Luận văn Hành vi gây hấn của học sinh trường trung học cơ sở trên địa bàn huyện Gia Lâm, Hà Nội

pdf 97 trang vuhoa 24/08/2022 8180
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Hành vi gây hấn của học sinh trường trung học cơ sở trên địa bàn huyện Gia Lâm, Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_hanh_vi_gay_han_cua_hoc_sinh_truong_trung_hoc_co_so.pdf

Nội dung text: Luận văn Hành vi gây hấn của học sinh trường trung học cơ sở trên địa bàn huyện Gia Lâm, Hà Nội

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM PHƢƠNG DUNG HÀNH VI GÂY HẤN CỦA HỌC SINH TRƢỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN GIA LÂM, HÀ NỘI Chuyên ngành: Tâm lý học Mã số: 60 31 04 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. PHẠM VĂN TƢ HÀ NỘI - 2017
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu và kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào. Tác giả luận văn Phạm Phương Dung
  3. DANH MỤC VIẾT TẮT Viết đầy đủ Viết tắt Điểm trung bình ĐTB Độ lệch chuẩn ĐLC Gây hấn học đường GHHĐ Hành vi gây hấn HVGH Học sinh trung học cơ sở HSTHCS Học sinh HS Nhà xuất bản NXB Trung học cơ sở THCS
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU . 1 Chƣơng 1. LÝ LUẬN VỀ HÀNH VI GÂY HẤN CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ 11 1.1. Lý luận về hành vi gây hấn 11 1.2. Lý luận về học sinh trung học cơ sở 15 1.3. Lý luận về hành vi gây hấn của học sinh trung học cơ sở 18 Chƣơng 2. TỔ CHỨC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 27 2.1. Tổ chức nghiên cứu 27 2.2. Phương pháp nghiên cứu 28 Chƣơng 3. THỰC TRẠNG HÀNH VI GÂY HẤN VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN HÀNH VI GÂY HẤN CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ HUYỆN GIA LÂM, HÀ NỘI 35 3.1. Thực trạng hành vi gây hấn của học sinh trung học cơ sở 35 3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi gây hấn của học sinh trung học cơ sở 47 3.3. Biện pháp nhằm giảm thiểu hành vi gây hấn của học sinh trung học cơ sở huyện Gia Lâm, Hà Nội 70 Tiểu kết chương 3 71 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 72 1. Kết luận 72 2. Kiến nghị 73 TÀI LIỆU THAM KHẢO 77
  5. DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU Bảng 3.1: . Hành vi gây hấn của học sinh trung học cơ sở biểu hiện qua hình thức gây hấn 36 Bảng 3.2: Những biểu hiện khi chứng kiến hành vi gây hấn của học sinh khác 40 Bảng 3.3: . Những biểu hiện hành vi gây hấn của học sinh trung học cơ sở trong những tình huống cụ thể 42 Bảng 3.4: . Những khác biệt trong hành vi gây hấn của học sinh trung học cơ sở xét theo các tiêu chí 44 Bảng 3.5: Ảnh hưởng của yếu tố nhận thức đến HVGH của HSTHCS .48 Bảng 3.6: Ảnh hưởng của yếu tố cảm xúc đến HVGH của HSTHCS 52 Bảng 3.7: Ảnh hưởng của các loại hình giải trí có nội dung không lành mạnh đến HVGH của HSTHCS 54 Bảng 3.8: Những ảnh hưởng qua mối quan hệ của bố mẹ trong gia đình . 56 Bảng 3.9: Những ảnh hưởng qua cách thức giáo dục, quản lý con của bố mẹ. 58 Bảng 3.10: Những biểu hiện thái độ của thầy cô đối với HVGH của học sinh trung học cơ sở 61 Bảng 3.11: Nhóm bạn của HSTHCS 63 Bảng 3.12: Dự báo sự thay đổi HVGH của HSTHCS dưới ảnh hưởng của một số yếu tố độc lập đơn nhất 68 Bảng 3.13: Dự báo sự thay đổi mức độ HVGH của HSTHCS dưới ảnh hưởng của các cụm yếu tố 70 Sơ đồ 3.1: Tương quan giữa hành vi gây hấn của HSTHCS và các yếu tố tác động chủ quan 65 Sơ đồ 3.2: Tương quan giữa hành vi gây hấn và các nhân tố tác động khách quan 67
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Gây hấn là một hiện tượng tâm lý tiêu cực, một loại hành vi cố tình làm tổn hại về thể chất hay tinh thần người khác hoặc bản thân. Gây hấn là hiện tượng xã hội diễn ra trên khắp mọi nơi, mọi nền văn hóa và được các nhà tâm lý học đặc biệt quan tâm. Gây hấn và những hành vi gây hấn (hành vi gây hấn) là hiện tượng tiêu cực của đời sống và đang là một vấn đề vô cùng nhức nhối của toàn xã hội. Hành vi gây hấn đã tồn tại từ lâu dưới nhiều hình thức, cấp độ khác nhau, không ngoại trừ ở bất cứ xã hội và nền văn hóa nào. Bản thân nó có thể gây nên những hậu quả khôn lường làm ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực trong đời sống con người. Từ góc độ nghiên cứu của khoa học tâm lý, gây hấn là một hiện tượng phức tạp nhất trong các hiện tượng tâm lý xã hội của con người. Trong khi đó, hiện tượng tâm lý này lại xuất hiện thường xuyên trong các tương tác xã hội và sự ảnh hưởng tiêu cực của hành vi này là khó lường trước đối với xã hội và các nền văn minh. Gây hấn không chỉ thể hiện đơn giản ở việc khích bác, cố tình thêu dệt câu chuyện làm tổn thương người khác hay giải quyết tình huống bằng cách đấm đá nhau giữa các cá nhân và các nhóm. Gây hấn có mặt ở khắp nơi, từ các chuyện xích mích nhỏ giữa những đứa trẻ trong gia đình, chuyện bố mẹ đánh mắng con hay bạo lực vợ - chồng, đến chuyện bắt nạt học đường, nơi công sở hay cộng công , tất cả đều nhằm mục đích làm tổn thương nhau về mặt tâm lý, thể chất hay hủy hoại tài sản. Ở nước ta, trong lĩnh vực giáo dục cũng đang phải đối mặt và chịu nhiều áp lực nặng nề từ các vấn nạn học đường như bạo lực, bỏ học, tự tử, áp lực học tập, nghiện ngập mà trong đó hiện tượng gây hấn trong trường học đã và đang hiện hữu, vẫn là vấn đề đáng lo ngại không chỉ đối với ngành giáo dục, với gia đình học sinh mà cả toàn xã hội nói chung. Tình trạng của một bộ phận không nhỏ học sinh hành xử mang tính bạo lực, sát phạt, đe dọa nhau là biểu hiện của sự tha hóa về nhân cách, lối sống buông thả đang trở thành vấn đề nhức nhối trong xã hội ngày nay. Vì vậy, việc tìm hiểu và nghiên cứu về hiện tượng gây hấn trong trường học giúp chúng ta lí giải được những nguyên nhân dẫn đến hành vi tiêu cực của học 1
  7. sinh, đồng thời mang tính định hướng trong việc tiếp cận những cách thức can thiệp để giảm thiểu hành vi gây hấn một cách phù hợp và hiệu quả, đảm bảo về mặt giáo dục trong nhà trường nói riêng và cho đời sống lành mạnh của mỗi cá nhân trong xã hội nói chung. Học sinh trung học cơ sở là lứa tuổi có vị trí đặc biệt trong thời kỳ phát triển của trẻ em, đây là giai đoạn chuyển từ trẻ em sang người lớn. Ở lứa tuổi này, các em vừa mang những nét trẻ con, vừa người lớn, song các em lại có mong muốn được bình đẳng với người lớn, muốn khẳng định bản thân mình như người lớn. Sự phát triển và mâu thuẫn giữa thể chất, tâm lý, nhận thức còn hạn chế, chưa hoàn thiện với nhu cầu được như người trưởng thành, cùng các tác động, ảnh hưởng tiêu cực từ môi trường sống dẫn đến các em dễ nảy sinh những suy nghĩ lệch lạc và hành vi tiêu cực ở nhiều mức độ khác nhau, từ vi phạm các nguyên tắc chuẩn mực đạo đức đến vi phạm pháp luật. Các em có xu hướng gây tổn thương cho chính bản thân mình và cho người khác một cách có chủ ý, xét về mặt bản chất, đây chính là hành vi gây hấn. Trong những năm gần đây, ở nước ta, hiện tượng gây hấn riêng ở học sinh trung học cơ sở không ngừng gia tăng với mức độ ngày càng nghiêm trọng. Qua các phương tiện thông tin đại chúng đã đề cập, số liệu được Bộ Giáo dục và đào tạo đưa ra trong năm học 2009- 2010, toàn quốc xảy ra gần 1.600 vụ việc học sinh đánh nhau ở trong và ngoài trường học (khoảng 5 vụ ngày . Cũng theo số liệu này, cứ khoảng trên 5.200 học sinh thì có một vụ đánh nhau; có hơn 11. HS thì có một em bị buộc thôi học vì đánh nhau; trong 9 trường thì có một trường có học sinh đánh nhau Còn theo Viện nghiên cứu Y - Xã hội phối hợp với tổ chức từ thiện Plan Việt Nam đã công bố kết quả nghiên cứu về bạo lực giới trong trường học. Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 3 đến tháng 9/2014 với 3.000 học sinh của 30 trường trung học cơ sở, trung học phổ thông trên địa bàn Hà Nội, sử dụng phương pháp bảng hỏi và phỏng vấn sâu. Kết quả, khoảng 80% học sinh cho biết từ trước đến nay đã bị bạo lực giới trong trường học ít nhất một lần, 71% bị bạo lực trong vòng 6 tháng qua. Trong đó, bạo lực tinh thần (mắng chửi, đe dọa, bắt phạt, đặt 2
  8. điều, sỉ nhục ) chiếm tỷ lệ cao nhất 73%, bạo lực thể chất (tát, đá, xô đẩy, kéo tóc, bạt tai, đánh đập ) là 41% và bạo lực tình dục (tin nhắn với nội dung tình dục, sờ, hôn, hiếp dâm, yêu cầu chạm vào bộ phận sinh dục, lan truyền tin đồn tình dục ) chiếm 19% [38]. Mặc dù các con số chưa được thống kê cụ thể ở các bậc học nhưng qua các kênh thông tin, mạng xã hội hàng ngày đều xuất hiện những thông tin về vụ việc đầy bức xúc của học sinh ở lứa tuổi trung học cơ sở có hành vi như gây gổ, đánh hội đồng, đâm chém bạn, nói xấu, tung tin đồn, khiêu khích, dọa nạt bạn, chỉ vì những lí do hết sức đơn giản gây nên những hậu quả nghiêm trọng, trở thành nỗi trăn trở của mỗi gia đình, nhà trường và nỗi lo lắng cho thế hệ tương lai của xã hội. Xuất phát từ những lý do trên, việc lựa chọn đề tài “Hành vi gây hấn của học sinh trường trung học cơ sở trên địa bàn huyện Gia Lâm, Hà Nội” là việc làm cần thiết có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn sâu sắc. 2. Tình hình nghiên cứu 2.1 Tổng quan nghiên cứu ở nước ngoài * Nghiên cứu lí thuyết về hành vi gây hấn Trên phương diện lí thuyết, các nghiên cứu về HVGH chủ yếu tập trung tìm hiểu khái niệm, bản chất, nguồn gốc và cách thức giảm thiểu hành vi này ở con người. Từ những thập niên 60 của thế kỉ XX, các nhà Tâm lí học đều thừa nhận rằng gây hấn là một khái niệm khó nắm bắt và người ta đã tranh cãi gay gắt về cách định nghĩa gây hấn một cách chính xác nhất (Baron, 1997; Berkowitz, 1969; Buss, 1961; Zillmann, 1979). Mặc dù có nhiều ý kiến khác nhau song phần lớn các nhà tâm lí học đều thống nhất một cách hiểu về khái niệm HVGH như là cách cư xử có chủ ý, gây tổn thương cho người khác, nhờ đó quá trình nghiên cứu phân tích và đưa ra các giải pháp được dễ dàng và cụ thể hơn, giảm thiểu các hiệu quả tiêu cực do hành vi này mang lại. Một câu hỏi đặt ra là gây hấn do yếu tố bẩm sinh qui định hay đó là kết quả của những gì con người học được trong quá trình sống? Thuyết bản năng của S. Freud (192 , và Konrad Lorenz (1966 đã xem xét sự gây hấn như là một bản năng 3
  9. bẩm sinh. Thuyết này khẳng định HVGH là cần thiết nhằm đảm bảo cho các cá thể tồn tại. Các cá thể phải gây chiến với nhau để giành cơ hội tiếp cận với những nguồn tài nguyên có giá trị như lương thực, đất đai, địa vị xã hội Gây hấn là cần thiết trong nỗ lực đấu tranh để tồn tại và chọn lọc tự nhiên thuận tiện cho sự phát triển bản năng hiếu chiến của con người[12]. Một đại diện khác của thuyết bẩm sinh là Cesare Lombroso (1835-1909), nhà tội phạm học Italia, coi những dị dạng về sinh lí, giải phẫu cơ thể người là nguồn gốc của HVGH. Chẳng hạn, những người trán thấp, mũi tẹt, quai hàm và xương gò má lớn, mắt xếch, lông mày đen rậm, bàn chân to bè là những người có đặc điểm thuận lợi để phát sinh hung tính. Rõ ràng, các lí thuyết về loại cơ thể không có cơ sở khoa học xác đáng và chỉ dựa vào một số dữ kiện quan sát kinh nghiệm, vì vậy các loại lí thuyết này không được chấp nhận rộng rãi. Khác với thuyết bẩm sinh, thuyết nội tâm cho rằng nguồn gốc gây hấn không phải do bản năng sống, do gien hay do đặc điểm giải phẫu cơ thể qui định, gây hấn bắt nguồn từ sự đáp lại những hụt hẫng và đau đớn. Hai tác giả Doller và Miller (1939) cho rằng nếu một người bị ngăn cản hoạt động để đạt tới mục đích nào đó sẽ có nguy cơ bị hụt hẫng. Anh ta sẽ phản ứng đối với những hẫng hụt đó bằng cách gây hấn với người hoặc vật thể cản trở hoạt động của anh ta, nhằm mau chóng thoát khỏi tình huống không thể chịu nổi. Thuyết tập nhiễm xã hội lại cho rằng gây hấn là kết quả của sự bắt chước và học hỏi xã hội. Theo tác giả Bandura (1973), phần lớn các ứng xử của con người có được là do bắt chước. Nếu bố mẹ, thầy cô giáo tỏ ra hung hãn thì trẻ sẽ mau chóng bắt chước và thấy hành vi đó là bình thường. Ngược lại, nếu trẻ bị phạt một cách đúng mức vì cách ứng xử thô bạo thì tần số các HVGH của chúng cũng sẽ giảm dần[17]. Tóm lại, đã có nhiều lí thuyết giải thích về HVGH mang những nội dung về bản chất, nguồn gốc của nó. Các lí thuyết này dựa trên cơ sở sinh học, xã hội học và tâm lí học. Mỗi lí thuyết khác nhau có những cách lí giải khác nhau về nguồn gốc 4
  10. phát sinh cũng như những phương pháp trị liệu khác nhau đối với HVGH nhưng chưa đưa ra được một phương pháp trị liệu tổng quát cho việc giảm thiểu, ngăn ngừa hành vi này một cách hiệu quả. * Nghiên cứu thực tiễn về hành vi gây hấn học đường Ngoài các nghiên cứu lí thuyết trên, gần đây các nghiên cứu thực tiễn về tình trạng gây hấn trong trường học được các nhà nghiên cứu phương Tây đặc biệt quan tâm. Năm 2 1, một nghiên cứu được thực hiện tại Mỹ bởi Tonja Nansel và đồng nghiệp chỉ ra rằng trong số hơn 15 học sinh Mỹ từ lớp 6 đến lớp 10 có khoảng 17% học sinh cho biết họ thỉnh thoảng hoặc thường xuyên bị bắt nạt trong cả năm học; gần 19% họ thỉnh thoảng hoặc thường xuyên bắt nạt các bạn khác và 6% cho rằng họ vừa đi bắt nạt người khác vừa là nạn nhân của bắt nạt. Những nghiên cứu gần đây ở Mỹ đã chỉ ra rằng cứ 7 phút lại có một trẻ em bị bắt nạt. Cứ 4 trẻ lại có một trẻ thừa nhận từng bắt nạt trẻ khác. Một cuộc thăm dò thực hiện ở trẻ có độ tuổi 12- 17 cho kết quả các em đều thừa nhận bạo lực đang gia tăng ở trường học của mình. Mỗi tháng có 282.000 học sinh ở các trường trung học cơ sở Mỹ bị tấn công[46]. Theo các nghiên cứu thực hiện ở Châu Âu, bạo lực học đường xảy ra thường xuyên ở trường tiểu học, liên quan tới khoảng 15% số học sinh. Ở trung học cơ sở, tỉ lệ học sinh bị bắt nạt là từ 3% -10%, với mức độ cao đột biến ở độ tuổi 13- 14, khi các em học sinh bắt đầu tuổi dậy thì. Đến cấp trung học phổ thông, nạn bạo lực học đường bắt đầu có xu hướng giảm đi. Ở Anh, những nghiên cứu mới nhất được thực hiện liên quan đến HVGH học đường từ năm 2 5 cho thấy 60% học sinh London tin rằng HVGH diễn ra nghiêm trọng trong lớp các em. Có tới 2/3 học sinh thừa nhận đã quấy rối bạn học của mình. Tình trạng gây hấn trong trường học nghiêm trọng tới mức số học sinh bị các trường đuổi học đã tăng 14% năm 2 5. Cùng với sự bùng nổ của công nghệ truyền thông, nạn “khủng bố” qua điện thoại di động và internet không ngừng gia tăng. Tại nước Anh, có tới 1/5 số học sinh cho biết thường xuyên phải nhận thư điện tử hoặc các tin nhắn ác ý qua điện thoại di động. Trong năm 2 7, một cuộc khảo sát của 5
  11. 6000 giáo viên của công đoàn giáo viên phát hiện thấy có hơn 16% giáo viên bị học sinh hành hung. Còn tại Châu Á, theo một nghiên cứu của Chính phủ Nhật Bản nạn gây hấn với các bạn trong các trường học Nhật Bản đã tăng hơn 5% trong năm 2 3 so với năm trước đó. Sách trắng về thanh thiếu niên thống kê 23.351 vụ bắt nạt trong các trường tiểu học và trung học công lập cùng với các trường khiếm thính, khiếm thị và khuyết tật khác trong năm 2 3. Điểm qua các nghiên cứu lí thuyết và thực tiễn về HVGH nói chung, HVGH học đường nói riêng ở nước ngoài cho thấy, tình trạng GHHĐ ở học sinh nói chung, học sinh THCS nói riêng là rất đáng báo động. Trong các nghiên cứu đó đã đề xuất được nhiều biện pháp để giảm thiểu tình trạng GHHĐ của học sinh dưới góc độ y học, xã hội học. Tuy nhiên chúng tôi chưa tìm thấy các nghiên cứu nhằm giảm thiều HVGH của học sinh dưới góc độ tâm lý học. 2.2. Những nghiên cứu liên quan đến vấn đề gây hấn học đường tại Việt Nam * Nghiên cứu lí luận về hành vi gây hấn Ở Việt Nam hiện nay hầu như rất ít nghiên cứu chuyên sâu nào về lí thuyết HVGH nói chung, GHHĐ nói riêng. Đến năm 2 11 mới có một cuốn sách chuyên khảo “Hành vi gây hấn phân tích từ góc độ tâm lí học xã hội” của tác giả Trần Thị Minh Đức. Trong cuốn sách này, tác giả đã đề cập tương đối có hệ thống cơ sở lí luận và thực tiễn về HVGH phân tích dưới góc độ Tâm lí học xã hội[11]. Ngoài ra, cuốn giáo trình “Tâm lí học xã hội” (Dùng cho sinh viên ngành Công tác xã hội) của tác giả Phạm Văn Tư và cộng sự (2 12 cũng đề cập đến một số vấn đề lí luận về gây hấn và HVGH trong đó các tác giả đã chỉ ra được khái niệm, nguồn gốc, bản chất và nguyên nhân gây hấn, cũng như các cách tiếp cận HVGH Tuy nhiên, tác giả chưa đề cập đến thực trạng HVGH học đường cũng như biện pháp giảm thiểu hành vi này mà chỉ nghiên cứu ở góc độ lí luận về HVGH[36]. * Nghiên cứu thực tiễn về hành vi gây hấn học đường Dưới góc độ thực tiễn HVGH của học sinh trong môi trường học đường, mặc dù tình trạng gây hấn trong trường học giữa học sinh với học sinh, học sinh với thầy cô 6
  12. giáo đã được báo chí và các phương tiện truyền thông truyền tải khá nhiều. Tuy nhiên, nghiên cứu cụ thể về hành vi này gần như rất ít. Chủ yếu các đề tài, bài báo tập trung vào việc nghiên cứu về hành vi lệch chuẩn của học sinh. Cụ thể có một số nghiên cứu sau: - Bạo hành đối với trẻ em gái trong môi trường học đường ( Nguyễn Phương Thảo và cộng sự, 2005). - Tìm hiểu những hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội của học sinh trường Phổ thông trung học dân lập Đinh Tiên Hoàng (Nguyễn Thị Phương, 2 6 - Hung tính ở trẻ em (Phạm Hoàng Hà, Hoàng Gia Trang, 2002) - Hành vi sai lệch chuẩn mực của học sinh tại một số trường phổ thông ở Hà Nội (Tạp chí phát triển giáo dục- Hoàng Gia Trang, 2005) - Ảnh hưởng của nhóm bạn không chính thức đến hành vi phạm pháp của trẻ vị thành niên (Mã Ngọc Thể) - Một vài hiện tượng tiêu cực trong thanh niên hiện nay và công tác giáo dục vận động thanh niên (Lê Ngọc Dung, Hồ Bá Thông, 2004) - Cách thức cha mẹ quan hệ với con cái và hành vi lệch chuẩn của trẻ (Lưu Song Hà, 2008) và một số nghiên cứu khác nhưng chúng tôi chưa tìm được nguồn cụ thể như: Ảnh hưởng của nhóm bạn tới hành vi lệch chuẩn của học sinh (Nghiêm Thị Phiến), Hành vi có vấn đề của trẻ vị thành niên- những ảnh hưởng của bố mẹ (Nguyễn Thị Hoa). Những nghiên cứu trên chủ yếu nghiên cứu về hành vi lệch chuẩn của thanh thiếu niên- một lĩnh vực rộng hơn nhiều HVGH. Trong đó, các tác giả đã chỉ ra được các vấn nạn học đường trong xã hội Việt Nam như hiện tượng thầy, cô giáo đánh đập, làm nhục học sinh, những hành vi lệch chuẩn của học sinh và nguyên nhân dẫn đến hành vi lệch chuẩn. Từ những nghiên cứu này, các tác giả đề xuất các biện pháp làm giảm thiểu hành vi lệch chuẩn nói chung nhưng chưa đi sâu về phương diện HVGH của học sinh. Những năm gần đây, HVGH học đường mới được tập trung nghiên cứu một cách trực tiếp. Có thể kể đến một số đề tài nghiên cứu, bài báo khoa học có liên 7
  13. quan đến HVGH trong phạm vi trường học của học sinh như sau: Hành vi gây hấn của học sinh trung học phổ thông (Trần Thị Minh Đức, Hoàng Xuân Dung, 2008 - 2010); Hiện tượng gây hấn trong các trường phổ thông trung học hiện nay (Trần Thị Minh Đức, 2010); Gây hấn học đường và nhận thức của học sinh về gây hấn (Trần Thị Minh Đức, 2010); Khác biệt giới trong hành vi gây hấn của học sinh trung học phổ thông (Hoàng Xuân Dung, 2010) Những đề tài, bài báo khoa học trên đã chỉ ra được thực trạng HVGH của học sinh trung học phổ thông trong trường học. Qua đó giúp giáo viên và phụ huynh học sinh có các phương thức giáo dục hợp lí nhằm ngăn chặn các HVGH của học sinh trong trường học. Tóm lại, có rất ít công trình nghiên cứu trong nước về HVGH của học sinh THCS. Vì vậy, để tài “Hành vi gây hấn của học sinh trường trung học cơ sở trên địa bàn huyện Gia Lâm, Hà Nội” là đề tài tương đối mới, có ý nghĩa lí luận và thực tiễn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1 Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu lý luận và phân tích thực trạng hành vi gây hấn của học sinh trung học cơ sở, các yếu tố ảnh hưởng tới hành vi gây hấn của học sinh trung học cơ sở. Từ đó đề xuất một số biện pháp tâm lý nhằm giảm thiểu hành vi gây hấn của học sinh trung học cơ sở. 3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống hóa một số lý luận về hành vi gây hấn của học sinh trung học cơ sở, các yếu tố ảnh hưởng đến thực trạng hành vi gây hấn của học sinh. - Phân tích thực trạng hành vi gây hấn và các yếu tố ảnh hưởng tới hành vi gây hấn của học sinh tại trường trung học cơ sở huyện Gia Lâm, Hà Nội. - Đề xuất một số biện pháp tâm lý nhằm giảm thiểu hành vi gây hấn của học sinh trung học cơ sở. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1 Đối tượng nghiên cứu Biểu hiện và mức độ hành vi gây hấn của học sinh trung học cơ sở huyện Gia Lâm, Hà Nội 8
  14. 4.2 Phạm vi nghiên cứu * Phạm vi về nội dung Chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu về thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi gây hấn của học sinh trung học cơ sở. * Phạm vi về địa bàn Chúng tôi tiến hành khảo sát thực trạng hành vi gây hấn và các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi gây hấn của học sinh trung học cơ sở tại 2 trường THCS Ninh Hiệp và Cổ Bi trên địa bàn huyện Gia Lâm thành phố Hà Nội. * Phạm vi về số lượng người được nghiên cứu Gồm 275 HS 3 khối 6, 7 và khối 8 tại 2 trường THCS Ninh Hiệp và Cổ Bi trên địa bàn huyện Gia Lâm thành phố Hà Nội Phỏng vấn sâu: 15 học sinh, 5 giáo viên, 5 phụ huynh học sinh. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Để đạt được mục tiêu của đề tài, các phương pháp nghiên cứu sẽ được sử dụng bao gồm: - Phương pháp nghiên cứu văn bản, tài liệu - Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi - Phương pháp phỏng vấn sâu - Phương pháp quan sát - Phương pháp chuyên gia - Phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học: Sử dụng phần mềm SPSS (phiên bản 21.0) để xử lý kết quả điều tra. 6. Ý nghĩa của đề tài 6.1 Ý nghĩa lí luận - Hệ thống hóa và xây dựng được một số vấn đề lý luận về hành vi gây hấn ở lứa tuổi học sinh trung học cơ sở. - Nghiên cứu đưa ra những cách tiếp cận mới trong việc giáo dục học sinh trong trường học mà cụ thể là việc giảm thiểu hành vi gây hấn của học sinh trung học cơ sở. 9
  15. 6.2 Ý nghĩa thực tiễn - Nghiên cứu đã chỉ ra được biểu hiện và mức độ hành vi gây hấn của học sinh trung học cơ sở tại địa bàn nghiên cứu. - Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, dự báo những xu hướng và giải pháp thiết thực cho việc giảm thiểu hành vi gây hấn ở học sinh trung học cơ sở nói chung, học sinh trung học cơ sở ở huyện Gia Lâm, Hà Nội nói riêng. - Kết quả nghiên cứu là tài liệu tham khảo hữu ích đối với người làm tâm lý học trường học, công tác xã hội trường học và cán bộ quản lý, giáo viên công tác tại trường trung học cơ sở. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm 3 chương. Chương 1: Lý luận về hành vi gây hấn của học sinh trung học cơ sở Chương 2: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu Chương 3: Thực trạng hành vi gây hấn và các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi gây hấn của học sinh trung học cơ sở 10
  16. Chƣơng 1 LÝ LUẬN VỀ HÀNH VI GÂY HẤN CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ 1.1. Lý luận về hành vi gây hấn 1.1.1. Hành vi Hiện nay có nhiều định nghĩa khác nhau về hành vi ở trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Theo từ điển Tâm lý học Mỹ: Hành vi là thuật ngữ khái quát chỉ những hoạt động, phản ứng, phản hồi, di chuyển và tiến trình đó có thể đo lường được của bất cứ cá nhân nào Theo từ điển thuật ngữ tâm lý học của tác giả Vũ Dũng (2008), Hành vi có mục đích hướng tới việc đạt được mục đích đã đặt ra một cách có ý thức[7, tr. 171]. Từ những quan điểm và định nghĩa về hành vi của các nhà Tâm lý học, theo chúng tôi, hành vi là phản ứng của con người trước sự kiện, hiện tượng được biểu hiện ra bên ngoài bằng ngôn ngữ, cử chỉ và hành động. 1.1.2. Hành vi gây hấn 1.1.2.1. Khái niệm hành vi gây hấn Hiện nay có nhiều định nghĩa khác nhau về HVGH ở trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Các nhà Tâm lí học xã hội đã có những tranh cãi gay gắt về nội hàm của khái niệm này và thừa nhận đây là một khái niệm khó nắm bắt. Trong tâm lí học, khoa học hành vi và khoa học xã hội, gây hấn là hành vi giữa những cá thể trong cùng một loài với mục đích sỉ nhục, gây đau đớn và tổn hại. Ferguson và Beaver (2 9 định nghĩa “gây hấn là hành vi với ý định gia tăng sự thống trị xã hội của sinh vật liên quan tới vị trí thống trị của sinh vật khác”[11]. Gây hấn (aggression) trong từ điển Anh- Việt được dịch là “hành vi lấn át”, chỉ những người luôn áp đặt mệnh lệnh cho người khác, thích tham gia quyết định mọi chuyện thay cho người khác. Họ luôn muốn thắng thế trong các cuộc tranh luận, giành 11
  17. mọi phần lợi ích về mình. Thậm chí họ còn có những lời nói xúc phạm người khác. Đây là định nghĩa thiên về giải thích gây hấn ở mức độ lời nói và thái độ . Theo từ điển Tâm lí học do Vũ Dũng chủ biên năm 2 8 đã dịch từ “aggression” thành “xâm kích” với cách giải nghĩa như sau: “hành vi của cá nhân hay tập thể gây thiệt hại về tâm lí hoặc thể chất, thậm chí diệt trừ người hay nhóm khác”. Xâm kích là hình thức phản ứng đáp lại trạng thái bất tiện về phương diện tâm lí và thể chất, căng thẳng thần kinh, tâm trạng thất vọng. Ngoài ra xâm kích có thể là phương tiện để đạt được mục tiêu có ý nghĩa nào đó, kể cả việc nâng cao vị thế nhờ tự khẳng định”[7]. Xét từ góc độ nghiên cứu lí luận và là định nghĩa được nhiều nhà tâm lí học sử dụng: Gây hấn (aggression- còn gọi là xâm kích, xâm lược, bạo lực, hung tính) được hiểu là hành vi làm tổn thương, gây hại đến người khác, hay chính mình về tâm lí, thực thể hoặc làm tổn hại đến vật thể xung quanh một cách cố ý dù cho mục tiêu có đạt được hay không[11]. Như vậy, từ các quan điểm trên khái niệm gây hấn chúng ta có thể hiểu: Hành vi gây hấn là hành vi hướng trực tiếp đến một hay nhiều cá nhân khác một cách có chủ ý nhằm gây ra những kết quả tiêu cực cho con người, vật chất xung quanh. Từ những phân tích ở trên cho thấy, định nghĩa về hành vi gây hấn cần được làm sáng tỏ qua hai tiêu chí cơ bản: - Hành vi có tính cố ý, chủ thể có ý thức. - Mục đích nhắm tới của hành vi có gây hại, hay gây thù hận cho người khác, chính mình hay vật chất xung quanh[11]. Gây hấn và những HVGH là một hiện tượng tiêu cực của xã hội. Sở dĩ chúng ta phải nghiên cứu hiện tượng này vì việc hiểu rõ những bộ phận và các đại lượng xã hội đến HVGH như ảnh hưởng của phương tiện truyền thông, tranh ảnh bạo lực, các yếu tố văn hóa, xã hội tác động trực tiếp lên hành vi này sẽ giúp chúng ta giải thích và có những biện pháp khắc phục cần thiết đối với hành vi tiêu cực này trong đời sống. 12
  18. Ngoài ra, HVGH xảy ra hầu như ở khắp nơi trên thế giới cũng như ở Việt Nam, với mọi lứa tuổi, trong mọi điều kiện và với tất cả nền văn hóa khác nhau nên việc tìm hiểu và nghiên cứu về hiện tượng này sẽ giúp chúng ta lí giải về bản thân mình cũng như những tác nhân góp phần tạo ra những hành vi tiêu cực này. Từ đó chúng ta sẽ có những hướng xử lí cũng như áp dụng vào công tác giáo dục để giảm thiểu HVGH góp phần xây dựng một xã hội văn minh. Chúng tôi lựa chọn khái niệm hành vi gây hấn của tác giả Trần Thị Minh Đức và cộng sự là khái niệm công cụ của đề tài. 1.1.2.2. Bản chất của hành vi gây hấn * Gây hấn là hành vi có chủ ý, có ý thức Mọi hành vi có tính toán, cố tình làm tổn thương người khác hoặc làm tổn hại vật chất xung quanh đều là HVGH. Khi xét HVGH không căn cứ trên một chuẩn mực nền văn hóa nào cả, thậm chí ngay trong HVGH không bao gồm ý nghĩa chính trị trong đó. Lát cắt của HVGH là khi chủ thể xuất hiện ý đồ tấn công người khác đến khi hành động đó diễn ra cho dù ý đồ có thành công hay không. Vô tình làm ai đó bị tổn thương không phải là một hành động gây hấn vì ở đây không có ý định làm hại. Tương tự như vậy, những hành động gây hại mà không có chủ ý thì không gây hận thù, vì vậy không phải là hành động gây hấn. Gây hấn chỉ tính chất của hành vi là tính hung hãn, hung tính, tính xâm kích, hành vi cố ý gây tổn hại cho người khác thường có xu hướng dùng sức mạnh cơ học hoặc sử dụng vũ khí làm công cụ tấn công người khác. * HVGH có thể tồn tại cả về mặt thể chất và tinh thần cho người gây hấn - Tổn hại về thể chất: biểu hiện ở việc sử dụng cơ bắp như đám, đá, tát, xô đẩy hay dùng những dụng cụ như gậy, roi, gạch, đá, ném vật vào mặt, vào người khác; sử dụng bom, súng và các loại vũ khí giết người hàng loạt (dùng thuốc độc cho vào thức ăn, nước uống và cao hơn là gây chiến tranh giữa các dân tộc, các quốc gia. - Tổn hại về tinh thần: biểu hiện qua việc dùng lời nói miệt thị, khiêu khích, nhạo báng, đe dọa tấn công, nhắn tin, gọi điện, đe dọa trực tiếp hoặc nặc danh, chửi mắng, lăng mạ, nói xấu, la hét, dọa nạt, sỉ nhục, làm cho người khác cảm thấy mất an 13
  19. toàn qua nhiều nghiên cứu cho thấy vai trò của chủ thể gây hấn về mặt tinh thần với đối tượng càng cao thì càng gây tổn thương cho đối tượng như cha mẹ lăng mạ con cái nhất là không phải con đẻ, con riêng của vợ hoặc chồng, chồng lăng mạ vợ Ngoài ra gây hấn về mặt tinh thần còn biểu hiện ở các khía cạnh khác như xúi giục, cưỡng ép người khác thực hiện hành vi không phù hợp khiến người khác phát triển không bình thường về mặt cảm xúc và gặp khó khăn trong giao tiếp xã hội hoặc tạo áp lực buộc người khác phải làm những điều vượt quá khả năng, sức khỏe, lứa tuổi. HVGH về mặt tinh thần còn biểu hiện ở việc tìm mọi cách cô lập không cho đối tượng giao tiếp với người xung quanh, ngăn cấm không cho tiếp cận các dịch vụ y tế, giáo dục, luật pháp hoặc buộc họ phải chứng kiến các hành động bạo lực. * Gây hấn thể hiện như một xu hướng tính cách của con người. Ở những người có biểu hiện HVGH, lời nói và hành động của họ luôn có xu hướng tấn công, gọi là nét tính cách “hiếu chiến”. Những người có kiểu thần kinh mạnh, không cân bằng hay có kiểu tính cách này. * HVGH còn biểu hiện ở những xung động mang tính chất bệnh lí đang phát triển của nhân cách. Ở trạng thái này, gây hấn làm mất cân bằng về tâm lí, bộc phát thành từng cơn dữ dội mà ở cực điểm con người có thể bạo động gây ra án mạng hay tự tử. 1.1.2.3. Phân loại hành vi gây hấn Các nhà tâm lý học chia tính chất gây hấn ở con người thành hai kiểu: gây hấn thù địch (hostile aggression) và gây hấn phương tiện (Instrunmental aggression). Ở con người, gây hấn thù địch xuất phát từ sự giận dữ hay căng thẳng nội tại, HVGH được thực hiện nhằm thỏa mãn hay giải tỏa cơn giận, sự căng thẳng, mục đích có thể nhắm vào ai đó, vật nào đó hay đôi khi chuyển ngược vào chính bản thân mình. Còn đối với gây hấn phương tiện, HVGH chỉ mang ý nghĩa như một phương tiện, một công cụ nhằm đạt được những mục đích khác mà không phải là sự giải tỏa trực tiếp những giận dữ hay căng thẳng nội tại như trên. 14
  20. Trong nhiều nền văn hóa, nam giới có nhiều khả năng thể hiện sự gây hấn trực tiếp, đặc biệt là bạo lực thể chất. Trong khi đó phụ nữ có nhiều khả năng thể hiện sự gây hấn gián tiếp, hoặc gây hấn phi bạo lực như là qua lời nói, qua kiểu bắn tin, nói xấu sau lưng Gây hấn không đồng nhất với bạo lực. Trong khi bạo lực thường được nhắc tới như là những hoạt động thiên về thể chất như “thượng cảng chân, hạ cẳng tay”, hay ám chỉ cách ứng xử, những hành động mang tính phi pháp, thù địch mang sắc thái tiêu cực; thì gây hấn mang trường nghĩa rộng hơn: có thể mang tính bạo lực hoặc cũng có thể không mang sắc thái thù địch trong HVGH, khi đó HVGH chỉ là công cụ giúp chủ thể của hành vi nhận được một kết quả khác khi thực hiện HVGH đó. Tổng kết lại cho thấy, dù HVGH có ở dạng nào đi chăng nữa thì cũng mang lại hậu quả trực tiếp cho người bị gây hấn những tổn hại về tinh thần, thể chất và những hệ lụy về sau. Bởi vậy cần có những biện pháp thiết thực để kịp thời ngăn chặn, phòng ngừa hành vi này, góp phần xây dựng một cuộc sống lành mạnh, tích cực cho mọi người. 1.2. Lý luận về học sinh trung học cơ sở 1.2.1. Khái niệm học sinh trung học cơ sở Lứa tuổi HSTHCS hay còn gọi là tuổi thiếu niên, nằm trong độ tuổi (từ 11-12 tuổi đến 14-15 tuổi . Đây là lứa tuổi chuyển tiếp từ trẻ em sang người lớn. Trên bình diện xã hội, giai đoạn tuổi thiếu niên đó là giai đoạn tiếp tục xã hội hóa ban đầu. Tất cả thiếu niên ở lứa tuổi này đều là học sinh phổ thông. Đều sống nhờ vào cha mẹ (hay nhà nước) và học tập là hoạt động chủ đạo của chúng. Trên bình diện tâm lí, lứa tuổi này chứa đựng nhiều mâu thuẫn. Cấu trúc tâm lí mới cực kỳ quan trọng của lứa tuổi này là cảm giác về tính người lớn của bản thân - chủ yếu là một trình độ mới về những hoài bão hướng về vị trí tương lai mà thực sự thiếu còn chưa thể đạt tới được. Nói chung đây là thời kỳ hoàn thiện tuổi trẻ em và thời kỳ bắt đầu “vượt qua khỏi’’ tuổi này. Từ quan điểm trên chúng tôi cho rằng: “Học sinh trung học cơ sở bao gồm những em từ 11-12 đến 14-15 tuổi, đang theo học từ lớp 6 đến lớp 9 trường THCS. 15