Luận văn Hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật Việt Nam

pdf 73 trang vuhoa 24/08/2022 8680
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_hieu_luc_cua_thoa_thuan_ve_che_do_tai_san_cua_vo_ch.pdf

Nội dung text: Luận văn Hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THỊ HÒA HIỆU LỰC CỦA THỎA THUẬN VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự Mã số: 60 38 01 03 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Văn Cừ Hà Nội - 2016
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Lê Thị Hòa 2
  3. MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục chữ viết tắt MỞ ĐẦU 7 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu 7 2. Mục tiêu nghiên cứu 8 2.1. Mục tiêu tổng quát 8 2.2. Mục tiêu cụ thể 8 3. Tính mới và những đóng góp của đề tài 9 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 10 5. Tổng quan tài liệu 10 6. Nội dung, địa điểm và phương pháp nghiên cứu 11 6.1. Nội dung nghiên cứu 11 6.2. Phương pháp nghiên cứu 11 6.3. Địa điểm nghiên cứu 11 7. Kết cấu luận văn 11 Chƣơng 1. LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HIỆU LỰC CỦA THỎA THUẬN VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG 14 1.1. Khái niệm thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng 14 1.1.1. Chế độ tài sản của vợ chồng 14 1.1.2. Các loại chế độ tài sản của vợ chồng 17 1.1.3. Thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng trước khi kết hôn 18 1.2. Khái niệm hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản cua vợ chồng 18 1.3. Điều kiện, thời điểm có hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng 21 1.4. Vai trò, ý nghĩa của hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ 3
  4. chồng 23 1.5. Hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng ở một số nước trên thế giới 25 1.5.1. Pháp luật Hoa Kỳ 25 1.5.2. Pháp luật Pháp 26 1.5.3. Pháp luật Nhật Bản 27 1.5.4. Pháp luật Trung Quốc 28 1.5.5. Pháp luật Úc 29 Kết luận chương 1 30 Chƣơng 2. PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HIỆU LỰC CỦA THỎA THUẬN VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG 31 2.1. Hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng thời kỳ trước Luật HN&GĐ năm 2014 31 2.1.1. Hiệu lực của hỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật miền Nam trước năm 1975 33 2.1.2. Hiệu lực của hỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật HN&GĐ từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến Luật HN&GĐ năm 2000 33 2.2. Hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ trong theo Luật HN&GĐ năm 2014 36 2.2.1. Việc công nhận chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận 37 2.2.2. Sửa đổi, bổ sung nội dung của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng 39 2.2.3. Thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu 40 2.2.4. Hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng khi huỷ hôn nhân trái pháp luật 45 2.2.5. Hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng khi huỷ hôn nhân trái pháp luật khi vợ, chồng chết 46 4
  5. 2.2.6. Hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng khi huỷ hôn nhân trái pháp luật khi vợ chồng ly hôn 49 Kết luận chương 2 52 Chƣơng 3. THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THỎA THUẬN VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG 53 3.1. Thực tiễn áp dụng thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng 53 3.2. Kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng 60 3.2.1. Những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng 60 3.2.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng 62 3.2.2.1. Phát huy vai trò của công tác tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng 62 3.2.2.2. Giải pháp nâng cao chất lượng xét xử các vụ việc liên quan tới chế độ tài sản của vợ chồng 63 3.2.2.3. Giải pháp nâng cao chất lượng công chứng của các tổ chức hành nghề công chứng 65 Kết luận chương 3 67 KẾT LUẬN 68 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 69 5
  6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLDS Bộ luật Dân sự HN&GĐ HN&GĐ DLBK Bộ luật Dân sự Bắc kỳ năm 1931 BLTK Bộ luật Dân sự Trung kỳ năm 1936 DLGYNK Dân luật giản yếu Nam Kỳ năm 1883 TAND Tòa án nhân dân 6
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Gia đình là tế bào của xã hội. Khi cuộc sống gia đình hạnh phúc, ấm no sẽ tạo điều kiện cho xã hội ngày càng văn minh, phát triển. Với mục đích tạo lập và duy trì gia đình bền vững, pháp luật đã tham gia điều chỉnh quan hệ HN&GĐ, đặc biệt là quan hệ vợ chồng. Bên cạnh việc điều chỉnh quan hệ nhân thân, pháp luật cũng dành nhiều quy định điều chỉnh các quan hệ tài sản giữa vợ và chồng. Các quy định pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng cũng thường xuyên được rà soát, sửa đổi, bổ sung để phù hợp với thực tiễn cuộc sống. Đặc biệt, pháp luật Việt Nam hiện hành tôn trọng thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng. Vấn đề thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng lần đầu tiên được nhắc đến trong Bộ luật dân sự Bắc Kỳ năm 1931 (DLBK), Bộ luật dân sự Trung Kỳ năm 1936 (DLBK), sau đó được đưa vào các văn bản luật của miền Nam Việt Nam như Luật gia đình năm 1959, Sắc Luật 15/64 ngày 23/7/1964 và Bộ luật dân sự năm 1972. Gần đây nhất, chế định này được hoàn thiện hơn trong Luật HN& GĐ năm 2014. Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng, đa dạng của đời sống kinh tế - xã hội đã và đang làm bộc lộ nhiều điểm bất cập của pháp luật. Trong đó, hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng nổi lên như là vấn đề bức thiết bởi những năm gần đây, các tranh chấp về tài sản vợ chồng, đặc biệt là về thỏa thuận tài sản chung của vợ chồng xảy ra rất nhiều. Thêm nữa, những tranh chấp này thường là những tranh chấp phức tạp và kéo dài, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình cảm giữa các thành viên trong gia đình và sự ổn định của xã hội. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên một phần là do tính chất đa dạng, phức tạp của các quan hệ tài sản của vợ chồng. Mặt khác, tình trạng gia tăng các tranh chấp về tài sản của vợ chồng cũng cho thấy những bất cập của pháp luật về vấn đề này. Các quy định này đã bộc lộ nhiều hạn chế, vướng mắc gây khó 7
  8. khăn, thậm chí lúng túng trong quá trình áp dụng pháp luật của các đương sự cũng như của Tòa án khi tiến hành giải quyết các vấn đề liên quan tới thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng. Luật HN&GĐ năm 2014 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2015) có một quy định mới đáng chú ý, đó là quy định về việc thỏa thuận tài sản vợ chồng trước khi kết hôn (nhiều người gọi là Hợp đồng hôn nhân hay Hôn ước). Cụ thể, trước khi đăng ký kết hôn, hai người có thể lập một văn bản thỏa thuận về tài sản nào của riêng vợ, tài sản nào của riêng chồng và tài sản nào sẽ là của chung hai vợ chồng. Bên cạnh đó, vợ chồng cũng có thể thỏa thuận bất cứ một nội dung nào khác có liên quan tới tài sản của hai người, chẳng hạn quyền và nghĩa vụ của mỗi người, điều kiện, nguyên tắc phân chia tài sản Việc lập thỏa thuận tài sản vợ chồng trước khi kết hôn nhằm củng cố vững chắc quan hệ vợ chồng bởi vì nếu hiểu rõ ràng ý kiến của nhau về tiền bạc, tài sản sẽ giúp cuộc hôn nhân lâu bền hơn, việc thỏa thuận tài sản vợ chồng trước khi kết hôn còn bảo đảm cho một cam kết hôn nhân thực sự chứ không vì hôn nhân vụ lợi, góp phần làm giảm tranh chấp khi ly hôn. Tuy nhiên, trên thực tế rất ít trường hợp các cặp vợ chồng thỏa thuận về chế độ tài sản trước khi kết hôn vì người dân còn chưa nắm vững quy định pháp luật, quan niệm của người dân về hôn nhân nặng về tình cảm. Thực trạng trên cho thấy, cần thiết thực hiện công trình nghiên cứu sâu về thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng để nhận dạng những điểm chưa hợp lý của pháp luật và đưa ra những giải pháp để hoàn thiện pháp luật. Với nhận thức như vậy, tôi đã lựa chọn vấn đề “Hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật Việt Nam" làm đề tài luận văn thạc sỹ luật học của mình. 2. Mục tiêu nghiên cứu 2.1. Mục tiêu tổng quát 8
  9. Việc nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ về thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ theo pháp luật Việt Nam nhằm phân tích, đánh giá các điều luật, tạo điều kiện cho việc nhận thức và áp dụng trên thực tế một cách thống nhất, đồng bộ và đạt hiệu quả. Qua đó, tìm ra những tồn tại, bất cập của các quy định của pháp luật, đưa ra những giải pháp hữu ích đóng góp vào quá trình xây dựng hoàn thiện quy định của pháp luật về thỏa thuận chế độ tài sản của vợ chồng trong luật HN&GĐ năm 2014. 2.2. Mục tiêu cụ thể Việc nghiên cứu đề tài nhằm làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của các quy định pháp luật về hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng, chủ yếu là các quy định của pháp luật Việt Nam. Từ đó mục tiêu cụ thể của đề tài là giải quyết về mặt lý luận các khái niệm thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài cũng như các vấn đề có liên quan. Bên cạnh đó, đề tài cũng đưa ra thực trạng thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng nhằm phát hiện những bất cập, hạn chế trong quá trình áp dụng pháp luật về vấn đề này, chỉ ra những điểm còn thiếu sót, chưa phù hợp của luật thực định. Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra một số kiến nghị, giải pháp có tính chất khả thi nhằm góp phần hoàn thiện quy định pháp luật về thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống. 3. Tính mới và những đóng góp của đề tài Thời gian qua, đã có một số công trình nghiên cứu về thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng. Tuy nhiên, so với những công trình đã nghiên cứu trước đây, đề tài có hướng nghiên cứu khác và có những nội dung mới, cụ thể: Thứ nhất, đề tài đi sâu nghiên cứu về chế thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ, đặc biệt là Luật Dân sự và Luật HN&GĐ hiện hành. 9
  10. Thứ hai, luận văn nghiên cứu các quy định mới của Luật Dân sự và Luật HN&GĐ hiện hành về thỏa thuận chế độ tài sản của vợ chồng. Đồng thời, so sánh chế định này với chế định hôn ước, hợp đồng hôn nhân của pháp luật của một số quốc gia trên thế giới. Thứ ba, luận văn đi sâu phân tích hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng nhằm xác định điều kiện có hiệu lực, thời điểm có hiệu lực, quyền nghĩa vụ của vợ chồng về thỏa thuận chế độ tài sản trước khi kết hôn. Thứ tư, luận văn cũng đưa ra những ví dụ cụ thể về thực tiễn áp dụng các quy định thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng sau hơn 1 năm kể từ khi Luật HN&GĐ năm 2014 có hiệu lực để thấy được những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế nhằm đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên cứu, hoàn thiện chế định pháp luật về thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng, từ đó nâng cao vai trò và hiệu quả điều chỉnh của pháp luật đối với đời sống xã hội. Luận văn cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảocho việc nghiên cứu và học tập các môn học như Luật Dân sự, Luật HN&GĐ ở các cơ sở đào tạo pháp luật tại Việt Nam. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ, đề tài chỉ đi sâu nghiên cứu các quy định về thỏa thuận chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật Việt Nam mà không nghiên cứu về chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định. Đặc biệt, luận văn tập trung nghiên cứu các quy định về hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng trong Luật HN&GĐ năm 2014. Bên cạnh đó, đề tài chỉ điểm qua, không đi sâu phân tích các quy định về thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng trong toàn bộ hệ thống pháp luật Việt Nam từ trước đến nay. 5. Tổng quan tài liệu 10
  11. Trong những năm gần đây, đã có nhiều công trình nghiên cứu về thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng, điển hình như: (1) Nguyễn Văn Cừ, Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận trong pháp luật HN&GĐ Việt Nam, Tạp chí Luật học số 4/2015; (2) Nguyễn Văn Cừ, Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật HN&GĐ Việt Nam, Nhà xuất bản Tư pháp, 2008; (3) Nguyễn Ngọc Điện, Bình luận khoa học Luật HN&GĐ Việt Nam, tập II, Các quan hệ tài sản giữa vợ chồng, Nhà xuất bản trẻ, 2004; (4) Bùi Minh Hồng, Chế độ tài sản theo chế độ thỏa thuận của vợ chồng liên hệ từ pháp luật nước ngoài đến pháp luật Việt Nam, Tạp chí Luật học số 11, năm 2009. Các công trình nghiên cứu trên đã làm rõ được những vấn đề lý luận cơ bản và quy định của Luật Dân sự và Luật HN&GĐ về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận. Tuy nhiên, một số công trình nghiên cứu trên được viết trước thời điểm Luật HN&GĐ năm 2014 ra đời. Vì thế, có những quy định mới về thỏa thuận chế độ tài sản của vợ chồng cần được làm rõ. Mặt khác, theo tính chất đề tài, có công trình được viết chủ yếu theo quy định của Luật Dân sự và Luật HN&GĐ năm 2014 nhưng chỉ phân tích, đánh giá chung các quy định về chế độ tài sản của vợ chồng mà không nghiên cứu sâu vấn đề này. Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên của tác giả về thỏa thuận chế độ tài sản của vợ chồng, hy vọng rằng với nền tảng của các công trình nghiên cứu trước và trên cơ sở tham khảo những tài liệu có liên quan được viết trong thời gian gần đây, đề tài sẽ có những đóng góp nhất định trong việc xây dựng và hoàn thiện Luật HN&GĐ, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn cuộc sống. 6. Nội dung, địa điểm và phƣơng pháp nghiên cứu 6.1. Nội dung nghiên cứu Luận văn đi sâu nghiên cứu các nội dung về: Những vấn đề lý luận cơ bản về thỏa thuận tài sản của vợ chồng; Pháp luật Việt Nam về vấn đề thỏa thuận chế độ tài sản của vợ chồng; Thực tiễn áp dụng tại các quy định này và 11
  12. các giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về thỏa thuận chế độ tài sản của vợ chồng. 6.2. Phƣơng pháp nghiên cứu Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Quá trình nghiên cứu, đề tài sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp lịch sử, phương pháp điều tra xã hội học, phương pháp thống kê. Trong quá trình nghiên cứu có sự kết hợp giữa lý thuyết và thực tiễn thông qua điều tra, khảo sát, từ đó đánh giá bản chất của hiện tượng trong phạm vi đề tài nghiên cứu. 6.3. Địa điểm nghiên cứu Luận văn nghiên cứu trên lãnh thổ Việt Nam. 7. Kết cấu luận văn Với định hướng trên, ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được kết cầu gồm 3 chương: Chương 1. Lý luận cơ bản về hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng 1.1. Khái niệm thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng 1.1.1. Chế độ tài sản của vợ chồng 1.1.2. Các loại chế độ tài sản của vợ chồng 1.1.3. Thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng trước khi kết hôn 1.2. Khái niệm hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản cua vợ chồng 1.3. Điều kiện, thời điểm có hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng 1.4. Vai trò, ý nghĩa của hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng 1.5. Hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng ở một số nước trên thế giới 12
  13. 1.5.1. Pháp luật Hoa Kỳ 1.5.2. Pháp luật Pháp 1.5.3. Pháp luật Nhật Bản 1.5.4. Pháp luật Trung Quốc 1.5.5. Pháp luật Úc Chương 2. Pháp luật Việt Nam về hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng 2.1. Hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng thời kỳ trước Luật HN&GĐ năm 2014 2.1.1. Hiệu lực của hỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật miền Nam trước năm 1975 2.1.2. Hiệu lực của hỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật HN&GĐ từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến Luật HN&GĐ năm 2000 2.2. Hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ trong theo Luật HN&GĐ năm 2014 2.2.1. Việc công nhận chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận 2.2.2. Sửa đổi, bổ sung nội dung của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng 2.2.3. Thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu 2.2.4. Hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng khi huỷ hôn nhân trái pháp luật 2.2.5. Hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng khi huỷ hôn nhân trái pháp luật khi vợ, chồng chết 2.2.6. Hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng khi huỷ hôn nhân trái pháp luật khi vợ chồng ly hôn Chương 3. Thực tiễn áp dụng và kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về thỏa thuận chế độ tài sản của vợ chồng 3.1. Thực tiễn áp dụng thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng 3.2. Kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về thỏa thuận về chế độ tài 13
  14. sản của vợ chồng 3.2.1. Những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng 3.2.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng 3.2.2.1. Phát huy vai trò của công tác tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng 3.2.2.2. Giải pháp nâng cao chất lượng xét xử các vụ việc liên quan tới chế độ tài sản của vợ chồng 3.2.2.3. Giải pháp nâng cao chất lượng công chứng của các tổ chức hành nghề công chứng 14
  15. Chƣơng 1. LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HIỆU LỰC CỦA THỎA THUẬN VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG 1.1. Khái niệm thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng 1.1.1. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận Tài sản vợ chồng là một trong những nội dung quan trọng của luật HN&GĐ. Sau khi kết hôn, tài sản chung được hình thành, các lợi ích và các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với khối tài sản này cũng vì thế mà hình thành. Do tài sản không chỉ gắn liền với những lợi ích thiết thực của hai bên mà còn liên quan đến người thứ ba, đặc biệt là khi vợ chồng tham gia vào hoạt động kinh doanh thương mại nên vấn đề này lúc nào cũng nảy sinh nhiều mâu thuẫn, đặc biệt là sau khi vợ chồng ly hôn. Thực tiễn xét xử cho thấy, phần lớn các tranh chấp của vợ chồng có liên quan đến tài sản. Sự phức tạp trong việc xác định tài sản chung, tài sản riêng vợ chồng cùng những hạn chế trong việc quy định về chế độ tài sản vợ chồng trong luật dân sự, luật HN&GĐ nước ta ngày càng trở nên bất cập. Một mặt, việc giải quyết các xung đột trên không thể đảm bảo được công bằng, bình đẳng giữa các chủ thể (người vợ thường thiệt thòi về tài sản sau khi ly hôn). Mặt khác, số lượng và độ phức tạp của các vụ việc liên quan đến tranh chấp tài sản vợ chồng ngày càng gia tăng gây khó khăn và tốn kém cho ngành tư pháp. Trước khi nghiên cứu giải pháp cho tình trạng trên thì việc làm rõ các khái niệm chế độ tài sản vợ chồng và các hình thức là cần thiết. Cho đến nay, pháp luật Việt Nam vẫn chưa có một khái niệm về chế độ tài sản của vợ chồng nào được ghi nhận trong một văn bản pháp luật của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Chế độ tài sản của vợ chồng được quy định trong luật như một tất yếu khách quan để điều chỉnh quan hệ tài sản của vợ chồng, góp phần ổn định các quan hệ xã hội. 15
  16. Chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định là tổng hợp các quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh về tài sản của vợ chồng, bao gồm các quy định về căn cứ xác lập tài sản, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng; nguyên tắc phân chia tài sản giữa vợ chồng. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận là hệ quả của thỏa thuận giữa hai vợ chồng về lựa chọn chế độ tài sản trong thời kỳ hôn nhân. Pháp luật ở các quốc gia trên thế giới đều quy định về chế độ tài sản của vợ chồng, có thể không giống nhau. Ngay tại một quốc gia, chế độ tài sản của vợ chồng được quy định có thể khác nhau theo từng giai đoạn phát triển. Điều này phụ thuộc vào quan điểm, chính sách pháp luật, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, truyền thống, tập quán của mỗi nước. Chế độ tài sản của vợ chồng thực chất là chế độ sở hữu của vợ chồng. Vợ, chồng với tư cách là công dân, vừa là chủ thể của quan hệ HN&GĐ, vừa là chủ thể của quan hệ dân sự khi thực hiện quyền sở hữu của mình bằng cách tham gia các giao dịch dân sự. Chế độ tài sản của vợ chồng có một số đặc điểm sau: Thứ nhất, về mặt chủ thể của quan hệ sở hữu trong chế độ tài sản này, các bên phải có quan hệ hôn nhân hợp pháp với tư cách là vợ chồng của nhau. Vì thế, để trở thành chủ thể của quan hệ sở hữu này, các chủ thể ngoài việc có đầy đủ năng lực chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự còn đòi hỏi họ phải tuân thủ các điều kiện kết hôn được quy định trong pháp luật HN&GĐ. Thứ hai, với vị trí, vai trò quan trọng của gia đình đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội, Nhà nước quy định chế độ tài sản của vợ chồng trong hệ thống pháp luật xuất phát từ mục đích bảo đảm quyền lợi của gia đình, trong đó có tính đến lợi ích cá nhân của vợ và chồng. Các quy định này tạo điều kiện để vợ chồng chủ động thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình đối với tài sản của vợ chồng. 16
  17. Thứ ba, chế độ tài sản này có căn cứ xác lập và chấm dứt phụ thuộc vào sự kiện phát sinh và chất dứt của quan hệ hôn nhân. Có thể nói chế độ tài sản của vợ chồng chỉ tồn tại trong thời kỳ hôn nhân. Cuối cùng, chế độ tài sản của vợ chồng cũng có những đặc thù riêng trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ thể. Đối với tài sản chung của vợ chồng, bắt buộc khi tham gia các giao dịch dân sự, kinh tế, vợ chồng phải xuất phát từ lợi ích chung của gia đình. Đối với tài sản riêng (nếu có), nguyên tắc người có tài sản có quyền tự mình định đoạt không phụ thuộc vào ý chí của người khác. Tuy nhiên, quyền năng này có thể bị hạn chế trong một số trường hợp. Chế độ tài sản của vợ chồng là một chế định trong pháp luật HN&GĐ được nhà nước quy định dựa trên sự phát triển của điều kiện kinh tế - xã hội. Nó thể hiện được tính giai cấp, bản chất của chế độ chính trị - xã hội cụ thể. Nhìn vào chế độ tại sản của vợ chồng được quy định trong pháp luật của nhà nước, người ta có thể nhận biết được trình độ phát triển của điều kiện kinh tế - xã hội và ý chí Nhà nước thể hiện bản chất của chế độ xã hội đó. Chế độ tài sản của vợ chồng được quy định trong pháp luật có ý nghĩa xác định các loại tài sản trong quan hệ giữa vợ chồng và gia đình. Khi hai bên nam nữ kết hôn với nhau trở thành vợ chồng, chế độ tài sản của vợ chồng được dự liệu với những thành phần tài sản của vợ chồng. Dù vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản ước định hay chế độ tài sản pháp định luôn được pháp luật quy định rõ ràng. Việc phân định các loại tài sản trong quan hệ giữa vợ và chồng của chế độ tào sản còn nhằm xác định các quyền và nghĩa vụ của các bên vợ, chồng đối với các loại tài sản của vợ chồng. Chế độ tài sản của vợ chồng được sử dụng với ý nghĩa là cơ sở pháp lý để giải quyết các tranh chấp về tài sản giữa vợ và chồng với nhau hoặc với những người khác trong thực tế. Điều này nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng về tài sản cho các bên vợ chồng hoặc người thứ ba tham gia giao dịch liên quan đến tài sản của vợ chồng. 17
  18. 1.1.2. Các loại chế độ tài sản của vợ chồng Tại mỗi quốc gia, các nhà làm luật đều lựa chọn chế độ tài sản của vợ chồng phù hợp với điều kiện kinh tế, truyền thống, tập quán và nguyện vọng của các cặp vợ chồng. Trong đó thể hiện rõ ý chí của nhà nước khi điều chỉnh các quan hệ tài sản giữa vợ và chồng bởi tổng hợp các quy phạm do nhà nước ban hành điều chỉnh chế độ tài sản của vợ chồng phản ánh điều kiện vật chất của xã hội đó, bảo đảm phù hợp với lợi ích, ý chí của giai cấp thống trị xã hội. Pháp luật các quốc gia trên thế giới đã quy định có hai loại chế độ tài sản của vợ chồng, đó là chế độ tài sản theo quy định của pháp luật (chế độ tài sản pháp định) và chế độ tài sản theo sự thỏa thuận của vợ chồng (chế độ tài sản ước định). - Chế độ tài sản pháp định: Chế độ tài sản pháp định là chế độ tài sản mà ở đó pháp luật đã dự liệu từ trước về căn cứ, nguồn gốc thành phần các loại tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng (nếu có); quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với từng loại tài sản đó; các trường hợp và nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng; phương thức thanh toán liên quan đến các khoản nợ chung hay riêng của vợ chồng. Chế độ tài sản này đươc tất cả dự liệu trong hệ thống pháp luật của mình nhằm điều chỉnh các quan hệ tài sản của vợ chồng. Chế độ tài sản ước định: Theo quan điểm thuần túy pháp lý của các nhà làm luật tư sản, hôn nhân thực chất là một hợp đồng, một khế ước do hai bên nam nữ thỏa thuận, xác lập trên nguyên tắc tự do, tự nguyện. Các quyền và nghĩa vụ của vợ chồng được phát sinh và thực hiện trong thời kỳ hôn nhân cũng giống như các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia giao kết hợp đồng đó. Vì vậy, pháp luật cho phép trước khi kết hôn, hai bên được quyền tự do ký kết hôn ước (hay còn gọi là khế ước) miễn sao không trái với các quy định của pháp luật và đạo đức xã hội. 18
  19. 1.1.3. Thỏa thuận về chế độ tài sản vợ chồng trước khi kết hôn Thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng trước khi kết hôn là việc vợ chồng tự thỏa thuận với nhau về việc xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với tài sản của họ. Thông thường, thỏa thuận này được thể hiện dưới dạng văn bản với nhiều tên gọi khác nhau như hợp đồng tiên hôn nhân, hôn ước hay thỏa thuận trước hôn nhân. Khi không có thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng thì tài sản của họ mới theo sự điều chỉnh của pháp luật. Trên thực tế, việc quy định như vậy bảo đảm được quyền tự định đoạt của cá nhân đối với tài sản của mình. Đặc biệt, điều đó còn cho phép vợ chồng có thể tự bảo toàn được khối tài sản riêng mình; tránh hoặc giảm những xung đột về tài sản sau khi chia tay. Từ đó cũng góp phần làm giảm chi phí ly hôn và giúp Tòa án xác định được tài sản chung, riêng dễ dàng và nhanh chóng hơn. Xét về góc độ kinh tế thì vợ chồng tự do thỏa thuận về chế độ tài sản sẽ giúp giảm thiểu những rủi ro trong kinh doanh. Nhờ đó sẽ tránh được tình trạng bấp bênh khi cả hai vợ chồng cùng tham gia những hoạt động kinh doanh có rủi ro cao. 1.2. Khái niệm hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng Hiệu lực của thỏa thuận cũng như hiệu lực của hợp đồng là vấn đề mang tính bản chất bởi suy cho cùng các bên thiết lập thỏa thuận là để ràng buộc quyền và nghĩa vụ với nhau. Khi thiết lập thỏa thuận, người ta luôn hướng đến việc tạo lập “sự ràng buộc pháp lý với nhau” và mong đợi bên kia thực hiện theo đúng thỏa thuận nhằm thỏa mãn lợi ích của các bên. Hiệu lực của thỏa thuận đối với thỏa thuận có thể coi là “linh hồn” hay “hơi thở” đối với sự sống của con người. Một thỏa thuận không có hiệu lực đồng nghĩa với các bên không có thỏa thuận. Tuy nhận thức được tính quan trọng của hiệu lực thỏa thuận như vậy nhưng để đưa ra một định nghĩa chính xác về hiệu lực của thỏa thuận là điều không hề dễ dàng. Hiện tại, trong các văn bản pháp luật Việt Nam chưa đưa ra một khái niệm chính thức về hiệu lực. Theo từ điển tiếng Việt hiệu lực là tác dụng thực 19
  20. tế, giá trị thi hành. Hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng là giá trị thi thành của thỏa thuận cũng như tác động của thỏa thuận quan hệ tài sản của vợ chồng. Vì thế, trong trường hợp này hiệu lực có thể chia thành hiệu lực pháp lý và hiệu lực thực tế. Trong hầu hết các quyển Từ điển Tiếng Việt và Từ điển chuyên ngành Luật ở Việt Nam hiện nay đều không có khái niệm “hiệu lực của thỏa thuận” mà chỉ có các khái niệm khác gần với nó như “hiệu lực của hợp đồng” trong quyển “Từ điển giải thích Luật học” của trường Đại học Luật Hà Nội, “hiệu lực của di chúc” hay “hiệu lực của văn bản pháp luật” [92, tr.289; 225, tr.203-4]. Theo các Từ điển này thì hiệu lực pháp luật (của văn bản pháp luật nói chung) “là tính bắt buộc thi hành của văn bản ”, “là giá trị pháp lý của văn bản , hoặc (giá trị) áp dụng của văn bản đó, thể hiện phạm vi tác động hoặc phạm vi điều chỉnh của văn bản về thời gian, không gian và về đối tượng áp dụng” [225, tr.202; 287, tr.357-58]. Trong Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học có giải thích khái niệm “hiệu lực của hợp đồng dân sự” là “giá trị bắt buộc thi hành đối các chủ thể tham gia giao kết hợp đồng” [241, tr.65]. Tuy ngắn gọn, nhưng định nghĩa này cũng phản ánh được bản chất của khái niệm hiệu lực hợp đồng. Tuy vậy, nội hàm của định nghĩa này vẫn chưa đầy đủ và nếu giải thích rõ ra thì cũng có phần chưa chính xác. Bởi lẽ, hiệu lực của hợp đồng, hiểu theo đúng bản chất của nó, thì không chỉ là “giá trị bắt buộc thi hành” mà còn bao gồm cả việc sáng tạo ra các quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể tham gia hợp đồng. Giá trị bắt buộc thi hành còn là đặc điểm chung của nhiều loại giao dịch pháp lý khác, chứ không phải là đặc trưng riêng có của hiệu lực hợp đồng. Trong luật thực định, khái niệm hiệu lực hợp đồng cũng được quy định trong các văn bản pháp luật của một số quốc gia. Chẳng hạn, BLDS Pháp có quy định: “Hợp đồng được giao kết hợp pháp có giá trị là luật đối với các bên”, “chỉ có thể bị hủy bỏ trên cơ sở có thỏa thuận chung, hoặc theo những căn cứ do pháp luật quy định” và “phải được thực hiện một cách thiện chí” [19, Điều 20
  21. 1134]. Theo quy định này, hợp đồng có hiệu lực thì có giá trị là luật đối với các bên, được pháp luật tôn trọng và bảo vệ, được các bên phải tuân thủ và thực hiện hợp đồng đó một cách nghiêm túc, có thiện chí. Các bên không thể hủy bỏ hợp đồng nếu không dựa trên ý chí tự nguyện của tất cả các bên hoặc các căn cứ do pháp luật quy định. Trong luật thực định Việt Nam, quy định về “hiệu lực hợp đồng” cũng được tìm thấy trong một số BLDS ở Việt Nam trước đây. Theo Điều 673 DLB 1931 và Điều 713 DLT 1936-1939, “các hợp ước được kết lập theo pháp luật cũng có hiệu lực như luật pháp đối với các bên kết ước”. Điều 687 DLSG 1972 cũng có quy định về “hiệu lực của khế ước”, với nội dung cũng tương tự nhưĐiều 1134 BLDS Pháp. BLDS 1995 từng có quy định về hiệu lực hợp đồng như sau: “1. Hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực bắt buộc đối với các bên; 2- Hợp đồng chỉ có thể bị sửa đổi hoặc huỷ bỏ, nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định ” [16, Điều 404]. BLDS 2015 không quy định cụ thể về hiệu lực của hợp đồng, mà chỉ quy định khái quát là: “hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Có thể nói, quy định này không thểhiện được bản chất của khái niệm hiệu lực hợp đồng - đó là giá trị pháp lý ràng buộc đối với các bên, mà chủ yếu là để xác định thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng. Ngoài ra, BLDS 2015 cũng có quy định chung về hiệu lực của các cam kết dân sự cam kết, thoả thuận hợp pháp có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với các bên và phải được cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác tôn trọng. Tóm lại, qua nghiên cứu khía cạnh pháp lý và từ điển của khái niệm hiệu lực thỏa thuận, chúng ta thấy có hai dấu hiệu thể hiện bản chất của nó, đó là: (i) giá trị pháp lý của thỏa thuận giống như pháp luật; và (ii) hiệu lực ràng buộc mang tính cưỡng chế nhằm buộc các bên phải tôn trọng và thực thi đầy đủ các cam kết trong thỏa thuận. Giá trị pháp lý và hiệu lực ràng buộc các bên phải tôn 21