều triển vọng khả quan. Đây là điểm khác biệt so với hoạt động tố tụng, hoàn toàn mang tính quyền lực tư pháp chặt chẽ. Có thể thể thấy THAHS tuy có quan hệ chặt chẽ với các giai đoạn tố tụng trước đó nhưng vẫn là một hoạt động có tính chất đặc thù, có mục đích riêng biệt. Nếu tất cả các hoạt động tố tụng đều nhằm đạt đến một phán quyết đúng đắn của Tòa án, thì thi hành án lại nhằm thực hiện các nội dung trong phán quyết của Tòa án. Mọi hoạt động tố tụng hình sự đều dừng lại ở việc phán quyết của Tòa án, trong khi đó, thi hành án lại được triển khai bắt đầu từ phán quyết của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Qua đó thể hiện tố tụng hình sự là tiền đề, khởi đầu của thi hành án hình sự ngược lại thi hành án hình sự là thực hiện kết quả tố tụng trong thực tế. Từ những phân tích trên, tác giả đồng tình với quan điểm thứ ba, theo đó, tác giả cho rằng thi hành án hình sự được hiểu là hoạt động hành chính - tư pháp, do các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật buộc người bị kết án phải tuân thủ, chấp hành hình phạt, biện pháp theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án. 1.2. Khái niệm, đặc điểm hoãn thi hành án hình sự 1.2.1. Khái niệm hoãn thi hành án hình sự Về nguyên tắc, khi bản án có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan Nhà nước, tổ chức, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng, người bị kết án phải chấp hành nghiêm chỉnh. Đây là một nguyên tắc đã được ghi nhận trong Hiến pháp, điều này thể hiện tầm quan trọng của vấn đề thi hành án nói chung và thi hành hình sự nói riêng. Tuy nhiên vì những lý do đặc biệt thuộc về nhân thân người bị kết án, hoàn cảnh, điều kiện gia đình hoặc nhu cầu công vụ nên người bị kết án phạt tù chưa thể đi thi hành án ngay được và người bị kết án có thể được hoãn thi hành án. Vậy hoãn thi hành án hình sự là gì? Trước hết, để hiểu khái niệm hoãn THAHS, cần phân tích, làm rõ các khái niệm " hoãn", “thi hành án hình sự” từ góc độ Luật hình sự, và các quan điểm, khái niệm khoa học liên quan đến hoãn chấp hành hình phạt tù trên cơ sở đó, phân tích, đưa ra những đặc trưng thuộc về nội hàm khái niệm của chế định hoãn THAHS. 9
  14. Theo Từ điển Tiếng Việt, "hoãn" có nghĩa là "chuyển thời điểm định làm việc gì đó sang thời điểm khác muộn hơn" [24, tr. 550]. Dưới góc độ luật hình sự thì "hoãn" là tạm dừng, chuyển thời điểm chấp hành bản án quyết định của Tòa án sang thời điểm muộn hơn, có nghĩa là người bị kết án chưa phải chấp hành một quyết định nào đó của cơ quan có thẩm quyền mà lẽ ra mình phải bị chấp hành. Qua phân tích trên thì thi hành án hình sự là hoạt động hành chính - tư pháp, do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, đồng thời, buộc họ phải thực hiện nghĩa vụ của mình theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Do đó, người bị kết án có thể bị Tòa án tuyên bị án thực hiện các biện pháp khác nhau như hình phạt tù, tử hình, cảnh cáo, cải tạo không giam giữ, trục xuất, biện pháp tư pháp, Dưới góc độ khoa học luật hình sự, các nhà khoa học cũng đã đưa ra nhiều quan điểm khác nhau về hoãn chấp hành hình phạt như: Quan điểm của TSKH.PGS. Lê Cảm “Hoãn chấp hành hình phạt tù là việc tạm dừng lại trong một thời hạn nhất định việc chấp hành hình phạt tù của người bị kết án nếu người này chưa chấp hành hình phạt tù đó”[4]. Đây có thể được coi là khái niệm gần như hoàn chỉnh bởi đã nêu bật được những đặc điểm cơ bản của hoãn thi hành án phạt tù để từ đó có căn cứ phân biệt hoãn thi hành án phạt tù với những biện pháp tha miễn khác. Từ đó có thể thấy, bản chất pháp lý của hoãn chấp hành hình phạt tù là một chế định nhân đạo của luật hình sự Việt Nam, thể hiện ở chỗ - Tòa án quyết định tạm dừng lại việc chấp hành hình phạt tù đã được tuyên trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật đối với người bị kết án (nhưng chưa chấp hành hình phạt đó) trong một thời gian nhất định khi có đầy đủ căn cứ và những điều kiện do pháp luật hình sự quy định [4, tr. 795]. Theo quan điểm của GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa thì: "Hoãn chấp hành hình phạt tù là việc chuyển thi hành hình phạt tù sang thời điểm muộn hơn" [60, tr. 313]. Hay quan điểm của TS.Trịnh Tiến Việt: Hoãn chấp hành hình phạt tù là việc Tòa án cho phép người bị kết án chuyển việc thi hành án phạt tù sang thời điểm muộn hơn. Nói một cách khác, đó là việc cho phép người bị kết án tiếp tục sống và làm việc ngoài xã hội, chưa buộc người này phải vào trại giam để chấp hành hình phạt tù [69, tr. 435]. 10
  15. Tuy nhiên, với một số hình phạt khác như hình phạt tử hình hay các biện pháp tư pháp như đưa vào trường giáo dưỡng, thì chưa có định nghĩa hoãn cụ thể. Qua nghiên cứu Điều 58, Điều 125 Luật Thi hành án hình sự năm 2014 thấy rằng việc hoãn thi hành án tử hình và hoãn chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, và thực tiễn thi hành, có thể thấy rằng khi thỏa mãn điều kiện theo quy định của pháp luật thì việc hoãn thi hành án vẫn được đặt ra. Th.s Nguyễn Văn Sơn cũng đã đưa ra quan điểm: hoãn thi hành án hình sự là việc cơ quan có thẩm quyền ra quyết định tạm dừng trong môt thời hạn nhất định việc thi hành án của người bị kết án nếu người bị kết án này chưa thi hành hình phạt đó và thỏa mãn những điều kiện theo luật định [38, tr13]. Từ việc nghiên cứu, phân tích khái niệm về hoãn, thi hành án hình sự và sự tiếp thu các quan điểm phân tích trên, tác giả đưa ra một khái niệm về hoãn thi hành án hình sự như sau. “Hoãn thi hành án hình sự là việc người bị kết án được cơ quan có thẩm quyền căn cứ vào điều kiện mà pháp luật quy định ra quyết định tạm dừng thi hành án tại thời điểm khi bản án, quyết định có hiệu lực trong một thời hạn nhất định, chuyển thời điểm thi hành bản án, quyết định của Tòa án sang thời điểm muộn hơn nếu người này chưa thi hành bản án, quyết định đó.” 1.2.2. Đặc điểm hoãn thi hành án hình sự Từ khái niệm khoa học về hoãn thi hành án trên, có thể khẳng định bản chất pháp lý của hoãn thi hành án hình sự là một chế định nhân đạo của pháp luật hình sự Việt Nam và được thể hiện ở chỗ Tòa án vẫn quyết định hình phạt nhất định trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật đối với người bị coi là có tội trong việc thực hiện tội phạm nhưng không buộc người này phải chấp hành ngay hình phạt ấy khi có đầy đủ điều kiện được pháp luật quy định. Qua đó, thể hiện đặc điểm sau: Thứ nhất: Phản ánh nguyên tắc nhân đạo của chính sách hình sự nói chung của BLHS, BLTTHS, cũng như Luật THAHS Việt Nam nói riêng; là chế định nằm trong nhóm những quy phạm bảo vệ quyền con người Điều này thể hiện, pháp luật đã quy định điều kiện nhất định mà họ không phải chấp hành hình phạt ngay. Điển hình, trường hợp bị bệnh nặng khi bắt họ đi thi hành án thì ảnh hưởng đến tính mạng của họ mà không đạt được mục đích trừng phạt đặt ra hay trường hợp người mẹ đang mang thai hoặc nuôi con nhỏ khi đi thi hành án thì sẽ ảnh hưởng đến sự chăm sóc đối với trẻ em, .Vì vậy, pháp luật đã tạo điều kiện cho 11
  16. họ chưa phải thi hành hình phạt ngay mà tạm dừng đến khi đủ điều kiện sức khỏe hoặc không còn ảnh hưởng đến việc thi hành án.Việc quy định như vậy thể hiện chính sách nhân đạo của nhà nước, tạo niềm tin cho người dân đối với pháp luật và nhà nước, nâng cao mục đích của hình phạt và đặc biệt pháp luật đã bảo vệ quyền được sống của con người, quyền trẻ em và quyền của phụ nữ. Thứ hai: Đối tượng hoãn thi hành án hình sự Trước hết, đối tượng hoãn thi hành án hình sự phải thuộc đối tượng của thi hành án hình sự, ngoài ra, đối tượng hoãn THAHS có đặc điểm riêng là người bị kết án có thể thỏa mãn một số trường hợp như: người bị kết án đó phải chấp hành những hình phạt nhất định mà cụ thể có thể là hình phạt tù, tử hình, trục xuất, tước một số quyền công dân, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định và biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng; người bị kết án đó đáp ứng điều kiện theo quy định như đang mang thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng, đang mắc bệnh nặng, là lao động duy nhất trong gia đình, đang thực hiện một công vụ hay trường hợp thỏa mãn điều 58 Luật thi hành án hình sự 2014. Theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam 1999 thì đối tượng hoãn thi hành án hình sự chỉ là cá nhân, không có tổ chức: đặc điểm này xuất phát từ chủ thể chịu trách nhiệm hình sự quy định tại BLHS 1999 chỉ là cá nhân. Tuy nhiên, khi BLHS năm 2015 được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 27/11/2015 (chưa có hiệu lực) đã quy định trách nhiệm của pháp nhân thương mại, liệu có đặt ra trường hợp hoãn đối với đối tượng này, có nên coi pháp nhân thương mại cũng là đối tượng hoãn thi hành án hình sự. Thứ ba: Hoãn thi hành án hình sự chỉ được áp dụng khi người bị kết án chưa thi hành án: Như vậy nếu người bị kết án đã hoặc đang thi hành án thì không thể là đối tượng của hoãn thi hành án. Thứ tư: Hoãn thi hành án hình sự chỉ áp dụng đối với một số hình phạt nhất định: Đặc điểm này cũng xuất phát từ tính chất của từng hình phạt cụ thể vì một số hình phạt sẽ không thể hoãn được vì ngay sau khi tuyên án hình phạt đó đã bắt đầu có hiệu lực (hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo). Hoặc một số hình phạt sau khi tuyên án có hiệu lực ngay và chấm dứt hiệu lực ngay (như hình phạt cảnh cáo được quy định tại điều 71 Luật thi hành án hình sự). Thứ năm: Hoãn thi hành án chỉ có thể được áp dụng khi có các căn cứ và điều kiện nhất định do pháp luật hình sự quy định 12
  17. Xuất phát từ ý nghĩa là chế định nhân đạo, pháp luật hình sự chỉ quy định một số trường hợp được hoãn THAHS như: đang mang thai hay đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, hiện là lao động duy nhất trong gia đình, đang mắc bệnh nặng nếu đi thi hành án thì có thể bị ảnh hưởng đến tính mạng của người bị kết án hay trường hợp hoãn thi hành án vì lý do công vụ. Ngoài ra còn một trường hợp hoãn thi hành án đối với người bị kết án tử hình. Hoãn thi hành án tử hình có thể xảy ra trong những trường hợp “1. Trong quá trình tiến hành thủ tục thi hành án thì người bị kết án khai những tình tiết mới liên quan đến hành vi phạm tội và có thể làm sáng tỏ những hành vi phạm tội khác. ”. Hay trường hợp hoãn chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng đặt ra khi thỏa mãn điều kiện tại Điều 125 Luật THAHS. Thứ sáu, Hoãn thi hành án hình sự được thực hiện bởi cơ quan có thẩm quyền và tuân thủ theo những trình tự, thủ tục chặt chẽ Thẩm quyền thi hành án hình sự đã được nhà làm luật quy định rõ trong từng trường hợp. Theo đó, Tòa án đã ra quyết định thi hành án có thể tự mình hoặc theo đề nghị của Viện Kiểm sát, cơ quan Công an cùng cấp cho người bị kết án hoãn thi hành án. Hoặc trường hợp khi nhận được quyết định hoãn thi hành án thì cơ quan THAHS công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu ngừng việc làm thủ tục đưa người chấp hành hình phạt đi chấp hành án, hay đối với trường hợp thi hành án tử hình thì Hội đồng thi hành án tử hình là chủ thể có thẩm quyền được hoãn thi hành án trong một số trường hợp nhất định Qua đó, có thể thấy, pháp luật đã giao thẩm quyền cho từng cơ quan theo đúng chức năng nhiệm vụ. Tuy nhiên, cơ quan có thẩm quyền đều phải thực hiện theo trình tự thủ tục hết sức chặt chẽ mà pháp luật đã quy định. Để tránh trường hợp một số cá nhân lợi dụng chính sách nhân đạo để trốn tránh việc thi hành án hình sự làm ảnh hưởng đến tính hiệu lực của bản án và tính pháp chế của pháp luật đảm bảo tính công bằng của xã hội. Không chỉ có quy định trình tự thủ tục để được xét hoãn thi hành án mà pháp luật còn dự liệu quy định về kiểm tra giám sát hoạt động hoãn thi hành án cũng hết sức chặt chẽ để từ đó đảm bảo việc hoãn thi hành án đúng người, đảm bảo người dân đủ điều kiện hoãn được xem xét phù hợp, không xuất hiện trường hợp lợi dụng chính sách nhân đạo để trốn tránh việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án. Thứ bảy, Hoãn thi hành án hình sự là hoạt động thực thi quyền lực công có liên quan đến quyền nhân thân của con người 13