Luận văn Hành vi sử dụng mạng xã hội của sinh viên trường đại học Hải Dương
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Hành vi sử dụng mạng xã hội của sinh viên trường đại học Hải Dương", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_hanh_vi_su_dung_mang_xa_hoi_cua_sinh_vien_truong_da.pdf
Nội dung text: Luận văn Hành vi sử dụng mạng xã hội của sinh viên trường đại học Hải Dương
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ BẮC HÀNH VI SỬ DỤNG MẠNG XÃ HỘI CỦA SINH VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC HẢI DƢƠNG Ngành: Tâm lý học Mã số: 8 31 04 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THỊ QUY HÀ NỘI – 2018
- LỜI CAM ĐOAN Sau một thơi gian học tập và nghiên cứu, tôi đã hoàn thành luận văn thạc sĩ với đề tài: “Hành vi sử dụng mạng xã hội của sinh viên Đại học Hải Dương” Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của riêng tôi và tôi chịu trách nhiệm hoàn toàn về nội dung của luận văn này trước Hội đồng và trước pháp luật. Hải Dương, ngày 28 tháng 08 năm 2018 Tác giả Nguyễn Thị Bắc
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HÀNH VI SỬ DỤNG MẠNG XÃ HỘI CỦA SINH VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC HẢI DƢƠNG 12 1.1. Mạng xã hội 12 1.2. Hành vi sử dụng mạng xã hội của sinh viên 16 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi sử dụng mạng xã hội của sinh viên 30 Chƣơng 2: TỔ CHỨC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 35 2.1. Tổ chức nghiên cứu 35 2.2. Phương pháp nghiên cứu 37 Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG BIỂU HIỆN HÀNH VI SỬ DỤNG MẠNG XÃ HỘI CỦA SINH VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC HẢI DƢƠNG 42 3.1. Mức độ sử dụng mạng xã hội của sinh viên trường Đại học Hải Dương 42 3.2. Thực trạng biểu hiện hành vi sử dụng mạng xã hội của sinh viên đại học Hải Dương 49 3.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi sử dụng mạng xã hội của sinh viên trường Đại học Hải Dương 55 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 64 TÀI LIỆU THAM KHẢO 69 PHỤ LỤC
- DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 3.1. Mức độ sử dụng các trang MXH của sinh viên Đại học Hải Dương 42 Bảng 3.2. Mục đích sử dụng mạng xã hội của sinh viên Đại học Hải Dương 44 Bảng 3.3. Nguồn biết tới mạng xã hội 45 Bảng 3.4. Thời gian dành cho mạng xã hội của sinh viên ĐH Hải Dương 46 Bảng 3.5. Thiết bị vào mạng xã hội 47 Bảng 3.6. Mức độ sử dụng mạng xã hội trong một tuần 48 Bảng 3.7. Thời gian sử dụng mạng xã hội xét theo hoàn cảnh 49 Bảng 3.8. Những nội dung được chia sẻ trên mạng xã hội 50 Bảng 3.9. Những nội dung được đăng tải trên mạng xã hội 52 Bảng 3.10. Nội dung thường được “like” 53 Bảng 3.11. Mục đích sử dụng nút “like” của sinh viên trường Đại học Hải Dương . 54 Bảng 3.12. Nhận thức về mạng xã hội 56 Bảng 3.13.Thái độ khi sử dụng mạng xã hội 58 Bảng 3.14. Động cơ thúc đẩy hành vi sử dụng mạng xã hội của sinh viên 59 Bảng 3.15. Yếu tố có mức độ ảnh hưởng đến hành vi sử dụng mạng xã hội của sinh viên 60
- DANH MỤC BẢNG VIẾT TẮT CĐ : Cao đẳng ĐH : Đại học ĐTB : Điểm trung bình MXH : Mạng xã hội NXB : Nhà xuất bản SV : Sinh viên
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong bối cảnh xã hội hiện nay, với sự phát triển không ngừng của công nghệ thông tin, Internet đang từng bước khẳng định tầm quan trọng, trong đó xuất hiện ngày một nhiều các trang mạng xã hội tạo điều kiện để cá nhân, tổ chức có nhiều cơ hội chia sẻ những thông tin của mình nhưng cũng là thách thức đối với các cơ quan quản lý chuyên ngành về đảm bảo nội dung và phạm vi hoạt động. Trong hầu hết chúng ta thì các mạng xã hội như Facebook, ZaLo, Youtbe đã nhanh chóng trở thành một phần quan trọng không thể thiếu của nhiều người đặc biệt là đối với những thế hệ trẻ, mạng xã hội (MXH) lại càng có một vai trò quan trọng và ảnh hưởng lớn đối với con người. Trong đó, mạng xã hội đã và đang sẽ là một phần của đời sống xã hội ở một bộ phận công chúng. Ngày nay khi mà công nghệ thông tin phát triển thì không ai có thể phủ nhận lợi ích mà MXH mang lại đặc biệt là giới trẻ Sự xuất hiện của MXH với những tính năng, với nguồn thông tin phong phú đa dạng, đã thật sự đi vào đời sống của cư dân mạng, với những chức năng đa dạng kéo theo sự gia tăng ngày càng đông đảo của các thành viên, Internet ở một khía cạnh nào đó đã làm thay đổi thói quen, tư duy, lối sống, văn hóa của một bộ phận sinh viên (SV) hiện nay vì đây là nguồn nhân lực có khả năng tiếp nhận những tiến bộ khoa học một cách nhanh nhạy nhất đồng thời đây cũng là lực lượng chịu tác động của các phương tiện thông tin truyền thông nhiều nhất trên cả hai phương diện tích cực và tiêu cực Ngoài những lợi ích mà MXH đem lại cho người dùng như thông tin nhanh, khối lượng thông tin phong phú được cập nhật nhanh chóng, liên tục thì chúng ta còn nhận thấy một khía cạnh quan trọng làm thay đổi đến hình thức giao tiếp giữa cá nhân với cá nhân và cá nhân với nhóm, các quốc gia, dân tộc với nhau đó chính là khả năng kết nối giữa các thành viên trong xã hội với nhau. Đây chính là không gian giao tiếp công cộng phi vật chất tạo liên kết dễ dàng, thuận tiện, nhanh nhất giữa con người với con người với nhau thông qua nhiều hình thức, liên kết rộng khắp chứ không bị giới hạn bởi chiều không gian. Lượng thông tin chia sẻ là hết sức to lớn và vô cùng phong 1
- phú, đa dạng. Chính vì vậy mà số lượng người sử dụng MXH ngày càng đông đảo và tăng lên đặc biệt là thanh thiếu niên học sinh, sinh viên trong độ tuổi từ 16 đến 24 Số lượng người sử dụng mạng xã hội tại Việt Nam đang gia tăng rất nhanh, khoảng 17% số người trưởng thành thường xuyên trao đổi qua mạng với những người không hề quen biết và tỉ lệ này tăng tỉ lệ nghịch với độ tuổi Có thể thấy sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật cùng với đời sống của người dân ngày một tăng lên thì việc tiếp cận với những cái mới từ bên ngoài là điều không mấy khó khăn, đặc biệt nhất là giới trẻ. Thông qua MXH sinh viên có thể dễ dàng truy cập MXH thông qua các phương tiện khác nhau, như máy tính bảng, laptop đặc biệt với sự phát triển khoa học 4.0 hiện nay thì qua điện thoại di động ở bất cứ đâu và tại bất cứ thời điểm nào. Sự xuất hiện của MXH với những tính năng mới, với nguồn thông tin phong phú và đa dạng đã đem lại cho công chúng nhiều sự trải nghiệm đầy thú vị tạo điều kiện cho con người giao tiếp mà còn là nơi để quảng cáo, mua bán, trao đổi, kết bạn, tìm kiếm, xây dựng các mối quan hệ. Vì vậy ở một khía cạnh nào đó mạng xã hội đã đem lại nhiều lợi ích góp phần giúp sinh viên giảm tress sau những ngày học tập và làm việc căng thẳng của. Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực kể trên cũng còn nhiều hệ lụy mà mạng xã hội mang lại như mất thời gian nhất là đối với SV làm xao nhãng việc học, sống khép kín, sa đà vào "cuộc sống ảo" trên mạng xã hội mà quên đi cuộc sống thực tế đang diễn ra, nhiều bạn trẻ tìm bạn đời trên mạng tạo cơ hội cho kẻ xấu lợi dụng bắt cóc. Họ cập nhật trạng thái cá nhân liên tục, đăng những câu nói, hình ảnh gây sốc để câu like để được nổi tiếng Câu hỏi đặt ra là tại sao họ lại có hành vi ứng xử như vậy, đâu là nguyên nhân, họ có nhận thức được vấn đề không? Vì vậy nghiên cứu thái độ và nhận thức của sinh viên dưới góc độ Tâm lý học để có được những giải pháp tối ưu nhất đang là vấn đề cấp bách của Nhà nước và những người làm công tác giáo dục hiện nay. Xuất phát từ những lý do trên tôi quyết định chọn đề tài " Hành vi sử dụng mạng xã hội của sinh viên trường Đại học Hải Dương " làm đề tài nghiên cứu luận văn. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 2.1. Những nghiên cứu trên thế giới 2
- Trong những năm trở lại đây, Mạng xã hội nói chung và Internet nói riêng đã và đang trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống của con người. Nắm được thực tế đó, đã có nhiều công trình nghiên cứu về hành vi cũng như MXH. 2.1.1. Hướng nghiên cứu về hành vi Tác giả Michael Rulter trong công trình nghiên cứu về “hành vi chống đối xã hội” and “thanh niên” đã nêu ra được nhiều quan điểm về hành vi chống đối xã hội của những bạn trẻ, đặc biệt là sinh viên hiện nay. Tác giả đặt ra những câu hỏi và lý giải về hiện tượng chống đối xã hội. Vì sao thanh niên hiện nay lại có những hành vi đó đối với xã hội? Thanh niên hiện nay họ là ai? Họ muốn thể hiện bản thân như thế nào trong xã hội. Thanh niên họ đã và đang sống trong một hệ thống xã hội như thế nào? Có cách nào giúp họ thay đổi hành vi của thanh niên trong vấn đề này? Công trình này đã khẳng định rằng: hành vi chống đối xã hội của thanh niên xuất phát từ các yếu tố xã hội là chủ yếu, từ sự bất bình đẳng trong các mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân và cá nhân với xã hội [38] Còn giả Loeber của Viện nghiên cứu tâm thần Phương Tây nước Mỹ cho rằng, những hành vi lệch chuẩn của thanh niên, thiếu kiềm chế của thanh niên phần nhiều do ảnh hưởng từ môi trường sống, bạn bè và từ cộng đồng xã hội[31] Tác giả Spiros Tzelepis của Hội nghiên cứu Tâm lý học Mỹ đã phân tích trong công trình “theo thanh thiếu niên” trình bày nhiều tác phẩm liên quan đến hành vi bạo lực của học sinh, sinh viên. Trong toàn nước Mỹ đã có trung bình 14.8% học sinh, sinh viên thường xảy ra xung đột và đánh nhau gây thương tích. Trong đó sinh viên nam có khả năng gây hấn và đánh nhau hơn so với học sinh nữ chiếm (20%). Tương tự sự khác biệt này thì người da trắng cũng được xác định xung đột hơn người da đen và gốc Tây Ban Nha và tất cả các nhóm lớp [40]. Tác giả Diah Wisenberg Brin với bài “Internet làm thay đổi tư duy và hành vi của giới trẻ” trên tạp chí Magazin của nước Anh cho rằng các phương tiện truyền thông hiện đại đã góp phần làm thay đổi nhận thức và hành vi của giới trẻ, đặc biệt là internet, phương tiện làm thế giới xích lại quá gần nhau trên mọi phương diện”[33] Nhóm tác giả thuộc khoa Giáo dục Đại học Cambrige với công trình nghiên cứu “Hỗ trợ hành vi xã hội cho thanh niên” đã phân tích các hành vi của thanh niên dưới 3
- góc độ của nhà sư phạm và đề xuất một số cách thức hỗ trợ hành vi của thanh niên trong các cộng đồng và trong việc thực hiện các chương trình xã hội, tình nguyện.[35] Trong công trình nghiên cứu “Lý thuyết về hành vi được lên kế hoạch và áp dụng cho việc sử dụng các trang web mạng xã hội của những người trẻ” tác giả Pelling. EL thuộc Đại học công nghệ Queensland Úc đã nhận định rằng việc sử dụng mạng xã hội không chỉ chịu ảnh hưởng bởi thái độ mà còn phụ thuộc bởi các yếu tố thuộc về bản sắc của con người nói chung và giới trẻ nói riêng. Việc phát hiện vấn đề này có thể được sử dụng để thiết kế các chiến lược nhằm mục đích giúp giới trẻ thay đổi mức độ sử dụng MXH của bản thân.[32]. Luận án tiến sĩ Adrian D. Pearson “Phương tiện truyền thông ảnh hưởng đến hành vi sai lệch trong trường Trung học” Luận án với câu hỏi đặt ra, tại sao hiện nay đối với đối tượng là học sinh trung học lại có nhiều hành vi lệch chuẩn như vậy. Đặc biệt đối với các nước phát triển vấn đề này lại có chiều hướng gia tăng. Trong đó Mỹ có khuynh hướng tăng cao trong những năm gần đây và liệu có một mối tương quan mà ảnh hưởng từ các phương tiện truyền thông đến những hành vi chống đối xã hội. Qua đó giúp cung cấp những yếu tố giúp các nhà hoạt động xã hội kiểm soát hành vi của cá nhân. [ 32] Nhóm tác giả trong tác phẩm “Quy tắc cho hành vi văn minh” đã khẳng định khi một hành vi được cho là văn minh cần quan tâm đến nhận thức cũng như hành vi bên ngoài của mỗi cá nhân sau đó mới lựa chọn cách ứng xử phù hợp với mình[34]. Các tác giả cho rằng những hành vi văn minh được các cá nhân thực hiện lúc nào cũng phụ thuộc vào sự hiểu biết, về trình độ lượng giá vấn đề của cá nhân đó trong một tình huống cụ thể. 2.1.2. Hướng nghiên cứu về hành vi sử dụng MXH Việc sử dụng mạng xã hội ở một số nước châu Âu: Khảo sát ở các quốc gia Pháp, Đức, Ý, La Mã, Tây Ban Nha, cho thấy 95% người được khảo sát có sử dụng MXH, chiếm một tỉ lệ lớn. Trong đó trang MXH phổ biến và được sử dụng nhiều nhất đó là Facebook Khảo sát về những người không sử dụng MXH, bài báo cáo cũng đưa ra những lí do như: Hiếm khi sử dụng Internet (đặc biệt chiếm tỉ lệ cao với đối tượng dưới 18 4
- tuổi); không có hứng thú và thời gian, không muốn tiết lộ cuộc sống của bản thân, không muốn theo trào lưu, cho rằng những mối quan hệ trên MXH đều là giả, thấy rằng việc sử dụng không hữu ích, sợ MXH là những lí do được đưa ra nhiều nhất của những trong độ tuổi 21 - 26. Prof. Dr. BahireEfe (2012) với tác phẩm “Thái độ của sinh viên Đại học đối với việc sử dụng MXH” ở Thổ Nhĩ Kỳ cho thấy phần lớn sinh viên cảm thấy vui khi sử dụng MXH và họ dành khá nhiều thời gian trong một ngày để sử dụng MXH, việc sử dụng MXH để giải trí, giao, tiếp, học tập với họ khá dễ dàng [31] Tại Ấn Độ với bài viết: Nghiên cứu để nâng cao hiểu biết về mạng xã hội - trung tâm nghiên cứu về việc sử dụng MXH ở Ấn Độ đã tìm hiểu về nhận thức MXH và hành vi sử dụng. Qua bài viết tác giả nhận ra được những kẽ hở của mạng xã hội từ đó có thể khai thác và phân tích những yếu tố tiêu cực và tích cực của MXH từ đó có những đề xuất cải tiến thích hợp. Facebook là MXH phổ biến nhất ở Ấn Độ (93.26% người sử dụng MXH). Điều được yêu thích nhất ở Facebook đó là sử dụng dễ dàng, giao diện thân thiện với người dùng (46.07%). Tiếp đó là khả năng chia sẻ và kết nối người dùng (43.82%). Điều không thích ở Facebook đó là tính riêng tư (29.21%) [41]. Asnat Dor & Dana Weimann-Saks (2012), trường Cao đẳng học viện Kinnerer tại Israel đã nghiên cứu việc sử dụng mạng xã hội ở học sinh: thái độ, hành vi và nhận thức. Nghiên cứu đã phân tích nhóm học sinh 13 tuổi ở Israel. Các phân tích đi sâu vào các khía cạnh trong cuộc sống hàng ngày của học sinh ở gia đình và ở trường. Giữa mối quan hệ cha mẹ con cái và việc sử dụng mạng xã hội trước hay sau cha mẹ và thường thì chúng được ưu tiên sử dụng máy tính gia đình như một công cụ hỗ trợ học tập đắc lực. Nhưng phần lớn nhóm học sinh này sử dụng máy tính để sử dụng mạng xã hội để kết bạn, lập nhóm hội, Trong đó nghiên cứu sự quan sát của cha mẹ học sinh với hành vi, thái độ và nhận thức của học sinh Có thể thấy rằng các vấn đề liên quan đến internet, trong đó mạng xã hội đặc biệt Facebook là một trong vấn đề được Tâm lí học hiện đại quan tâm nghiên cứu dưới góc độ hành vi. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu chưa cụ thể hóa về các hành vi sử dụng đối với sinh viên, còn trên bình diện lí thuyết. Đặc biệt khi lí giải về các hành vi của con người khi sử dụng và đặc biệt là những ảnh hưởng của hành vi sử dụng MXH đối với 5
- hoạt động cá nhân, cũng như đối với xã hội chưa được xã hội quan tâm nhiều. Rõ ràng, đây là những thách thức mới mà Tâm lí học hiện đại quan tâm giải quyết 2.2. Những nghiên cứu trong nƣớc Việt Nam ra nhập hội nhập quốc tế đã tạo điều kiện cho công nghệ thông tin Việt Nam, chính điều đó đã giúp cho xã hội đạt được những thành tựu đáng ghi nhận. Mạng xã hội ngày càng được mở rộng cả về số lương cũng như chất lượng, sự cập nhập thông tin và hình thức giải trí trên mạng ngày càng phong phú và đa dạng. Việc sử dụng MXH tại Việt nam bắt đầu từ những năm 2010-2012 từ đấy, việc tìm hiểu và sử dụng mạng xã hội trở thành sự quan tâm của báo trí, các nhà nghiên cứu về văn hóa và Tâm lý học 2.2.1. Hướng nghiên cứu về hành vi Tác giả Phạm Minh Hạc “ Hành vi và hoạt động” đã khẳng định việc tiếp cận theo phương pháp hoạt động - nhân cách và giao tiếp giúp cho nghiên cứu tâm lý học lý luận và ứng dụng ở Việt Nam ngày càng phát triển trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu những vấn đề lý luận về hành vi của mỗi trường phái tâm lý học còn nhiều điều khác nhau tùy thuộc vào cách tiếp cận của mỗi nhà khoa học. Vì vậy mà khi nghiên cứu từng loại hành vi cụ thể của con người có sự khác nhau, hệ thống các cách thức điều khiển, thích ứng hành vi cũng sẽ khác nhau.[9] Trong lĩnh vực tâm lý học ứng dụng, các hành vi được xem xét là những biểu hiện bên ngoài chịu sự tác động từ những đông cơ bên trong với những công trình nghiên cứu vê hành vi tổ chức, hành vi tiêu dùng, hành vi khách hàng, hành vi tài chính, hành vi tội phạm, hành vi tình dục Đặc biệt gần đây các tác giả Việt Nam đã có nhiều quan tâm đến hành vi tiêu dùng và hành vi khách hàng. Trong quá trình nghiên cứu một số nhà nghiên cứu đã tham khảo ý tưởng về thuyết hành vi trong đó có thuyết “ Tài chính hành vi” đòi hỏi người nghiên cứu phải hiểu, phân tích và dự đoán được những thay đổi của nền kinh tế thị trường tài chính từ đó đưa ra những nhận đinh và quyết định sao cho phù hợp [3] Như vậy bằng cách hiểu hành vi của con người và cơ chế tâm lý khi đưa ra các quyết định tài chính, những mẫu tài chính chuẩn có thể được nâng cao để phán ảnh và giải thích tốt hơn thực tế phát triển của thị trường ngày nay. “Tài chính hành vi” là một 6
- môn học với các thuyết về tài chính, việc nghiên cứu các nội dung tài chính hành vi là cơ sở giúp con người hiểu và dự đoán được các dấu hiệu của hệ thống thị trường tài chính để có các quyết định tâm lý. [3,tr30] Tác giả Lê Thị Linh Trang trong luận án tiến sĩ “ Nghiên cứu hành vi văn minh đô thị của thanh niên Hồ Chí Minh” đã có những phân tích khá rõ nét về hành vi văn minh đô thị của con người nói chung cũng như thanh niên nói riêng. Luận án của tác giả Lê Thị Linh Trang đã chỉ ra thực trạng hành vi văn minh của thanh niên trong ứng xử với cộng đồng cũng như đối với dân cư. Dựa trên số liêu thu được từ nhiều nguồn thông tin khác nhau: Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi văn minh đô thị của thnh niên Hồ Chí Minh. [27] Tạp chí Giáo dục mầm non 2/2008 trong chuyên đề “giáo dục hành vi văn hóa cho trẻ” tạp chí không chỉ đề xuất những yêu cầu cho trẻ mà còn cho cả người lớn, thầy cô giáo để ứng xử có văn hóa với những hành vi văn hóa. Các công trình trên đã có những phân tích khá sâu về vấn đề lý luận hành vi, cơ cấu hành vi, yếu tố ảnh hưởng đến hành vi của từng đối tượng. Đặc biệt phác thảo thực trạng thực hiện hành vi với những nội dung đa dạng [26] 2.2.2. Hướng nghiên cứu về hành vi sử dụng MXH Bài viết "Nghiên cứu về hành vi sử dụng Facebook của con người - một thách thức mới cho tâm lí học hiện đại" của tác giả Đào Lê Hòa An đã chỉ ra việc sử dụng mạng xã hội hiện nay là một tất yếu, khi mà với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ và internet này, sự tiếp cận với Facebook trở nên dễ dàng và sức hút ngày càng lớn với những gì nó hấp dẫn giới trẻ và những lợi ích của nó mang lại tuy nhiên, việc lạm dụng mạng xã hội đã và đang để lại rất nhiều hệ lụy và tác hại khôn lường. Đây cũng là định hướng của nhóm nghiên cứu khi thực hiện đề tài, nghiên cứu việc sử dụng Facebook dưới góc độ tâm lý học để có những cái nhìn tổng quan hơn về hoạt động sử dụng mạng xã hội [1] Tác giả Nguyễn Thị Hậu (2010), với bài viết Mạng xã hội với lối sống của giới trẻ Thành phố Hồ Chí Minh. Mạng xã hội với sự xuất hiện với những tính năng đa dạng, nguồn thông tin phong phú đã cho phép người dùng hiện nay có thể tiếp nhận, cũng như chia sẽ và chọn lọc thông tin một cách dễ dàng không phân biệt khó khăn về 7
- không gian cũng như thời gian. Nó giúp nâng cao vai trò của mỗi người công dân trong việc tạo lập quan hệ và tự tổ chức xoay quanh những mối quan tâm chung trong những cộng đồng thúc đẩy sự liên kết các tổ chức xã hội. Tác giả đã nêu rõ ảnh hưởng của mạng xã hội đến lối sống giới trẻ Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, thông qua việc tìm hiểu nhu cầu, mục đích và hình thức sử dụng mạng xã hội góp phần giúp các bạn trẻ có thể cải thiện được việc sử dụng MXH của mình.[13] Tác giả Nguyễn Văn Thọ (2011) có viết bài: “Suy nghĩ về tính tự chủ của học sinh trong thời đại thông tin và truyền thông đa phương tiện”. Trong đó đã đề cập đến việc sự du nhập và sử dụng truyền thông đa phương tiện như hiện nay, các nhà tâm lý đang nhìn về khía cạnh cảm xúc và hành vi. Các phương tiện truyền thông đa phương tiện là biểu hiện của sự phát triển công nghệ của nên văn minh hiện đại. Với tác dụng vô cùng to lớn của nó, nhiều người, nhất là thanh niên đã bị ảnh hưởng rất nhiều vào cuộc sống hàng ngày, trở thành công cụ đắc lực phục vụ công việc của họ Bản thân internet là tốt nhưng MXH có thể ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực do bản thân chính mỗi chúng ta sử dụng Cùng năm 2011, tác giả Lê Minh Công đã nghiên cứu “Tác động của internet đến nhận thức và hành vi giới tính, tình dục ở thanh thiếu niên”. Nghiên cứu cho thấy intetnet xuất hiện giúp cho mỗi cá nhân thể hiện được cái tôi trong tình dục và giới tính với người khác, trên các trường hợp lâm sàng, các phân tích đã cho thấy internet làm thay đổi tiêu cực đến các mối quan hệ cuộc sống, gia đình, học tập, công việc, làm một bộ phận thanh thiếu niên có những nhận thức sai lệch về giới, hành vi tình dục và các mối quan hệ [4]. Đề tài “Nhu cầu sử dụng mạng xã hội của sinh viên Cao đẳng Sư phạm Thái Bình”, luận văn Thạc sỹ Tâm lý học của Đặng Thị Nga (2013) đã khái quát chung về tình hình sử dụng MXH của sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Thái Bình. Qua nghiên cứu đề tài đã chỉ ra rằng, MXH trong xã hội ngày nay đóng một vai trò to lớn trong đời sống của mỗi người và có ảnh hưởng lớn đối với hoạt động sống và học tập của sinh viên. [23]. Tóm lại vấn đề hành vi sử dụng MXH đã được các nhà khoa học trong và ngoài nước tiếp cận với nhiều góc độ khác nhau, trong đó đề cập đến định nghĩa hành vi, ảnh 8
- hưởng của các yếu tố môi trường, giới tính đến hành vi của cá nhân đối với MXH. Đồng thời các tác giả cũng đề cập đến những tác động tích cực, tiêu cực của MXH đối với mỗi cá nhân. Tuy nhiên việc nghiên cứu hành vi sử dụng MXH trong xã hội cũng như đối với thanh niên chưa được đề cập rộng rãi và cụ thể mới chỉ xem xét các mức độ biểu hiện qua nhận thức bên trong cũng như tính năng của MXH, khi xem xét các biểu hiện bên ngoài của sinh viên đặc biệt đối với sinh viên của một trường Đại học ở một địa phương đang phát triển như Đại học Hải Dương chưa được xem xét một cách chi tiết cụ thể. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng về hành vi sử dụng mạng xã hội của sinh viên trường đại học Hải Dương, luận văn đề xuất một số kiến nghị giúp sinh viên sử dụng mạng xã hội hợp lý hơn 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về hành vi, hành vi sử dụng mạng xã hội của sinh viên - Đánh giá thực trạng mức độ, biểu hiện hành vi sử dụng mạng xã hội của sinh viên, các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi sử dụng mạng xã hội 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tƣợng nghiên cứu Mức độ biểu hiện hành vi sử dụng mạng xã hội của sinh viên 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu mức độ biểu hiện hành vi sử dụng mạng xã hội cho sinh viên như mạng xã hội Facebook, Zalo, Zing me - Phạm vi về khách thể: Nghiên cứu 300 Sinh viên đại học chính quy trường Đại học Hải Dương - Phạm vi về địa bàn nghiên cứu: Địa bàn tập trung nghiên cứu và lấy số liệu khảo sát tại Khoa Kế toán và Khoa Quản trị kinh doanh tại trường Đại học Hải Dương. 9
- 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Nguyên tắc phƣơng pháp luận nghiên cứu 5.1.1. Nguyên tắc hệ thống Nghiên cứu tổng hòa các yếu tố từ nhận thức, thái độ, động cơ từ đó tác động đến hành vi bên ngoài sử dụng MXH của sinh viên 5.1.2. Nguyên tắc hoạt động Nguyên tắc này khẳng định con người tham gia vào các hoạt động, từ đó nhu cầu được hình thành biểu hiện, phát triển và tím kiếm các phương thức để thảo mãn Hành vi sử dụng MXH của sinh viên được hình thành thông qua quá trình sinh viên tham gia sử dụng các trang MXH 5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể - Phương pháp nghiên cứu tài liệu - Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi - Phương pháp phỏng vấn sâu - Phương pháp thống kê toán học 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn đã góp phần bổ sung thêm một số lý luận về hành vi, hành vi sử dụng mạng xã hội của sinh viên, các biểu hiện của hành vi được thể hiện ra bên ngoài thông qua cách ứng xử với mọi người. Từ đó chỉ ra được những yếu tố ảnh hưởng đến hành vi của cá nhân trong việc sử dụng mạng xã hội 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Góp phần cung cấp một số thông tin, tư liệu để hỗ trợ các nhà giáo dục, các cán bộ đoàn thể tham khảo trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình trong công tác thanh niên nói chung và sinh viên nói riêng Kết quả nghiên cứu góp phần giúp các nhà giáo dục tuyên truyền vận động để hình thành và củng cố hành vi khi sử dụng mạng xã hội trong nhà trường cũng như trong cuốc sống 10
- 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, phụ lục và danh mục các tài liệu tham khảo, luận văn được cấu thành 3 chương - Chương 1: Cơ sở lý luận về hành vi sử dụng mạng xã hội của sinh viên Đại học Hải Dương - Chương 2: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu - Chương 3: Kết quả nghiên cứu thực tiễn về hành vi sử dụng mạng xã hội của sinh viên Đại học Hải Dương 11
- Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HÀNH VI SỬ DỤNG MẠNG XÃ HỘI CỦA SINH VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC HẢI DƢƠNG 1.1. Mạng xã hội 1.1.1 Khái niệm “Mạng xã hội” là khái niệm mà rất nhiều nhà nghiên cứu ở nhiều lĩnh vực đã định nghĩa với nhiều góc nhìn và cách diễn giải khác nhau nhưng chưa có một định nghĩa chung chính thức. Theo định nghĩa của Fitcher (1957), mạng lưới xã hội (social network) bao gồm nhiều mối quan hệ đôi. Mỗi người trong mạng lưới có liên hệ với ít nhất 2 người khác nhưng không ai có liên hệ với tất cả các thành viên khác”. Dựa trên định nghĩa đó, Barry Wellman đã định nghĩa: “Khi mạng máy tính kết nối con người, nó là một mạng xã hội [8]. Nguyễn Thị Lê Uyên đã định nghĩa mạng xã hội là một trang web mà nơi đó một người có thể kết nối với nhiều người thông qua chia sẻ những sở thích của cá nhân với mọi người như nơi ở, đặc điểm, học vấn [11]. Tác giả giải thích thêm, mạng xã hội được hình thành khi một nhóm người khởi xướng gửi đi thông điệp mời những người chưa quen gia nhập và thành bạn bè trong trang web của mình. Các thành viên mới sẽ lặp lại quá trình trên và tạo nên một mạng liên kết rộng lớn không phân biệt không gian địa lý của các thành viên Dưới góc nhìn xã hội học, Nguyễn Hải Nguyên đưa ra khái niệm về MXH: Mạng xã hội là dịch vụ kết nối các thành viên cùng sở thích trên Internet lại với nhau với nhiều mục đích khác nhau không phân biệt không gian và thời gian. Tác giả giải thích thêm, mạng xã hội được hình thành khi một nhóm người khởi xướng gửi đi thông điệp mời những người chưa quen gia nhập và thành bạn bè trong trang web của mình. Các thành viên mới sẽ lặp lại quá trình trên và tạo nên một mạng liên kết rộng lớn không phân biệt không gian địa lý của các thành viên [20] Mạng xã hội có các đặc trưng cơ bản: 12
- - Có sự tham gia trực tiếp của nhiều cá nhân (hoặc doanh nghiệp - đóng vai trò như một cá nhân). - Là một website mở, nội dung của website được xây dựng hoàn toàn bởi các thành viên tham gia. Tác giả Nguyễn Thị Kim Hoa trong tạp chí khoa học của mình đã có nhận định ,mạng xã hội là một sự liên kết giữa các cá nhân với cá nhân và giữa cá nhân với cộng đồng được biểu hiện dưới nhiềut hình để thực hiện chức năng xã hội [14]. Trên cơ sở những quan điểm và định nghĩa về mạng xã hội của các tác giả và các đặc điểm chung của mạng xã hội, chúng tôi thống nhất đi đến một khái niệm chung về mạng xã hội như sau: Mạng xã hội (social network) là một website mở trong đó người dùng có thể tự xây dựng nội dung nhằm kết nối và tương tác với mọi người thông qua các tính năng riêng biệt của MXH. Mạng xã hội có những tính năng như gọi nghe trực tiếp, gọi qua video, e- mail, phim ảnh, chia sẻ blog và xã luận. Mạng xã hội ra đời giúp mọi người liên kết với nhau thuận tiện hơn, trở thành một phần tất yếu của mỗi người cho hàng trăm triệu thành viên khắp thế giới. Các dịch vụ này có nhiều cách để tìm kiếm bạn bè, đối tác dựa theo group như tên trường hoặc tên thành phố hoặc dựa trên thông tin cá nhân như (địa chỉ e-mail ) hoặc nick name để tìm kiếm bạn bè 1.1.2. Các loại mạng xã hội Với thời đại công nghệ thông tin phát triển như hiện nay, có rất nhiều MXH để sử dụng. Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ, tác giả xin trình bày một số MXH sau: - Facebook: là trang mạng xã hội phát triển nhất hiện nay, người dùng có thể truy cập miễn phí do công ty Facebook, Inc điều hành. Qua đó người dùng có thể tham gia các trang mạng theo khu vực, nơi làm việc, trường học và khu vực để liên kết và giao tiếp với người khác. Mọi người thể kết bạn và gửi tin nhắn cho nhau, cập nhật trang hồ sơ cá nhân của mình để thông báo cho bạn bè biết về chúng. Đây là kênh thông tin giúp mọi người gần nhau hơn thông qua tương tác - Instagram: mạng xã hội với tính năng đặc trưng là chia sẻ và chỉnh sửa hình ảnh. Khi người sử dụng chụp một tấm ảnh và muốn chia sẻ lên Instagram, trang mạng 13
- này sẽ xuất hiện tính năng chỉnh sửa hình ảnh với nhiều công cụ cắt, xoay, đổi màu, ghép ảnh để bức ảnh được đăng tải trở nên đẹp hơn. - Youtube: mạng xã hội chuyên biệt các tính năng xoay quanh mục đích chia sẻ phim ảnh (video). Người dùng có những tính năng riêng biệt để xử lý video như thêm phụ đề, cắt - ghép phim, chỉnh nhạc nền - Linkedin: Đây được xem như một trang mạng mà người sử dụng chủ yếu là những thành viên chuyên nghiệp. Khác với các mạng xã hội khác như Zalo và Facebook đối tượng các mạng này hướng tới là tất cả mọi người không phân biệt già trẻ, giàu nghèo. Linkedin lại tập trung vào đối tượng người sử dụng là các doanh nghiệp nhằm kết nối những người có nhu cầu tìm việc và tuyển dụng. Nền tảng của Linkedin cũng tương tự như Facebook. Đây được xem là trang mạng có những tính năng đáp ứng cho nhu cầu của người xin việc và tuyển dụng cao nhất. - Zingme: Được ra đời từ năm 2006, với phiên bản tích hợp đầu tiên là yobanbe, Zing Me đã được kì vọng trở thành trang blog lớn nhất tại Việt Nam cạnh tranh với Yahoo 360. Tuy nhiên, với định hướng sản phẩm “hoàn toàn khác blog”, Facebook đã buộc Zing Me phải “tư duy lại tương lai”. Điểm nổi bật tại Zing Me là sự kết hợp về game xã hội vốn là “món khoái khẩu” của cộng đồng game thủ hiện tại của VNG. - Google: Sau Facebook thì Google được mọi người sử dụng tương đối nhiều đặc biệt là các bạn sinh viên, đây được xem như công cụ hỗ trợ đắc lực cho việc học của sinh viên. Với các dịch vụ khác của Google, bao gồm Gmail, Youtobe. Google mang các đặc điểm phổ biến của phương tiện truyền thống xã hội như nhận xét, chia sẻ phim ảnh, video với vòng kết nối xã hội của bạn. Google là mạng xã hội mà bất kì người dùng mạng nào cũng chọn lựa hỗ trợ trong công việc cũng như học tập Trong Google, mọi người trò truyện, chia sẻ ý kiến, đăng ảnh và video lưu giữ liên lạc và chia sẻ tin tức cá nhân, chơi trò chơi, lập kế hoạch họp mặt và gặp gỡ, gửi lời chúc sinh nhật và ngày lễ, làm bài tập và làm việc cùng nhau, tìm và liên hệ với bạn bè và họ hàng mà lâu ngày không liên lạc, đánh giá sách, đề xuất nhà hàng và hỗ trợ mục từ thiện. 14