Luận văn Hình phạt cải tạo không giam giữ trong bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Hình phạt cải tạo không giam giữ trong bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_hinh_phat_cai_tao_khong_giam_giu_trong_bo_luat_hinh.pdf
Nội dung text: Luận văn Hình phạt cải tạo không giam giữ trong bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRỊNH HỒNG NGÂN HÌNH PHẠT CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 2015 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội, 2020
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRỊNH HỒNG NGÂN HÌNH PHẠT CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 2015 Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự Mã số: 8380101.03 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Nam Hà Nội, 2020
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, chưa được công bố trong bất cứ một công trình nghiên cứu nào của người khác. Việc sử dụng kết quả, trích dẫn tài liệu của người khác đảm bảo theo đúng các quy định. Các nội dung trích dẫn và tham khảo các tài liệu, sách báo, thông tin được đăng tải trên các tác phẩm, tạp chí và trang web theo danh mục tài liệu tham khảo của luận văn. Hà Nội, ngày tháng năm Tác giả luận văn Trịnh Hồng Ngân i
- MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN i DANH MỤC BẢNG iv MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1.MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÌNH PHẠT CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ 6 1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của Hình phạt cải tạo không giam giữ 6 1.1.1. Khái niệm 6 1.1.2. Đặc điểm của hình phạt cải tạo không giam giữ 12 1.1.3. Vai trò của hình phạt cải tạo không giam giữ. 15 1.2. Phân biệt hình phạt cải tạo không giam giữ với “án treo”, tha tù trước thời hạn có điều kiện 17 1.2.1. So sánh hình phạt cải tạo không giam giữ với biện pháp “án treo” 17 1 2.2. So sánh hình phạt cải tạo không giam giữ với tha tù trước thời hạn có điều kiện 24 1.3 . Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sự một số nước 32 1.3.1. Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sự Nga 32 1.3.2. Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sự Pháp. 34 1.3.3. Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sự Trung Quốc. 34 1.3.4. Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sự Mỹ. 35 CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ HÌNH PHẠT CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ 38 2.1. Lịch sử hình thành hình phạt cải tạo không giam giữ trong pháp luật hình sự Việt Nam 38 2.1.1. Quy định về hình phạt cải tạo không giam giữ trước khi ban hành Bộ luật hình sự 1985 38 2.1.2 Quy định về hình phạt cải tạo không giam giữ theo Bộ luật hình sự 1985 39 2.1.3. Quy định về hình phạt cải tạo không giam giữ theo Bộ luật hình sự 1999 44 2.2. Quy định của pháp luật hình sự hiện hành về hình phạt cải tạo không giam giữ 54 ii
- 2.2.1. Quy định của pháp luật hình sự hiện hành về hình phạt cải tạo không giam giữ trong phần chung bộ luật hình sự năm 2015 54 2.2.2 Quy định của pháp luật hình sự hiện hành về hình phạt cải tạo không giam giữ trong phần các tội phạm của bộ luật hình sự năm 2015 66 CHƯƠNG 3. THỰC TIỄN VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRONG VIỆC ÁP DỤNG HÌNH PHẠT CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ 70 3.1. Áp dụng trong thực tiễn hình phạt cải tạo không giam giữ 70 3.2. Những giải pháp nâng cao hiệu quả trong việc áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ 80 3.2.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về cải tạo không giam giữ 81 3.2.2 Thống nhất một cách hiểu về áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ 83 3.2.3. Những giải pháp tang cường hiệu quả áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ 84 3.2.4. Phổ biến, giáo dục pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống 82 3.3. Những đề xuất nội dung sửa đổi, bổ sung các quy định của bộ luật hình sự năm 2015 về hình phạt cải tạo không giam giữ 88 KẾT LUẬN 91 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 93 iii
- DANH MỤC BẢNG Bảng 1.1. Phân biệt biện pháp án treo và hình phạt cải tạo không giam giữ 19 Bảng 1.2. Phân biệt tha tù trước thời hạn có điều kiện và hình phạt cải tạo không giam giữ 27 Bảng 2.1: Bảng tổng hợp các quy định về cải tạo không giam giữ tại Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự 66 Bảng 3.1: Tỷ lệ bị cáo bị áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ trên tổng số các vụ án xét xử từ năm 2015 đến 09/2019 70 iv
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết và lý do chọn đề tài Nói tới truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, không thể không nhắc đến những tư tưởng, quan điểm đạo đức mang giá trị nhân văn, thể hiện đạo lý về tình thương con người bao trùm trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Trong việc xây dựng nền tảng của hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng, tư tưởng nhân đạo càng được thể hiện sâu sắc hơn bao giờ hết. Trong Bộ luật hình sự năm 2015, có thể thấy tư tưởng nhân đạo được phản ánh rõ nét, là tư tưởng bao trùm, xuyên suốt trong quan điểm, đường lối đấu tranh phòng chống tội phạm. Tư tưởng này cũng được xác định là kim chỉ nam trong suốt lịch sử lập pháp qua các thời kỳ khác nhau và trong Bộ luật hình sự năm 2015, tư tưởng nhân đạo một lần nữa được thể hiện rõ nét và sâu sắc, thể hiện được bản chất giai cấp của nhà nước ta trong từng chế định pháp luật cụ thể. Theo tinh thần Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (Nghị quyết số 49/NQ-TW), trong đó Đảng ta đã chỉ rõ, cần phải “Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hạn chế áp dụng hình phạt tử hình ”[51]. Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 (gọi là Bộ luật hình sự năm 2015) được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 27 tháng 11 năm 2015, có hiệu lực toàn phần kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2018 đã kịp thời thể chế hoá chủ trương cải cách tư pháp của Đảng, bảo đảm phù hợp với Hiến pháp, trong đó nhấn mạnh phải “tạo ra cơ chế hữu hiệu để bảo vệ chế độ, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước và tổ chức, góp phần bảo vệ trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, góp phần tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm và tăng cường hội nhập quốc tế” [31]. Đây là những định hướng quan trọng, là cơ sở nền tảng cho việc xây dựng các chế 1
- định khác nhau của Bộ luật hình sự. Tội phạm và hình phạt được quy định phải xuất phát từ tính đặc thù của từng loại tội phạm cũng như các điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội chi phối. Có như vậy, tính chất giáo dục cũng như phòng ngừa của hình phạt mới đạt được hiệu quả và đảm bảo được sự đồng thuận trong dư luận xã hội. Xuyên suốt chế định tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự năm 2015 với 314 tội danh quy định từ chương XIII đến chương XXVI là sự ghi nhận và phản ánh đúng những hành vi nguy hiểm cho xã hội đã và đang tác động tiêu cực đến các phương diện của đời sống chính trị-xã hội. Việc phi tội hóa một số hành vi nguy hiểm cho xã hội ra khỏi Bộ luật hình sự năm 2015 tiếp tục khẳng định đường lối xử lý đối với những hành vi chưa thực sự cần thiết áp dụng các chế tài hình sự nghiêm khắc, có thể sử dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính, kinh tế vừa góp phần giảm tải chi phí của nhà nước trong việc thi hành các biện pháp cưỡng chế hành vi vi phạm pháp luật hình sự nhưng vẫn đảm bảo sự hợp lý, nhân văn, công bằng, phù hợp trong sự tương quan với những tội phạm khác được quy định trong Bộ luật hình sự. Hình phạt cải tạo không giam giữ trong pháp luật hình sự Việt Nam không chỉ thể hiện bản chất nhân đạo của pháp luật hình sự, mà còn có ý nghĩa động viên, khuyến khích người phạm tội tự giác cải tạo, giáo dục. Đồng thời, áp dụng hình phạt này đối với người phạm tội sẽ tạo điều kiện cho người đó được làm ăn sinh sống và chứng tỏ sự hối cải của mình ngay trong môi trường xã hội bình thường, dưới sự quản lý, giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức hoặc Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người đó làm việc, công tác, học tập, cư trú và của chính gia đình của người đó, nhanh chóng giúp cho họ tái hòa nhập cộng đồng, không bị cách ly khỏi xã hội. Tuy nhiên, ở nước ta đã có một số công trình nghiên cứu cơ bản và trực diện về hình phạt chính và hình phạt bổ sung, còn đối với riêng hình phạt cải tạo không giam giữ, nhìn một cách tổng thể chưa được quan tâm nghiên cứu đúng mức, với tư cách là một hình phạt chính quan trọng trong hệ thống hình phạt trong luật hình sựViệt Nam. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi mà nước ta đang trong tiến trình hội nhập sâu rộng trên nhiều lĩnh vực trong khu vực cũng như trên toàn thế giới. Vì 2
- vậy, việc nghiên cứu đề tài: “HÌNH PHẠT CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 2015” là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Hình phạt cải tạo không giam giữ trong pháp luật hình sự Việt Nam là một trong những chế định pháp lý hình sự quan trọng trong chính sách hình sự của Nhà nước ta. Bản thân hệ thống hình phạt nói chung và hình phạt cải tạo không giam giữ nói riêng đã được nhiều nhà khoa học, học giả quan tâm nghiên cứu, được đề cập trong nhiều bài viết nghiên cứu - trao đổi, xây dựng pháp luật và được thể hiện trên báo chí trung ương và địa phương, nhất là các báo, tạp chí chuyên ngành pháp luật. Ví dụ: - Một số vấn đề về hình phạt cải tạo không giam giữ, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 5/1995; - PGS.TS.Trịnh Quốc Toản, Một số vấn đề về hình phạt quản chế trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Khoa học,chuyên san Luật học, số 1/2004; - Về hình phạt cấm cư trú trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 6/2004; - Về hình phạt tiền trong luật hình sự một số nước trên thế giới, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số7/2003. - . Tuy nhiên, hình phạt cải tạo không giam giữ vẫn chưa được quan tâm đúng mức, các nghiên cứu về hình phạt cải tạo không giam giữ thường mới chỉ đề cập, tập trung nghiên cứu chung với các hình phạt khác hoặc từ góc độ khác. Cho đến nay chưa có một công trình chuyên khảo nào nghiên cứu toàn diện, có hệ thống về hình phạt cải tạo không giam giữ để trên cơ sở đó đưa ra được giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự nói chung và hệ thống hình phạt nói riêng nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt này. 3. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 3.1. Cơ sở phương pháp luận: Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mácxít; tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, 3
- tư tưởng chỉ đạo, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và bản chất nhân đạo của chính sách hình sự và đấu tranh phòng chống tội phạm. 3.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu phân tích, tổng hợp lịch sử, thống kê, so sánh, tham khảo chuyên gia và khảo sát thực tiễn. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận của hình phạt cải tạo không giam giữ; các quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành về hình phạt cải tạo không giam giữ; cũng như thực tiễn áp dụng các quy định về hình phạt cải tạo không giam giữ trong những năm qua ở nước ta. 5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu: 5.1. Mục đích nghiên cứu: Mục đích nghiên cứu đề tài là trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận, phân tích các quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ, đưa ra những kiến nghị hoàn thiện các quy định của Luật Hình sự về cải tạo không giam giữ và kiến nghị, đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt này. 5.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: - Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về hình phạt cải tạo không giam giữ - Phân tích các quy định của Bộ luật Hình sự về cải tạo không giam giữ - Nghiên cứu thực tiễn áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ - Đưa ra các kiến nghị hoàn thiện Bộ luật Hình sự và thực tiễn áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn. Nghiên cứu hình phạt cải tạo không giam giữ một cách toàn diện và có hệ thống trên cơ sở lý luận và thực tiễn công tác xét xử trong những năm qua. Trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện chế định hình phạt cải tạo không giam giữ và nâng cao hiệu quả xét xử của Tòa án. 4
- 7. Bố cục luận văn. Chương 1: Một số vấn đề lý luận về hình phạt cải tạo không giam giữ Chương 2: Quy định của pháp luật hình sự về hình phạt cải tạo không giam giữ Chương 3: Thực tiễn và những giải pháp nâng cao hiệu quả trong việc áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ 5
- CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÌNH PHẠT CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ 1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của Hình phạt cải tạo không giam giữ 1.1.1. Khái niệm Để có một cái nhìn toàn diện về khái niệm hình phạt cải tạo không giam giữ, trước tiên, chúng ta cùng nghiên cứu khái niệm hình phạt. Hình phạt là gì? Hình phạt là chế định quan trọng của pháp luật hình sự. Hình phạt vừa thể hiện thái độ của Nhà nước đối với người có hành vi phạm tội vừa là hậu quả pháp lý mà người có hành vi phạm tội phải gánh chịu. Hiện nay, có rất nhiều ý kiến về khái niệm hình phạt được đưa ra, nhưng có hai ý kiến chủ chốt được ghi nhận đó là: Một là, ở thời trung cổ, hình phạt được coi là công cụ trừng phạt người phạm tội. Tổ chức đứng đầu đã nghĩ ra những biện pháp hà khắc, dã man nhất để “trả thù” người phạm tội như: treo cổ, tứ mã phanh thây, đóng đinh, kẹp ngón tay, Hai là, ở thời kỳ xã hội văn minh và dân chủ, hình phạt lại được coi là công cụ đấu tranh và phòng chống tội phạm. Các hình phạt hà khắc, dã man đã được loại bỏ, thay vào đó là những hình phạt mang tính răn đe nhằm tước bỏ hoặc hạn chế những quyền và lợi ích nhất định. Trong khoa học luật hình sự cũng tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về bản chất và nội dung của hình phạt. Nhìn chung các quan niệm đó có thể được chia thành ba loại như sau: - Quan niệm đầu tiên đó là, coi hình phạt là công cụ trừng trị người có hành vi phạm tội và lấy sự hà khắc của hình phạt đó để răn đe cho người phạm tội. - Quan niệm thứ hai đó là coi hình phạt là công cụ pháp lý cần thiết trong công cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm, cải tạo, giáo dục cảm hóa người phạm tội. 6
- - Quan điểm thứ ba đó là coi hình phạt là công cụ phòng ngừa tội phạm. Về vấn đề này, trong Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 27 (2011) do PGS. TS. Trịnh Quốc Toản chủ biên “Một số vấn đề lý luận về hình phạt trong Luật hình sự” đã tổng kết như sau: “Quan điểm thứ nhất, coi hình phạt là công cụ trừng trị, trả thù của Nhà nước dựa theo học thuyết trừng trị hay còn gọi là học thuyết hình phạt tuyệt đối do I. Kant và F. Hegel, là những triết gia người Đức chủ trương I. Kant cho rằng, sự bất công do hành vi của người phạm tội gây ra phải được đền bù bằng hình phạt, thông qua đó trật tự pháp luật bị xâm phạm được khôi phục. Việc áp dụng hình phạt nhằm đảm bảo công lý, công bằng. Cơ sở pháp lý và ý nghĩa của hình phạt theo học thuyết hình phạt tuyệt đối, chỉ nằm ở sự trừng trị, trả thù, có nghĩa là bằng việc áp dụng hình phạt, sự bất công mà người phạm tội đã có lỗi gây ra được đền bù công bằng. Còn F. Hegel lại coi hình phạt là sự phủ định của sự phủ định (Negation der Negation). Ông cho rằng, tội phạm là sự phủ định các quyền, nên hình phạt là công cụ để phủ định tội phạm, nhằm khôi phục lại các quyền đã bị vi phạm. Hình phạt là sự trừng trị, trả thù của Nhà nước, là điều ác trả bằng điều ác. Hình phạt chỉ có mục đích tự thân, không có mục đích cải tạo, răn đe, phòng ngừa chung. Quan niệm thứ hai, coi hình phạt là công cụ phòng ngừa tội phạm. Học thuyết về phòng ngừa tội phạm của hình phạt hay còn gọi là học thuyết hình phạt tương đối do Cesare Beccaria, một luật gia người Italia khởi xướng, sau đó là Jeremy Bentham, P.J.A. Feuerbach và F. v. Liszt. Theo học thuyết này, hình phạt không hướng vào việc trả thù người phạm tội mà chỉ nhằm phòng ngừa tội phạm trong tương lai. Quan niệm thứ ba, coi hình phạt không chỉ có mục đích trừng trị mà còn có mục đích phòng ngừa tội phạm. Những người đại diện cho quan niệm này là A. Merkel; R.V. Hippel; H. L. A. Hart. Với nhận thức về hình phạt như trên, nên trong khoa học luật hình sự nước ngoài có những định nghĩa về khái niệm hình phạt như: "Hình phạt là sự trừng trị được luật quy định để phòng ngừa và trấn áp hành vi cấu thành tội phạm gây tổn hại đến trật tự xã hội ; sự trừng trị buộc người phạm tội 7
- phải chịu trong lĩnh vực hình sự thuộc quyền của thẩm phán hình sự, chiểu theo quy định của pháp luật"; "Hình phạt là sự đền bù của hành vi trái pháp luật nghiêm trọng bằng việc trừng trị các điều ác được làm thích ứng với mức độ của sự bất công và lỗi. Nó là sự khiển trách công khai hành vi trái pháp luật, qua đó khôi phục lại công lý. Ngoài ra, hình phạt cần phải mở rộng sự tác động tích cực vào người phạm tội "[4] Còn trong công tác nghiên cứu, phát triển khoa học luật hình sự Việt Nam, các nhà làm luật đi theo chiều hướng tiến bộ, tích cực về hình phạt, nên đã đưa ra những định nghĩa về hình phạt, ít nhiều có sự khác biệt nhưng cơ bản là thống nhất như sau: GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa nêu quan điểm của mình trong cuốn Trách nhiệm hình sự và Hình phạt: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nhà nước nghiêm khắc nhất được quy định trong LHS, do Tòa án áp dụng cho chính người đã thực hiện tội phạm, nhằm trừng trị và giáo dục họ, góp phần vào việc đấu tranh phòng và chống tội phạm, bảo vệ chế độ và trật tự xã hội cũng như các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân"[5] Còn theo GS.TS. Võ Khánh Vinh trong cuốn Nguyên tắc công bằng trong Luật hình sự Việt Nam: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất do luật quy định được Toà án nhân dân nhân danh Nhà nước quyết định trong bản án đối với người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm và được thể hiện ở việc tước đoạt hoặc hạn chế các quyền và lợi ích do pháp luật quy định đối với người bị kết án"[6] Theo PGS.TSKH. Lê Cảm trong Hình phạt và biện pháp tư pháp trong Luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số 8, có viết: "Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của nhà nước được quyết định trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Toà án để tước bỏ hay hạn chế quyền, tự do của người bị kết án theo các quy định của pháp luật hình sự"[7] Tổng kết lại là, trong khi có quá nhiều các định nghĩa khác nhau về khái niệm hình phạt và hầu như mỗi định nghĩa trong số đó đều có những khía cạnh hợp lý thì chúng ta có thể hiểu rằng hình phạt là một phạm trù phức tạp, đa hình đa dạng, không những mang tính khách quan, lịch sử mà còn mang tính giai cấp nữa. 8
- Không một định nghĩa nào có thể khái quát được hết các đặc điểm của hình phạt. Do đó, mục tiêu của các nhà nghiên cứu luật đó là, tìm ra một cái nhìn, một nhận thức thống nhất nào đó, dù chỉ là tương đối, về khái niệm hình phạt. Sau khi tham khảo các quan điểm về hình phạt, tác giả có đề xuất một định nghĩa về khái niệm hình phạt như sau: Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nhà nước nghiêm khắc nhất, được quy định trong bộ luật hình sự, do toà án quyết định trong bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật đối với chính người đã có lỗi trong việc thực hiện tội phạm để tước bỏ hay hạn chế quyền, tự do của người bị kết án nhằm cải tạo, giáo dục người phạm tội và phòng ngừa tội phạm. Theo từ điển Luật học, cải tạo không giam giữ là việc buộc người phạm tội phải tự cải tạo duối sự giám sát của cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội nơi họ làm việc hoặc cư trú qua việc phải thực hiện những nghĩa vụ nhất định. Hình phạt cải tạo không giam giữ được đề cập lần đầu tiên trong Luật nghĩa vụ quân sự được Quốc hội thông qua ngày 30/12/1981: “Người nào đang ở lứa tuổi làm nghĩa vụ quân sự mà không chấp hành đúng những quy định về đăng ký nghĩa vụ quân sự, không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ, lệnh gọi tập trung huấn luyện thì tùy mức độ nhẹ hoặc nặng mà bị xử lý bằng biện pháp hành chính, bị phạt cải tạo không giam giữ từ ba tháng đến hai năm, hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm” [9] Tại Điều 6 của pháp lệnh Trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép năm 1982, hình phạt cải tạo không giam giữ một lần nữa được nhắc đến: “Người nào kinh doanh không có giấy phép hoặc không đúng với nội dung được phép, trốn thuế, không niêm yết giá, nâng giá cao hơn giá niêm yết, không đăng ký nhãn hiệu hàng hoá, sử dụng trái phép nhãn hiệu hàng hoá hoặc dùng thủ đoạn khác để lừa dối cơ quan Nhà nước và người tiêu dùng thì bị phạt cải tạo không giam giữ từ ba tháng đến hai năm, hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm, và bị phạt tiền gấp ba lần trị giá hàng phạm pháp”.[10] Ở bộ luật hình sự 1999, hình phạt cải tạo không giam giữ là một trong những hình phạt chính. Điều 31 bộ luật hình sự năm 1999 ghi nhận những thay đổi về nội dung của hình phạt này như sau: 9
- “1. Cải tạo không giam giữ được áp dụng từ sáu tháng đến ba năm đối với người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật này quy định mà đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú rõ ràng, nếu xét thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội. Nếu người bị kết án đã bị tạm giữ, tạm giam thì thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cứ một ngày tạm giữ, tạm giam bằng ba ngày cải tạo không giam giữ. 2. Tòa án giao người bị phạt cải tạo không giam giữ cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó thường trú để giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục người đó. 3. Người bị kết án phải thực hiện một số nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ và bị khấu trừ một phần thu nhập từ 5% đến 20% để sung quỹ nhà nước. Trong trường hợp đặc biệt, Toà án có thể cho miễn việc khấu trừ thu nhập, nhưng phải ghi rõ lý do trong bản án.”[60] Hình phạt cải tạo không giam giữ được quy định trong bộ luật hình sự Việt Nam thể hiện quan điểm nhân đạo và chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta đối với người phạm tội, chứng tỏ khả năng tự cải tạo, hướng thiện người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội của họ. Đó là một trong những biện pháp nhân đạo nhằm cải thiện hiệu quả của công tác đấu tranh phòng chống, giáo dục, cảm hóa, cải tạo người phạm tội để giúp họ sớm cải tạo về hòa nhập cộng đồng. Khái niệm hình phạt cải tạo không giam giữ được tác giả đề xuất như sau:Hình phạt cải tạo không giam giữ là một trong những biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước do Bộ luật hình sự Việt Nam quy định, người bị kết án không bị cách ly khỏi xã hội mà được giao cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục, khi họ phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng, có nơi cư trú rõ ràng và Tòa án xét thấy không cần thiết phải cách ly khỏi xã hội cũng đủ để giáo dục, cải tạo họ thành người tốt 10
- * Bản chất của hình phạt cải tạo không giam giữ. Cải tạo không giam giữ được quy định tại Điều 36 Bộ luật hình sự 2015, cụ thể: “1. Cải tạo không giam giữ được áp dụng từ 06 tháng đến 03 năm đối với người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật này quy định mà đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi cư trú rõ ràng nếu xét thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội. Nếu người bị kết án đã bị tạm giữ, tạm giam thì thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cứ 01 ngày tạm giữ, tạm giam bằng 03 ngày cải tạo không giam giữ. 2. Tòa án giao người bị phạt cải tạo không giam giữ cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã trong việc giám sát, giáo dục người đó. 3. Trong thời gian chấp hành án, người bị kết án phải thực hiện một số nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ và bị khấu trừ một phần thu nhập từ 05% đến 20% để sung quỹ nhà nước. Việc khấu trừ thu nhập được thực hiện hàng tháng. Trong trường hợp đặc biệt, Tòa án có thể cho miễn việc khấu trừ thu nhập, nhưng phải ghi rõ lý do trong bản án. Không khấu trừ thu nhập đối với người chấp hành án là người đang thực hiện nghĩa vụ quân sự. 4. Trường hợp người bị phạt cải tạo không giam giữ không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt này thì phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ. Thời gian lao động phục vụ cộng đồng không quá 04 giờ trong một ngày và không quá 05 ngày trong 01 tuần. Không áp dụng biện pháp lao động phục vụ cộng đồng đối với phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 06 tháng tuổi, người già yếu, người bị bệnh hiểm nghèo, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng. Người bị kết án cải tạo không giam giữ phải thực hiện những nghĩa vụ quy định tại Luật thi hành án hình sự.”[31] 11
- Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Cải tạo không giam giữ chính được sinh ra để đáp ứng các yêu cầu đó. Bản chất của hình phạt vẫn được thể hiện qua việc người bị kết án bị hạn chế sự tự do, bị theo dõi, giám sát, hoàn toàn không được tự do như người bình thường mặc dù không phải ngồi tù. Theo quy định của bộ luật hình sự Việt Nam, hình phạt cải tạo không giam giữ là hình phạt chính, tuy mang tính chất nhẹ hơn hình phạt tù nhưng nặng hơn hình phạt tiền và hình phạt cảnh cáo. Việc quy định hình phạt này tạo ra sự lựa chọn cho Toà án khi áp dụng đối với các trường hợp phạm tội mà vừa muốn răn đe, trừng trị nhưng vẫn thể hiện được sự khoan dung, mềm mỏng của Đảng và nhà nước. Sự áp dụng hình phạt tù là không cần thiết khi áp dụng đối với người phạm tội trong trường hợp đó, thì được áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ. Đặc biệt, khi Toà tuyên áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ cho người phạm tội có thể tuyên cùng lúc một (nhiều) hình phạt bổ sung kèm theo. 1.1.2. Đặc điểm của hình phạt cải tạo không giam giữ Trong pháp luật Việt Nam, hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự là biện pháp cưỡng chế “nặng” nhất được Nhà nước áp dụng khi muốn tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người bị kết án. Nhà nước đặt ra hình phạt nhưng hình phạt đó phải tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi do người phạm tội thực hiện. Những yếu tố quyết định mức độ nguy hiểm cho xã hội như: Nhân thân người phạm tội, các quan hệ xã hội đã bị xâm phạm, hậu quả đã xảy ra hoặc sẽ xảy ra cho xã hội, tâm lý chủ quan của người phạm tội. Theo quy định pháp luật hình sự, các hình phạt được quy định là hình phạt chính được sắp xếp theo mức độ tang dần như sau: Cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình; Một là, hình phạt cải tạo không giam giữ được coi là nhẹ hơn hình phạt tù. Hình phạt cải tạo không giam giữ được áp dụng từ sáu tháng đến ba năm trong trường hợp người kết án thuộc loại tội ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng, 12
- có nơi làm việc rõ ràng hoặc có nơi thường trú ổn định. Vì vậy, đặc điểm chính của hình phạt cải tạo không giam giữ là vừa có thể trừng trị và giáo dục người bị kết án mà không phải cách ly họ ra khỏi cuộc sống bình thường. Như vậy, người phạm tội vừa được tham gia lao động trong môi trường phù hợp vừa được trả công lao động và được hưởng các chế độ xã hội như trước khi bị kết án. Hai là, hình phạt cải tạo không giam giữ chính là việc thi hành án cải tạo không giam giữ không phải được giao cho một cơ quan duy nhất chuyên trách thực hiện. Nhiệm vụ giám sát, trông coi người bị kết án là của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và tổ chức xã hội nơi người người phạm tội sinh sống và làm việc. Đây là hình phạt thể hiện rõ quan điểm xã hội hoá công tác thi hành án của Đảng và nhà nước ta. Sự hiệu quả của chính sách này phụ thuộc vào sự phối hợp giữa cơ quan, tổ chức và gia đình người bị kết án. Những cơ quan, tổ chức nêu trên được tự mình quản lý hết các biện pháp để giám sát người bị kết án, cụ thể: - Cơ quan, tổ chức trực tiếp quản lý người bị kết án, nếu người đó là cán bộ, công chức, người đang học tập tại các cơ sở giáo dục, đào tạo; - Doanh nghiệp, hợp tác xã nếu người bị kết án là người làm công ăn lương; - Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người bị kết án cư trú, nếu người đó không thuộc đối tượng của ba cơ quan tổ chức nêu trên; - Đơn vị quân đội từ cấp đại đội hoặc tương đương trở lên, nếu người bị kết án là quân nhân, công nhân quốc phòng. Cũng theo nghị định này, cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục người bị kết án có quyền và trách nhiệm như sau: - Phân công người trực tiếp giám sát, giáo dục người bị kết án; - Tạo điều kiện để người phạm tội sinh sống, làm việc và học tập bình thường trong môi trường của cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương mình; - Kết hợp cùng với các cơ quan, tổ chức khác và gia đình người phạm tội tạo điều kiện trong việc giáo dục, cảm hoá, giúp họ sửa sai những sai lầm đã phạm phải. - Yêu cầu người phạm tội thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đã nêu trong bản án; có biện pháp ngăn ngừa, cải tạo khẩn trương khi người phạm tội có biểu hiện tiêu cực và thông báo ngay với cơ quan quản lý để xử lý khi cần thiết; 13
- - Tuyên dương người phạm tội khi họ có nhiều tiến bộ, tích cực tham gia vào các hoạt động xã hội, lập thành tích khi sinh hoạt trong đơn vị. - Xem xét các yêu cầu hợp lý để cho phép người phạm tội được vắng mặt ở nơi sinh sống; - Xem xét đề nghị của người phạm tội để đề nghị Toà án cấp huyện hoặc Toà án quân sự khu vực nơi người đó đang chấp hành hình phạt về việc giảm tải thời hạn; miễn chấp hành thời hạn áp dụng hình phạt còn lại theo quy định của pháp luật; - Cấp giấy chứng nhận đã chấp hành đủ thời hạn cải tạo không giam giữ cho người phạm tội; - Nhận xét phải được soạn bằng văn bản và ghi vào sổ theo dõi tất cả quá trình chấp hành hình phạt của người phạm tội trong trường hợp người đó được chuyển đi nơi khác; - Tiến hành khấu trừ một phần thu nhập của người phạm tội theo quyết định của Toà án để giao nộp cho cơ quan thi hành án dân sự. - Đối với người phạm tội là cán bộ, công chức, quân nhân, công nhân quốc phòng, người lao động làm công ăn lương, người đang học tập tại các cơ sở giáo dục, đào tạo chấp hành hình phạt tại cơ quan, tổ chức, đơn vị quân đội, cơ sở giáo dục, đào tạo, thì ngoài những trách nhiệm và quyền trên, Thủ trưởng cơ quan, tổ chức, đơn vị quân đội, cơ sở giáo dục, đào tạo đó còn có trách nhiệm phối hợp với Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người phạm tội học tập, làm việc và sinh sống Ba là, hình phạt cải tạo không giam giữ là hình phạt chính nặng nhất trong số các hình phạt không phải là tù, nó chỉ đứng sau hình phạt tù có thời hạn, các trường hợp phạm tội bị áp dụng hình phạt này khi mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội họ gây ra không lớn hoặc chưa đến mức phải chịu hình phạt tù và nếu cảnh cáo và phạt tiền thì quá nhẹ đối với hành vi phạm tội mà cá nhân đó gây ra. Người bị kết án phải tự mình cố gắng cải tạo, tự sửa chữa lỗi lầm bản thân mình và chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật của Nhà nước; tích cực tham gia lao động công ích, phấn đấu học tập, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ công dân, quy tắc tại nơi mình cư trú, sinh sống, làm việc. 14