Luận văn Hòa giải vụ việc dân sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam

pdf 111 trang vuhoa 25/08/2022 11240
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Hòa giải vụ việc dân sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_hoa_giai_vu_viec_dan_su_theo_phap_luat_to_tung_dan.pdf

Nội dung text: Luận văn Hòa giải vụ việc dân sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THỊ BÍCH HÒA GIẢI VỤ VIỆC DÂN SỰ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật Dân sự Mã số: 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Bùi Thị Huyền HÀ NỘI - 2013
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN LÊ THỊ BÍCH - 2 -
  3. MỤC LỤC Trang phụ bìa Trang Lời cam đoan Mục lục Bảng chữ viết tắt Danh mục bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÒA GIẢI 5 VỤ VIỆC DÂN SỰ 1.1 Khái niệm đặc điểm và ý nghĩa của hòa giải vụ việc dân sự 5 1.1.1 Khái niệm hòa giải vụ việc dân sự 5 1.1.2 Đặc điểm hòa giải vụ việc dân sự 8 1.1.3 Ý nghĩa của hòa giải vụ việc dân sự 20 1.2 Cơ sở của hòa giải vụ việc dân sự 22 1.2.1 Cơ sở pháp lý 22 1.2.2 Cơ sở thực tiễn 24 1.3 Khái quát sự hình thành và phát triển của pháp luật tố tụng 25 dân sự Việt 1.3.1 Giai đoạn từ 1945 đến 1989 25 1.3.2 Giai đoạn từ 1989 đến 2005 29 1.3.3. Giai đoạn từ 2005 đến nay 30 Chương 2: HÒA GIẢI VỤ VIỆC DÂN SỰ THEO QUY ĐỊNH 34 CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH 2.1. Nguyên tắc tiến hành hòa giải vụ việc dân sự 35 2.2. Phạm vi và nội dung hòa giải vụ việc dân sự 37 2.2.1 Phạm vi hòa giải vụ việc dân sự 37 2.2.1.1 Những vụ việc không được hòa giải 37 2.2.1.2 Những vụ án không tiến hành hòa giải được 42 2.2.2. Nội dung hòa giải vụ việc dân sự 45 2.3. Thành phần phiên hòa giải vụ việc dân sự 46 2.4. Trình tự tiến hành hòa giải vụ việc dân sự 55 - 3 -
  4. Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 63 NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HÒA GIẢI VỤ VIỆC DÂN SỰ 3.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về hòa giải vụ việc dân sự 63 3.1.1. Những vướng mắc, bất cập của pháp luật về hòa giải vụ việc 65 dân sự 3.1.2. Hạn chế, vướng mắc về việc thực hiện pháp luật về hòa giải 74 vụ án dân sự 3.2 Một số kiến nghị hoàn thiện và thực hiện pháp luật về hòa 83 giải vụ việc dân sự 3.2.1 Kiến nghị về việc hoàn thiện pháp luật về hòa giải vụ việc 83 dân sự 3.2.2 Kiến nghị về việc thực hiện pháp luật 88 KẾT LUẬN 91 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 93 PHỤ LỤC 98 - 4 -
  5. BẢNG GHI CHÚ VIẾT TẮT 1. BLTTDS Bộ luật tố tụng dân sự 2004 2. Luật sửa đổi, bổ Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Bộ sung năm 2011 luật tố tụng dân sự. 3. Nghị quyết số Nghị quyết số 01/2005/NQ - HĐTP ngày 31/3/2005 01/2005/NQ - của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao HDTP hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất "những quy định chung" của Bộ luật tố tụng dân sự 2004 4. Nghị quyết số Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 02/2006/NQ- của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ hai "Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm" của Bộ luật tố tụng dân sự. 5. Nghị quyết số Nghị quyết số 05/2006NQ-HĐTP ngày 4/8/2006 05/2006/NQ- hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ HĐTP ba "thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm" của Bộ luật Tố tụng dân sự. 6. BLDS Bộ luật dân sự 7. TTDS Tố tụng dân sự 8. TAND Tòa án nhân dân 9. PLTTGQCVADS Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự 10. PLTTGQCVAKT Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế 11. PLTTGQCTCLĐ Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động - 5 -
  6. DANH MỤC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 3.1 Kết quả giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án nhân 63 dân các cấp (từ năm 2007 đến năm 2012) - 6 -
  7. MỞ ĐẦU 1.Tình thế cấp thiết của đề tài Trong xu thế chung của hội nhập toàn cầu, Việt Nam có chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền, thực hiện công cuộc cải cách, đổi mới một cách toàn diện và sâu sắc theo quy luật cạnh tranh của kinh tế thị trường. Sự thay đổi đó tạo nên một “bộ mặt” mới cho nền kinh tế. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường thì các tranh chấp, yêu cầu dân sự, thương mại, lao động cũng ngày càng gia tăng nhưng hầu hết mọi người đều tỏ ra e ngại khi phải đưa vụ kiện ra Tòa án. Đa số họ thích hòa giải hơn là tranh tụng, đặc biệt là đối với các tranh chấp dân sự. Điều này được lý giải là do Việt Nam cùng với một số nước Châu Á khác chịu ảnh hưởng của triết lý Khổng Tử và Đạo Phật, ở đó hòa giải trở thành một truyền thống tốt đẹp trong việc giải quyết những mâu thuẫn tranh chấp và hòa giải được xem là một biện pháp giải quyết tranh chấp, yêu cầu được ưa chuộng hơn cả. Biện pháp này góp phần phòng ngừa tội phạm phát sinh và tranh chấp phát triển phức tạp, gìn giữ sự hòa thuận cho từng gia đình, bình yên cho làng xóm, trật tự kỷ cương an toàn xã hội, củng cố khối đoàn kết cộng đồng. Truyền thống này đã tồn tại và phát huy vai trò của nó trong đời sống xã hội. Nếu như tranh chấp bị xem như những biểu hiện tiêu cực là sự phá vỡ sự hòa thuận và bình yên của cộng đồng thì hòa giải lại được xem như mặt tích cực, là sự gìn giữ, củng cố trật tự công cộng. Hiện nay, nước ta cũng như nhiều nước khác trên thế giới đang có xu hướng sử dụng hòa giải nhiều hơn, đặc biệt là hòa giải trong tố tụng tư pháp, như một biện pháp giải quyết tranh chấp bởi nó có nhiều ưu điểm hơn so với các biện pháp giải quyết tranh chấp khác. Hiện nay, chế định hòa giải đã được quy định khá đầy đủ, chi tiết trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 và đã trở thành một phương thức hữu hiệu - 7 -
  8. khi giải quyết các vụ việc dân sự tại Tòa án. Tuy nhiên, qua thực tiễn thi hành Bộ luật này trong những năm qua cho thấy một số quy định của Bộ luật tố tụng dân sự cũng như vấn đề hòa giải đã bộc lộ những hạn chế, bất cập; có những quy định mâu thuẫn với các văn bản quy phạm pháp luật khác; có những quy định chưa phù hợp (hoặc không còn phù hợp), chưa đầy đủ, thiếu rõ ràng và còn có những cách hiểu khác nhau Do đó, ngày 29/3/2011 Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự và Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2012. So với Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, Luật sửa đổi, bổ sung năm 2011 có nhiều sửa đổi, bổ sung quan trọng nhằm đáp ứng yêu cầu cấp bách của thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự trong giai đoạn hiện nay. Với nhận thức như vậy, em đã chọn đề tài “Hòa giải vụ việc dân sự theo pháp luật Tố tụng dân sự Việt Nam” làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp của mình. Với ý nghĩa là một bộ phận của khoa học luật tố tụng dân sự, hòa giải vụ việc dân sự đã và đang được nhiều nhà nghiên cứu lý luận và thực tiễn quan tâm. Nhiều công trình về hòa giải đã được nghiên cứu. Trước khi Bộ luật tố tụng dân sự được ban hành có các công trình sau đây nghiên cứu về vấn đề này: - Khóa luận tốt nghiệp năm 1995 của Nguyễn Thị Thu Hà về Hòa giải vụ án dân sự. - Luận án Thạc sĩ Luật học: “Hòa giải trong tố tụng dân sự, thực tiễn và hướng hoàn thiện” của Bùi Đăng Huy, 1996. - Khóa luận tốt nghiệp: “Hòa giải vụ án dân sự” của Đỗ Quốc Chung, Hà Nội, 1997. - Luận án tiến sĩ Luật học: “Chế định hòa giải trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam – Cơ sở lý luận và thực tiễn” của Trần Văn Quảng, Hà Nội, 2004. - 8 -
  9. Và sau khi Bộ luật tố tụng dân sự ban hành thì có các công trình sau đây: - Khóa luận tốt nghiệp: “Hòa giải trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam” của Nguyễn Kiều Oanh, Hà Nội, 2010. - Khóa luận tốt nghiệp: “Hòa giải trong tố tụng dân sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của La Phương Na, Hà Nội, 2011. Các công trình nghiên cứu trên chủ yếu tập trung nghiên cứu về hòa giải đối với vụ án dân sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004. Sau khi Bộ luật Tố tụng dân sự ban hành cũng đã có một số công trình nghiên cứu về hòa giải vụ án sự nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện về hòa giải vụ việc dân sự. 2. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là: - Làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về hòa giải vụ việc dân sự như khái niệm, đặc điểm của hòa giải vụ việc dân sự, cơ sở, nội dung của hòa giải vụ việc dân sự. - Phân tích, làm sáng tỏ các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về hòa giải vụ việc dân sự, từ đó chỉ ra những điểm bất cập, không hợp lý, mâu thuẫn của các quy định đó. - Tìm hiểu, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về hòa giải vụ việc dân sự, từ đó tìm ra những điểm vướng mắc, mâu thuẫn khi áp dụng các quy định đó. - Đề xuất các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hòa giải vụ việc dân sự và các biện pháp bảo đảm thực hiện các quy định này. 3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của luận văn: là các quy định của pháp luật Việt Nam và một số nước về hòa giải vụ việc dân sự, đồng - 9 -
  10. thời nghiên cứu thực tiễn thực hiện các quy định về hòa giải vụ việc dân sự tại các Tòa án từ năm 2005 đến nay. Hòa giải vụ việc có thể được nghiên cứu dưới góc độ là một thủ tục tố tụng, một hoạt động tố tụng, một chế định của pháp luật tố tụng dân sự. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn thạc sĩ luật học, tác giả nghiên cứu hòa giải vụ việc dân sự dưới góc độ là một chế định của pháp luật tố tụng dân sự và thực tiễn thực hiện chế định này tại một số Tòa án của Việt Nam. 4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của khóa luận Ý nghĩa khoa học: Luận văn góp phần làm rõ hơn những vấn đề lý luận và thực tiễn về hòa giải vụ việc dân sự. Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn đề xuất những kiến nghị về hoàn thiện quy định của pháp luật về hòa giải vụ việc dân sự. 5. Bố cục của khóa luận Ngoài lời nói đầu và kết luận, luận văn được chia làm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về hòa giải vụ việc dân sự theo pháp luật Tố tụng dân sự Việt Nam. Chương 2: Hòa giải vụ việc dân sự theo quy định của pháp luật hiện hành. Chương 3: Thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hòa giải vụ việc dân sự theo pháp luật Tố tụng dân sự Việt Nam. - 10 -
  11. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÒA GIẢI VỤ VIỆC DÂN SỰ 1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa hòa giải vụ việc dân sự 1.1.1. Khái niệm hòa giải vụ việc dân sự Luật tố tụng dân sự Việt Nam là một ngành luật trong hệ thống pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bao gồm hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong tố tụng dân sự (TTDS) để bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự nhanh chóng, đúng đắn, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức và lợi ích hợp pháp của Nhà nước. Pháp luật TTDS quy định quyền, nghĩa vụ của Tòa án và các chủ thể tham gia tố tụng khi tham gia tố tụng dân sự. Pháp luật TTDS xác định vai trò, trách nhiệm chủ động, tích cực của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án, đồng thời bảo đảm cho các đương sự trong vụ án có đầy đủ quyền tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án, trong đó tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự được xác định là một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật TTDS. Khi tranh chấp phát sinh, tham gia vào quá trình tố tụng, các đương sự có toàn quyền trong việc quyết định các quyền, lợi ích dân sự của mình. Trong suốt quá trình tham gia tố tụng, các đương sự đều có quyền tự thương lượng, thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án nhưng phải đảm bảo nguyên tắc tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Việc tự thỏa thuận của các đương sự được thực hiện trên nguyên tắc quyền tự định đoạt, kết quả hòa giải chưa có sự tham gia của Tòa án. Song, để tạo điều kiện cho các bên đương sự thương lượng, thỏa thuận, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, Tòa án có trách nhiệm hòa giải nhằm tạo điều kiện cho các đương sự - 11 -
  12. có thể thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc theo quy định của pháp luật. Trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, hòa giải là một trong những nguyên tắc quan trọng thể hiện tính đặc trưng và riêng biệt của TTDS, thể hiện những tư tưởng pháp lý cơ bản để điều tiết hành vi tố tụng của Tòa án và của những người tham gia tố tụng. Hòa giải là một biện pháp truyền thống để giải quyết các tranh chấp trong đời sống xã hội, nhưng quan niệm về hòa giải còn nhiều vấn đề chưa thống nhất. Theo Từ điển tiếng Việt: “hòa giải là việc thuyết phục các bên đồng ý chấm dứt xung đột, xích mích một cách ổn thỏa” [51, tr.430]. Khái niệm này đề cập đến hành động và mục đích của hòa giải, nhưng chưa nêu được đầy đủ các yếu tố như bản chất, nội dung, và chủ thể của hòa giải. Trong khoa học pháp lý cũng có nhiều quan điểm khác nhau về hòa giải. Có quan điểm cho rằng: “hòa giải là quá trình giải quyết những tranh chấp, bất đồng giữa các bên. Trong quá trình hòa giải cần đến bên thứ ba với vai trò trung lập, làm trung gian giúp các bên tranh chấp giải quyết được những bất đồng và đạt được một thỏa thuận phù hợp với quy định của pháp luật, đạo đức xã hội và tự nguyện thực hiện những thỏa thuận đó” [22]. Theo quan điểm này, hòa giải có mục đích giải quyết thành công tranh chấp. Tuy nhiên, không phải tất cả các trường hợp hòa giải đều thành công. Khi đó, dù mâu thuẫn chưa được giải quyết hoàn toàn nhưng các bên tranh chấp cũng có cơ hội hiểu rõ hơn nội dung tranh chấp, bày tỏ ý chí của mình với đối phương và cũng được nghe ý kiến của đối phương về vụ tranh chấp. Từ đó, hai bên có thể phần nào tìm được tiếng nói chung và làm giảm mức độ mâu thuẫn. Cũng có ý kiến cho rằng: “hòa giải là một chế định quan trọng của luật tố tụng dân sự, là phương pháp giải quyết vụ án bằng chính sự thỏa thuận, thương lượng của các đương sự” [10]. Quan điểm này đã nêu được vai trò, ý nghĩa của chế định hòa giải trong TTDS, nhưng chưa phản ánh được bản chất - 12 -
  13. của hòa giải các vụ án dân sự. Việc giải quyết vụ án bằng chính sự thỏa thuận của các đương sự có thể được chia thành hai trường hợp: trường hợp do các đương sự tự hòa giải và trường hợp do các đương sự hòa giải với sự giúp đỡ của Tòa án. Hai trường hợp giải quyết vụ án bằng chính sự thỏa thuận, thương lượng của các đương sự nêu trên có bản chất khác nhau; bởi lẽ, hai trường hợp này dẫn đến hai kết quả giải quyết khác nhau về vụ án dân sự. Nếu các đương sự tự hòa giải thì Tòa án ra quyết định đình chỉ vụ án, còn trường hợp do Tòa án tiến hành hòa giải giúp đỡ các đương sự thỏa thuận với nhau về giải quyết vụ án thì Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận đó. Hòa giải vụ việc dân sự là hoạt động do Tòa án tiến hành giúp đỡ các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự. Tuy nhiên, chủ thể của hòa giải lại chính là các đương sự, các đương sự mới là chủ thể có quyền quyết định và thỏa thuận về giải quyết vụ việc dân sự. Mặc dù không phải là chủ thể của hòa giải, song Tòa án có vai trò quan trọng trong việc xác định thời gian, thành phần, địa điểm, nội dung hòa giải, giải thích pháp luật và nội dung tranh chấp để các đương sự đi đến thống nhất về phương án giải quyết vụ việc. Để cho hoạt động hòa giải của Tòa án được khách quan, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và sự thỏa thuận của các đương sự phù hợp với pháp luật thì việc hòa giải phải tuân theo thủ tục do pháp luật quy định. Hoạt động hòa giải được Tòa án tiến hành trước khi xét xử, giải quyết vụ việc tại phiên tòa sơ thẩm vụ việc dân sự. Việc hòa giải vào thời điểm nào, bao nhiêu lần phụ thuộc vào kinh nghiệm giải quyết vụ việc của Thẩm phán. Song thông thường, Thẩm phán sẽ tiến hành hòa giải khi chứng cứ, tài liệu của hồ sơ vụ việc đã tương đối đầy đủ, Thẩm phán đã nắm rõ nội dung vụ việc, nguyên nhân phát sinh tranh chấp, yêu cầu, tâm tư nguyện vọng của các bên đương sự. Bên cạnh đó, tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, Tòa án vẫn tạo - 13 -
  14. điều kiện để các đương sự tự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự. Nếu các đương sự tự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự và việc thỏa thuận đó là tự nguyện, không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội thì Tòa án sẽ công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Việc hòa giải trước khi xét xử, giải quyết sơ thẩm vụ việc dân sự là bắt buộc, trừ những việc không hòa giải được hoặc pháp luật quy định không được hòa giải. Đa số các vụ việc dân sự bắt nguồn từ những mâu thuẫn về quyền và lợi ích giữa các chủ thể từ các quan hệ pháp luật nội dung, cho nên việc hòa giải của Tòa án là cần thiết. Từ những phân tích trên, chúng ta có thể đưa ra khái niệm về hòa giải như sau: Dưới góc độ là một hoạt động của Tòa án, Hòa giải vụ việc dân sự là hoạt động do Tòa án tiến hành nhằm giúp đỡ các đương sự thỏa thuận với nhau về giải quyết vụ việc dân sự trước khi xét xử sơ thẩm. Dưới góc độ là một chế định của pháp luật tố tụng dân sự, Hòa giải vụ việc dân sự là thủ tục do Tòa án tiến hành theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự nhằm giúp đỡ các đương sự thỏa thuận với nhau về giải quyết vụ việc dân sự trước khi xét xử sơ thẩm. 1.1.2. Đặc điểm hòa giải vụ việc dân sự Hòa giải và tự thỏa thuận (tự hòa giải) của các đương sự đều được thực hiện trên cơ sở thỏa thuận của các bên đương sự. Và khi sự thỏa thuận là tự nguyện, không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội thì Tòa án sẽ ghi nhận sự thỏa thuận đó. Hòa giải vụ việc dân sự có những đặc điểm đặc trưng sau: - Hòa giải là sự thỏa thuận của các đương sự Mặc dù hòa giải là một thủ tục do Tòa án tiến hành nhưng về bản chất hòa giải vẫn là sự thỏa thuận của các đương sự. Chỉ có các đương sự mới có quyền hòa giải với nhau về tất cả những vấn đề đang cần giải quyết trong vụ - 14 -
  15. việc, bởi đương sự là những người có quyền lợi đang bị xâm hại hoặc tranh chấp. Họ là người hiểu rõ hơn ai hết mâu thuẫn của chính họ. Khi tham gia vào quá trình hòa giải, các đương sự có quyền thương lượng, thỏa thuận với nhau để giải quyết những bất đồng về quyền lợi của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện ý chí, thỏa thuận. Mọi sự tác động từ bên ngoài trái với ý muốn của các đương sự đều bị coi là trái pháp luật và không được công nhận. Không ai, bằng bất kỳ hình thức nào có thể cưỡng ép, bắt buộc đương sự thỏa thuận với nhau giải quyết những mâu thuẫn, tranh chấp giữa họ. Khi người đại diện của đương sự tham gia tố tụng thì họ có quyền thỏa thuận với đương sự phía bên kia về giải quyết vụ việc dân sự trong phạm vi đại diện. Trong trường hợp người đại diện theo pháp luật của đương sự tham gia tố tụng thì người đại diện của đương sự có toàn bộ các quyền và nghĩa vụ của đương sự nên người đại diện theo pháp luật của đương sự có quyền tham gia hòa giải. Song đối với vụ án ly hôn thì người đại diện theo pháp luật không có quyền hòa giải, bởi quan hệ nhân thân phải do các đương sự tự quyết định. Trong trường hợp người đại diện theo ủy quyền của đương sự tham gia tố tụng thì người đại diện của đương sự có các quyền và nghĩa vụ của đương sự trong phạm vi ủy quyền nên người đại diện theo ủy quyền của đương sự có quyền tham gia hòa giải nếu được đương sự ủy quyền. Đối với những vụ án do cơ quan, tổ chức khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, cơ quan tổ chức không phải là chủ thể của quan hệ pháp luật tranh chấp nên không có quyền hòa giải với bị đơn. Mặc dù các đương sự có quyền tự do, tự nguyện thỏa thuận nhưng thỏa thuận của các đương sự phải trong khuôn khổ pháp luật nên thỏa thuận của đương sự chỉ được Tòa án công nhận khi không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội. - Hòa giải là một thủ tục bắt buộc đối với hầu hết vụ việc dân sự - 15 -
  16. Trong lĩnh vực dân sự, thông thường lợi ích của các bên được xem như là động lực để các bên tham gia quan hệ pháp luật dân sự và cũng chính là tiền đề dẫn đến tranh chấp dân sự. Khi quyền dân sự của một chủ thể bị xâm phạm thì chủ thể đó có quyền tự bảo vệ hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền, Tòa án công nhận quyền dân sự của mình; buộc chấm dứt hành vi vi phạm; buộc xin lỗi, cải chính công khai; buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự; buộc bồi thường thiệt hại. Mục đích của việc giải quyết tranh chấp, yêu cầu về dân sự là giải quyết các mâu thuẫn về quyền và lợi ích của các bên, các vướng mắc trong tâm tư, tình cảm của các bên. Việc các đương sự tự thương lượng giải quyết hay cơ quan nhà nước có thẩm quyền, Tòa án ra quyết định, bản án về giải quyết tranh chấp, yêu cầu của đương sự cũng chỉ là các hình thức pháp lý để giải quyết vụ việc dân sự. Xét cả về kinh tế và xã hội thì phương thức giải quyết mà đạt được sự đồng thuận của các bên là phương thức hiệu quả nhất. Do đó, ngay cả khi các đương sự đã khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc dân sự thì việc hòa giải của Tòa án là cần thiết Để giải quyết tranh chấp dân sự có nhiều phương thức khác nhau như tự thương lượng, yêu cầu cơ quan chủ quản giải quyết, trung gian hòa giải, Trọng tài, Tòa án Song, cho dù giải quyết bằng phương thức nào các đương sự đều có quyền thỏa thuận với nhau để giải quyết quan hệ pháp luật tranh chấp, bởi họ chính là chủ thể của các quan hệ pháp luật nội dung. Mặt khác, việc hòa giải mang lại nhiều ý nghĩa cả về kinh tế, xã hội và pháp lý. Vì thế, pháp luật của các nước đều quy định Tòa án có trách nhiệm hòa giải để giúp đỡ các đương sự thỏa thuận với nhau giải quyết tranh chấp, trừ các trường hợp không hòa giải được hoặc không được hòa giải. Theo Điều 23 BLTTDS năm 2003 của Liên bang Nga quy định về vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền xét xử của Thẩm phán hòa giải như sau: 1. Thẩm phán hòa giải xét xử ở cấp sơ thẩm những vụ việc sau đây: - 16 -
  17. 1) Vụ việc về ban hành lệnh của Tòa án; 2) Vụ việc ly hôn, nếu các bên vợ chồng không tranh chấp về con cái; 3) Vụ việc về chia tài sản chung của hai vợ chồng không phụ thuộc vào giá vụ kiện; 4) Những tranh chấp khác phát sinh từ quan hệ hôn nhân, trừ những tranh chấp liên quan đến việc xác định cha, mẹ, tước quyền làm cha, làm mẹ, về nuôi con nuôi; 5) Tranh chấp về tài sản trị giá không vượt quá 500 lần lương tối thiểu do luật liên bang quy định được tính vào ngày đệ đơn khởi kiện; 6) Tranh chấp phát sinh từ quan hệ lao động, trừ những tranh chấp về khôi phục việc làm và tranh chấp lao động tập thể; 7) Tranh chấp về xác định thứ tự sử dụng tài sản. 2. Luật liên bang có thể quy định Thẩm phán hòa giải xét xử cả những việc khác. 3. Trong trường hợp nhập một số yêu cầu có liên quan với nhau, hoặc trong trường hợp thay đổi đối tượng tranh chấp hoặc khởi kiện ngược lại, nếu như có yêu cầu mới thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quận khác, có yêu cầu vẫn thuộc thẩm quyền xét xử của thẩm phán hòa giải, thì tất cả những yêu cầu đó do Tòa án quận giải quyết. Trong trường hợp nếu thẩm quyền xét xử thay đổi trong quá trình Thẩm phán hòa giải giải quyết vụ án, Thẩm phán hòa giải ra quyết định chuyển vụ án cho Tòa án quận để giải quyết. 4. Tranh chấp về thẩm quyền xét xử giữa Thẩm phán hòa giải và Tòa án quận là không được phép [2]. Như vậy, trong điều kiện phát triển của nền kinh tế Liên Bang Nga hiện nay thì việc hình thành chế định “Thẩm phán hòa giải” đã tạo điều kiện để rút - 17 -
  18. gọn các thủ tục tố tụng trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự, nâng cao hiệu quả xét xử của các cơ quan Tòa án. Ở Hoa Kỳ các thủ tục hòa giải được áp dụng để giải quyết các tranh chấp nhỏ trong các lĩnh vực khác như lao động, gia đình trong những vụ kiện về sự vi phạm thỏa thuận thanh toán tiền bồi thường, Tòa án sẽ tuyên bố hủy bỏ thỏa thuận đó nếu thỏa thuận này vi phạm chính sách chung của xã hội và vi phạm nghiêm trọng pháp luật. Còn những thỏa thuận ngầm giữa các bên đương sự mà không thể hiện trong văn bản thì Tòa án không can thiệp. Trong trường hợp Tòa án tuyên bố vô hiệu sự thỏa thuận thì Tòa án sẽ xem xét lại sự thỏa thuận đó từ đầu [9]. Đối với việc dân sự là việc các cá nhân, cơ quan, tổ chức không có tranh chấp, nhưng có yêu cầu Tòa án công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý là căn cứ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại và lao động của mình hoặc của cá nhân, cơ quan, tổ chức khác; yêu cầu Tòa án công nhận hoặc không công nhận quyền về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động; yêu cầu Toà án công nhận sự thoả thuận của các đương sự về quan hệ pháp luật dân sự, kinh doanh, thương mại và lao động. Do mục đích của hòa giải là giúp đỡ các bên đương sự giải quyết tranh chấp nên đối với những việc dân sự mà đương sự yêu cầu Tòa án xác định một sự kiện pháp lý như yêu cầu thông báo một người vắng mặt tại nơi cư trú; tuyên bố một người là mất tích hoặc đã chết; yêu cầu hủy quyết định tuyên bố một người là mất tích hoặc đã chết; yêu cầu tuyên bố một người là mất tích hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự và yêu cầu Tòa án hủy bỏ các tuyên bố đó; yêu cầu Toà án tuyên bố chấm dứt một quan hệ pháp lý đang tồn tại như yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật; yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu thì Tòa án không tiến hành hòa - 18 -
  19. giải. Bởi các sự kiện pháp lý là khách quan nên Tòa án không thể hòa giải để giúp các đương sự thỏa thuận về một sự kiện pháp lý. Đối với một số việc dân sự mặc dù các đương sự có mâu thuẫn về quan hệ pháp luật nội dung nhưng các bên đã thống nhất được phương thức giải quyết mâu thuẫn và yêu cầu Tòa án công nhận giá trị pháp lý của sự thỏa thuận đó thì Tòa án vẫn tiến hành hòa giải. Chẳng hạn, đối với yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, chia tài sản khi ly hôn thì Tòa án vẫn tiến hành hòa giải nhằm mục đích giúp các đương sự đoàn tụ với nhau. Đối với yêu cầu Tòa án công nhận thỏa thuận của đương sự như yêu cầu công nhận sự thỏa thuận về thay đổi người trực tiếp nuôi con; yêu cầu xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản; phân chia tài sản chung để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự thì Tòa án cũng không cần thiết phải tiến hành hòa giải bởi bản chất của các loại việc này các đương sự đã thỏa thuận được với nhau về nội dung tranh chấp và họ chỉ yêu cầu Tòa án công nhận sự thỏa thuận đó. Tòa án sẽ công nhận yêu cầu của các đương sự, nếu thỏa thuận đó là tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Như vậy, hòa giải được áp dụng đối với các vụ việc dân sự mà bản chất giữa các đương sự có mâu thuẫn về quyền và nghĩa vụ trong quan hệ pháp luật nội dung. - Hòa giải là thủ tục bắt buộc trong quá trình giải quyết hầu hết vụ việc dân sự Xuất phát từ ý nghĩa kinh tế, xã hội của việc hòa giải nên pháp luật của các nước đều quy định hòa giải là thủ tục tố tụng bắt buộc trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Song việc hòa giải mang tính bắt buộc được tiến hành ở thời điểm nào của quá trình giải quyết vụ việc dân sự được pháp luật của các nước quy định khác nhau. - 19 -
  20. Chẳng hạn, ở Hoa Kỳ, có hai hình thức hòa giải các tranh chấp dân sự: hòa giải chính thức và hòa giải không chính thức. Hòa giải không chính thức là việc các bên tranh chấp gặp nhau để trao đổi, thỏa thuận trước khi nộp các tài liệu chứng cứ cho Tòa án. Nếu các đương sự đã gặp nhau mà không thỏa thuận với nhau thì có thể nhờ người khác mà không phải là nhân viên Tòa án để giúp đương sự giải quyết tranh chấp mà không cần nhờ đến Tòa án giải quyết. Có thể thấy thủ tục hòa giải không chính thức ở Hoa Kỳ tương tự như thủ tục tự thỏa thuận (tự hòa giải theo pháp luật TTDS Việt Nam). Hòa giải chính thức là hòa giải thông qua trọng tài hoặc hòa giải viên. Các bên có thể tự chọn cho mình một trọng tài viên, các trọng tài viên hoặc các hòa giải viên để giúp các bên tranh chấp giải quyết vụ việc đó. Trên cơ sở giúp đỡ của trọng tài viên hoặc hòa giải viên, các bên đi đến thỏa thuận giải quyết tranh chấp, Tòa án tôn trọng các quyết định hòa giải của trọng tài viên và hòa giải viên [9]. Điều 148 BLTTDS Liên bang Nga quy định nhiệm vụ của Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử là hòa giải giữa các bên [2]. Điều 21 BLTTDS mới của Pháp quy định Thẩm phán có nhiệm vụ hòa giải các bên đương sự. Với quy định này hòa giải trở thành chức năng, nhiệm vụ thường trực của Thẩm phán trong toàn bộ tiến trình giải quyết vụ kiện. Tại hội thảo về Pháp luật Tố tụng dân sự diễn ra tại Hà Nội vào ngày 7,8/9/1998, Ông Jean-Marie- Chánh án Tòa án Sơ thẩm thẩm quyền rộng Pari nói: “Về vấn đề hòa giải, BLTTDS mới của Pháp là sự hòa trộn giữa tính hiện thực và tính lý tưởng. Hòa giải không phải là một giai đoạn của quá trình tố tụng nhưng đối với Thẩm phán thì bất cứ lúc nào, đây cũng là nhiệm vụ tất yếu gắn liền với chức năng của họ. Điều này được quy định tại các Điều 21, 58, 127 đến 131 BLTTDS Pháp" [38]. - 20 -
  21. Ở Nhật Bản, hòa giải qua tòa án là bước củng cố thỏa thuận giải quyết tranh chấp thông qua sự nhượng bộ của các bên. Hòa giải qua Tòa án có thể được thực hiện trong thời gian chờ tòa án xét xử (Điều 275). Tòa án có thể gợi ý các bên hòa giải qua tòa án vào bất cứ lúc nào trước khi Tòa án xét xử (Điều 89). Hòa giải qua tòa án có hiệu lực tương tự như việc tự định đoạt quyền hoặc quan hệ pháp luật đối với đối tượng của vụ kiện. Ở Việt Nam, Điều 10 Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) quy định: “Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này” [30]. Và khoản 2 Điều 179 BLTTDS cũng quy định: Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, Tòa án ra một trong các quyết định sau đây: a) Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự; b) Tạm đình chỉ giải quyết vụ án; c) Đình chỉ giải quyết vụ án; d) Đưa vụ án ra xét xử. Như vậy, ở Việt Nam hiện nay, hòa giải được tiến hành như một thủ tục, có tính bắt buộc đối với hầu hết các vụ việc dân sự trước khi mở phiên tòa sơ thẩm. Khi hòa giải thành, Tòa án sẽ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Ở các giai đoạn khác của quá trình tố tụng, Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện để các đương sự thỏa thuận với nhau về giải quyết vụ việc dân sự và tùy từng thời điểm khác nhau, Tòa án sẽ ra quyết định hoặc bản án để công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Việc bắt buộc tiến hành hòa giải trước khi mở phiên tòa sơ thẩm xuất phát từ những cơ sở nhất định. Trước khi mở phiên tòa sơ thẩm, Tòa án phải tiến hành xác minh, chính hoạt động này đã giúp Thẩm phán nắm được nội dung vụ án, hiểu được nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tranh chấp, để từ đó mới có điều kiện giúp đỡ các đương sự thỏa thuận với nhau về giải quyết vụ án. Ngoài ra, trong giai - 21 -