Luận văn Hành vi bạo lực của cha mẹ đối với con tuổi vị thành niên

pdf 105 trang vuhoa 25/08/2022 8260
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Hành vi bạo lực của cha mẹ đối với con tuổi vị thành niên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_hanh_vi_bao_luc_cua_cha_me_doi_voi_con_tuoi_vi_than.pdf

Nội dung text: Luận văn Hành vi bạo lực của cha mẹ đối với con tuổi vị thành niên

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN THỊ MINH NGUYỆT HÀNH VI BẠO LỰC CỦA CHA MẸ ĐỐI VỚI CON TUỔI VỊ THÀNH NIÊN LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC Hà Nội – 2010 i
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN THỊ MINH NGUYỆT HÀNH VI BẠO LỰC CỦA CHA MẸ ĐỐI VỚI CON TUỔI VỊ THÀNH NIÊN Chuyên ngành: Tâm lý học Mã số : 60 31 80 LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. PHẠM THÀNH NGHỊ Hà Nội – 2010 ii
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 1. Tính cấp thiết của đề tài 1 2. Mục đích nghiên cứu 2 3. Khách thể nghiên cứu 2 4. Nhiệm vụ nghiên cứu 2 5. Giả thuyết nghiên cứu 3 6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu 3 7. Phương pháp nghiên cứu 4 8. Cấu trúc của Luận văn 4 CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN 5 1.1. Tổng quan lịch sử nghiên cứu vấn đề 5 1.1.1. Những nghiên cứu ở nước ngoài 5 1.1.2. Những nghiên cứu tại Việt Nam 6 1.2. Những khái niêṃ cơ bản 13 1.2.1. Khái niệm hành vi 13 1.2.2. Khái niệm "bạo lực" 16 1.2.3. Khái niệm Hành vi bạo lực 18 1.2.4. Khái niệm Hành vi bạo lực của cha mẹ đối với con tuổi Vị Thành Niên 19 1.3. Nguyên nhân cha mẹ sử dụng những hành vi bạo lực với con tuổi VTN 24 1.4. Hậu quả hành vi bạo lực của cha mẹ với con tuổi VTN 25 1.5. Một số vấn đề lí luận về tuổi VTN 27 CHƢƠNG 2: TỔ CHỨC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 32 2.1. Xác định mẫu nghiên cứu 32 2.2. Đặc điểm nhóm khách thể được nghiên cứu 32 2.3. Nghiên cứu lý luận 33 2.4. Nghiên cứu thực tiễn 33 CHƢƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 36 3.1. Thực trạng biểu hiện hành vi bạo lực của cha mẹ đối với con tuổi VTN 36 3.1.1. Những hành vi bạo lực thân thể 37 3.1.1.1. Đánh đòn 37 i
  4. 3.1.2. Những hành vi bạo lực tinh thần 40 3.1.2.1. Hành vi quá bao bọc con 40 3.1.2.2. Có những lời nói làm con tổn thương 43 3.1.2.3. Đòi hỏi, yêu cầu quá cao so với khả năng của con 49 3.1.2.4. Can thiệp, xâm phạm thô bạo những khoảng riêng tư nhất của con 56 3.1.2.5. Cha mẹ luôn xung đột, mâu thuẫn, bất hòa trước mặt con 64 3.1.3. Những hành vi bạo lực kinh tế 66 3.1.3.1. Luôn chì chiết, kể lể, khó chịu khi con xin và cho con tiền. Bắt con làm nhiều việc 66 3.2. Nguyên nhân những hành vi bạo lực của cha mẹ đối với con tuổi VTN 68 3.2.1. Nguyên nhân chủ quan 68 3.2.2. Nguyên nhân khách quan 76 3.3. Hậu quả những hành vi bạo lực của cha mẹ đối với con tuổi VTN 81 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 87 1. Kết luận 87 2. Kiến nghị 88 ii
  5. PHỤ LỤC BẢNG Bảng 1: Các nhóm khách thể nghiên cứu 32 Bảng 2: Những biểu hiện hành vi quá bao bọc con của cha mẹ 41 Bảng 3: Hành vi kể tật xấu, lỗi lầm của con với người ngoài 45 Bảng 4: Những biểu hiện hành vi yêu cầu, đòi hỏi quá cao ở con cái 50 Bảng 5: Những biểu hiện hành vi cha mẹ xâm phạm thô bạo vào những khoảng riêng tư nhất của trẻ 57 Bảng 6: Những biểu hiện hành vi cha mẹ mâu thuẫn, xung đột, bất hòa trước mặt con 64 Bảng 7: Thực trạng hành vi bạo lực của cha mẹ với con tuổi VTN 68 Bảng 8: Nhận thức của cha mẹ về khái niệm hành vi bạo lực 69 Bảng 9: Cha mẹ phân loại các hành vi bạo lực 70 Bảng 10: Quan niệm của cha mẹ về lứa tuổi VTN 71 Bảng 11: Quan điểm giáo dục con 73 Bảng 12: Nhận thức của cha mẹ về những văn bản luật pháp liên quan đến quyền trẻ em 74 Bảng 13: Nguyên nhân các hành vi bạo lực của cha mẹ với con tuổi VTN 80 Bảng 14: Hậu quả các hành vi bạo lực 32 Bảng 15: Những phản ứng, cảm xúc của trẻ VTN khi bị cha mẹ đối xử bằng những hành vi bạo lực 83 iii
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài - Gia đình là thiết chế xã hội quan trọng đối với sự phát triển của mỗi cá nhân nói chung và tuổi vị thành niên nói riêng. Gia đình là tổ ấm, là chỗ dựa, là điểm tựa tinh thần cho mỗi thành viên trong gia đình, là nơi bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ Gia đình là xã hội thu nhỏ với một hệ thống chuẩn mực, vai trò xã hội đảm bảo cho các thành viên thoả mãn những nhu cầu xã hội, là nơi đứa trẻ soi mình vào đó tự nhìn nhận mình, định hướng cho quan điểm của mình với những người xung quanh và áp dụng chính khuôn mẫu của gia đình vào tương lai của nó thông qua quan hệ ứng xử giữa cha mẹ với nhau và với trẻ. Gia đình còn là nơi giúp trẻ xây dựng và phát triển nhân cách với những giá trị phù hợp với giá trị xã hội. Cách ứng xử của cha mẹ với trẻ hàng ngày ảnh hưởng tới trẻ, bởi hành vi sẽ tạo thành thói quen, thói quen tạo thành nhân cách, nhân cách quyết định vận mệnh, số phận cuộc đời trẻ sau này. Trẻ em nói chung và trẻ em đang trong lứa tuổi Vị thành niên nói riêng, nhìn từ góc độ tâm lý học, là những con người chưa chín muồi hoàn toàn về mặt tâm lý và xã hội. Theo cách hiểu này thì các em cần được sự dạy dỗ, giáo dục đúng phương pháp từ phía gia đình, nhà trường và xã hội, trong đó vai trò quan trọng nhất là gia đình. - Hơn ai hết, cha mẹ bao giờ cũng là người chăm lo cho con cái hết lòng về cả thể chất lẫn tinh thần, có ảnh hưởng trực tiếp nhất đến quá trình phát triển toàn diện của trẻ. Điều 19, luật hôn nhân và gia đình chỉ rõ "cha mẹ có nghĩa vụ thương yêu, nuôi dưỡng, giáo dục con, chăm lo việc học tập và sự phát triển lành mạnh của con về thể chất, trí tuệ, đạo đức". Một thực tế đáng buồn hiện nay là ngày càng có nhiều bậc cha mẹ ngược đãi, bạo hành con cái; cha mẹ lạm dụng quyền làm cha làm mẹ của mình, coi việc đánh mắng con, sử dụng bạo lực trong giáo dục con và coi đó là phương pháp giáo dục hiệu quả và thiết thực. Đây là nhận thức sai lầm, khi cha mẹ lạm dụng những hình thức kỷ luật, những hành vi bạo lực trong giáo dục con em mình, thì khi đó, gia đình đã không thực sự là tổ ấm, là nơi ấm áp, bình yên nhất 1
  7. cho các em. Hơn thế nữa, sử dụng bạo lực còn vi phạm quyền trẻ em nghiêm trọng và không mang lại hiệu quả tích cực trong quá trình giáo dục và hình thành nhân cách của trẻ. Không những thế, bạo lực còn để lại những hậu quả về mặt cơ thể và cả những hậu quả nặng nề về mặt tâm l ý, ảnh hưởng trực tiếp tới tương lai của trẻ. Đề tài “ Hành vi bạo lực của cha mẹ đối với con tuổi Vị thành niên” sẽ đi sâu tìm hiểu thực trạng những hành vi bạo lực của cha mẹ và ảnh hưởng của những hành vi này tới thể chất và tinh thần trẻ em; nguyên nhân và hậu quả của những hành vi đó. Trên cơ sở đó, đề tài đưa ra những khuyến nghị đối với các bậc cha mẹ trong giáo dục con cái, tránh dùng bạo lực dưới bất kì hình thức nào đối với các em. 2. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu lí luận và đánh giá thực trạng hành vi bạo lực của cha mẹ đối với con tuổi vị thành niên , chỉ ra nguyên nhân và hậu quả của thực trạng đó , từ đó đề xuất những giải pháp góp phần nâng cao hiêụ quả giáo duc̣ con cái của bố mẹ. Để gia đình mãi mãi là suối nguồn yêu thương , là tổ ấm thực sự , là môi trường thuận lợi cho sự phát triển tâm lý , nhân cách các em 3. Khách thể nghiên cứu 3.1. Các em học sinh đang trong lứa tuổi vị thành niên ở bốn trường Phổ thông đóng trên địa bàn tỉnh Hà Nam (Trường PTTH Chuyên Biên Hòa , Trường PTTH Thanh Liêm A, Trường PTTH Bình Luc̣ , trường THPT Lí Nhân). 3.2. Cha/mẹ của các em. 3.3. Một số giáo viên, bác sĩ, chuyên gia tư vấn tâm lý, một số cán bộ trong đường dây Tư vấn hỗ trợ trẻ em 18001567, một số cán bộ Hội phụ nữa, đoàn thanh niên tại địa phương. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Nghiên cứ u sách báo lý luâṇ liên quan đến vấn đề nghiên cứ u . Trên cơ sở đó , kế thừ a có choṇ loc̣ những công trình đi trước để xây dưṇ g cơ sở lý luâṇ của đề tà i. 2
  8. 4.2. Khảo sát thực trạng sử dụng bạo lực trong giáo dục con cái của các bậc cha mẹ. Chỉ ra nguyên nhân và đánh giá hậu quả của thực trạng đó. 4.3. Trên cơ sở đó đề xuất một số khuyến nghị có ích đối với các bậc cha mẹ về việc sử dụng những hình thức trừng phạt trong giáo dục con , góp phần nâng cao hiêụ quả giáo duc̣ con cái của bố me ̣. 5. Giả thuyết nghiên cứu - Các bậc cha mẹ sử dụng những hành vi bạo lực với con trẻ ở những mức độ khác nhau, đặc biệt là các hành vi bạo lực về mặt tinh thần, coi đó như một hình thức giáo dục hiệu quả và thiết thực. - Hành vi bạo lực có nguyên nhân chủ quan và khách quan; trong đó, các yếu tố chủ quan đóng vai trò quyết định. - Khi cha mẹ sử dụng những hành vi bạo lực để đối xử với con trong quá trình giáo dục chúng sẽ để lại những hậu quả về thể chất và tâm lý, đặc biệt là những hậu quả về tinh thần. 6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu 6.1. Giới hạn về đối tượng nghiên cứu: đề tài đi sâu nghiên cứu thực trạng một số biểu hiện hành vi mang tính bạo lực của cha mẹ với con tuổi vị thành niên. Đánh giá nguyên nhân và hậu quả của thực trạng đó. 6.2. Giới hạn về khách thể: 1) Sử duṇ g bảng hỏi đối với : + Đối tượng cha/mẹ: 150 khách thể cha mẹ (có con đang trong độ tuổi VTN). + Đối tượng con: 150 khách thể (chỉ chọn những đối tượng đang trong lứa tuổi vị thành niên, là các em hoc̣ sinh lớp 10-11-12 ở bốn trường THPT). 6.3. Giới hạn địa bàn và thời gian nghiên cứu - Địa bàn nghiên cứu : thành phố Phủ Lý , huyêṇ Bình Luc̣ , huyện Lí Nhân và huyện Thanh Liêm - tỉnh Hà Nam. 3
  9. 7. Phƣơng pháp nghiên cứu 7.1. Phương pháp nghiên cứu văn bản, tài liệu lí luận - Phân tích các tài liệu lí luận và những nghiên cứu thực tiễn để xây dựng cơ sở lý luận và xây dựng phương pháp nghiên cứu cho đề tài. 7.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi - Thiết kế bảng hỏi theo các chỉ báo về hành vi bạo lực: các biểu hiện, động cơ, xúc cảm ; kết hợp giữa các câu hỏi đóng và câu hỏi mở. 7.3. Phương pháp phỏng vấn trò chuyện, đàm thoại - Trên cơ sở điều tra dùng bảng hỏi, xác định những khách thể đặc trưng để phỏng vấn sâu, làm rõ hơn những vấn đề mà điều tra bằng bảng hỏi không làm rõ được. 7.4. Phương pháp quan sát - Bổ xung cho phương pháp điều tra bằng bảng hỏi, góp phần giải quyết nhiệm vụ của đề tài một cách tốt hơn trên cơ sở quan sát những biểu hiện xúc cảm, tình cảm và hành vi của cha mẹ/trẻ VTN khi trẻ tham gia trả lời những câu hỏi về hành vi bạo lực của cha mẹ đối với con tuổi VTN. 7.6. Phương pháp thảo luận nhóm - Giúp làm sáng tỏ hơn vấn đề nghiên cứu, làm rõ hơn những vấn đề còn nhiều tranh cãi. 7.7. Phương pháp Thống kê toán học. Sử dụng phần mềm xử lý số liệu EPI6 và SPSS để xử lý kết quả nghiên cứu nhằm thu được một số tài liệu về mặt định lượng. 8. Cấu trúc của Luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị; luận văn gồm các phần chính sau: Chương 1: Cơ sở lí luận Chương 2: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu Chương 3: Kết quả nghiên cứu 4
  10. CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN 1.1. Vài nét tổng quan lịch sử nghiên cứu vấn đề 1.1.1.Những nghiên cứu ở nước ngoài Vấn đề giáo dục con nói chung và vấn đề sử dụng các hình thức trừng phạt trong giáo dục con nói riêng luôn được các nhà nghiên cứu quan tâm. Đây là vấn đề được đề cập khá nhiều trong các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực như tâm lý học , giáo dục học, sư phạm, xã hội học trong và ngoài nước. Bạo lực đối với trẻ em là hiện tượng phổ biến trên phạm vi toàn cầu. Tại nước Mỹ vào năm 2000, các cơ quan công quyền nhận được hơn 3 triệu báo cáo về lạm dụng hoặc bỏ mặc trẻ em. Điều này có nghĩa là người ta ghi nhận cứ 25 trẻ em thì có một vụ xảy ra. Một nghiên cứu đã đưa ra số liệu: ở Mỹ có 10 triệu trẻ em bị bạo lực gia đình hàng năm (Carter và cộng sự, 1999) [dẫn theo 5] Nghiên cứu của Kohn khẳng định: các bà mẹ thuộc môi trường thuận lợi coi trọng khả năng kiềm chế của trẻ, trong khi đó các bà mẹ thuộc môi trường bình dân lại coi trọng sự sạch sẽ, trật tự, khả năng độc lập và quan niệm về các giá trị của bố mẹ. Có mối tương quan sâu sắc với cách thức giáo dục con cái của họ [36, tr 25-26]. Nghiên cứu của Parsons, Wallon, Bowbly và Lacnan cho rằng: gia đình là môi trường xã hội đầu tiên mà mỗi đứa trẻ - mỗi con người được tiếp xúc. Trong gia đình người mẹ là người đem lại cho trẻ cảm giác an toàn, còn người cha là người đưa ra những nguyên tắc, chuẩn mực, là hình ảnh của sự rắn rỏi, mạnh mẽ. Giáo dục của cha mẹ như là tác nhân có thể kìm hãm, điều chỉnh những rối nhiễu của trẻ, nhưng cũng có thể làm tăng thêm rối nhiễu nếu như không có cách giáo dục phù hợp[38, tr 9-13]. 5
  11. Bronfenbrenner (1958) lại tìm cách giải thích sự khác biệt về cách thức giáo dục của bố mẹ phụ thuộc rất nhiều vào tri thức và kỹ năng giáo dục mà họ nhận được từ tầng lớp xã hội của mình [dẫn theo 44]. Còn Pourtois (1983) nhấn mạnh thêm ảnh hưởng của trình độ văn hóa của bố mẹ, của thứ tự sinh trong gia đình của đứa trẻ tới cách thức giáo dục của bố mẹ [dẫn theo 44]. Nghiên cứu của nhà Tâm lý học T.A.Gavrinlova (1984) cho rằng mâu thuẫn trong quan hệ giữa cha mẹ và các em lứa tuổi Vị thành niên thường nằm trong những vấn đề về quần áo, ăn mặc, bạn bè, những trò giải trí những khác biệt đó khá rõ nét. Chính sự mâu thuẫn này là một trong những nguyên nhân cơ bản khiến cha mẹ phải dùng những lời nói làm tổn thương con trẻ, những sự trừng phạt hay sự bao bọc quá mức đối với trẻ, mà theo chúng, tất cả những điều đó đều gây nên ở các em cảm giác không được tôn trọng và bị kiểm soát [36, tr30]. Có một công trình được nói tới rất nhiều ở Pháp, là một nghiên cứu của Lautrey (1979). Kết quả nghiên cứu của ông đưa ra ba cách thức giáo dục của bố mẹ: mềm mỏng, cứng nhắc và buông lỏng. Ông chỉ ra rằng: những biến số môi trường xã hội và nét nhân cách của bố mẹ ảnh hưởng rất lớn tới cách thức giáo dục con cái của cha mẹ[32, tr47]. Một loạt những nghiên cứu mới được giới thiệu gần đây trong một hội nghị khoa học Thần Kinh tổ chức tại New Orleans cho thấy: trong ứng xử và quan hệ tình cảm của các thành viên trong gia đình, những xô xát, mâu thuẫn, xung đột đều “dẫn tới những hậu quả về mặt sinh hoá đối với việc phát triển của não, đặc biệt là trẻ em trong giai đoạn đầu đời của mình ”[32, tr9] 1.1.2. Những nghiên cứu tại Việt Nam Trẻ em cũng như cách thức giáo dục trẻ em là đề tài hết sức được quan tâm chú ý, rất nhiều tác giả đã nghiên cứu về vấn đề này. Nhiều tổ chức phi chính phủ tại Việt Nam như UNICEF, Plan International đã kết hợp với Uỷ ban Dân số - Gia đình và Trẻ em và nhiều 6
  12. chuyên gia trong các lĩnh vực khoa học xã hội thực hiện nhiều dự án, tổ chức nhiều cuộc hội thảo quốc tế tại Việt Nam. Kết quả của những nghiên cứu và hội thảo cho thấy tình trạng trừng phạt trẻ em ở Việt Nam là khá phổ biến. Điều đáng lo ngại là người dân Việt Nam vẫn coi đó là điều hết sức bình thường, là cách thức có hiệu quả để dạy con mà không ý thức được những mặt tiêu cực của phương pháp giáo dục này. Cuộc điều tra của VnEpress đưa ra ý kiến: một nguyên nhân khác từ phía gia đình ảnh hưởng đến hành vi phạm tội ở trẻ đó chính là bạo lực gia đình. Bạo lực trong gia đình thể hiện ở việc cha mẹ đánh chửi nhau (chủ yếu là người chồng đánh đập vợ) hay ở chính việc bố mẹ đánh đập con cái tàn nhẫn, cá biệt có trường hợp con cái hành hung lại cha mẹ Hậu quả là những đứa trẻ yếu đuối có thể co mình lại, sợ hãi, không dám giao tiếp lâu dần trở thành những trẻ bị rối nhiễu về tâm lý (trầm cảm, phát triển chậm ); cũng có thể những đứa trẻ sẽ học được chính những hành vi bạo lực từ cha mẹ chúng, một số đứa muốn có uy quyền có thể học hành vi bạo lực của cha mẹ để bắt nạt, đánh lộn nhau, chúng có thể căm ghét cha mẹ cực độ và thậm chí có ý định trả thù bằng cách tham gia vào những nhóm bạn hư hỏng, chuyên đánh nhau, trộm cắp, trở thành những kẻ lỳ lợm, không sợ sự trừng phạt của bố mẹ và sẵn sàng phản ứng lại khi không vừa ý. Bạo lực trong gia đình không chỉ gây tổn hại đến sự phát triển của trẻ mà còn ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống, đến trật tự an ninh xã hội. Việc ngăn chặn bạo lực, bảo vệ sự an toàn và hạnh phúc gia đình được xem là trách nhiệm của toàn xã hội, đặc biệt đối với sự an toàn của trẻ em [dẫn theo 44]. Khi đề cập đến kỹ năng nghe tích cực giữa cha mẹ và con cái, tác giả Phạm Thành Nghị cho rằng “Trong mối quan hệ giữa cha mẹ - con cái, hầu hết các bậc cha mẹ luôn đặt mình ở vị thế của người bề trên và thông điệp mà họ gửi đến con cái thường là mệnh lệnh, sự cảnh báo, huấn thị, kiểm soát, khuyên bảo, lên lớp, phê phán thậm chí lăng mạ. Những phản ứng kiểu này đặt trẻ em vào vị thế của người nghe thụ động, co cụm, sợ hãi, hay phản ứng gay gắt. Khi đó cha 7
  13. mẹ không còn cơ hội chia sẻ, thấu hiểu con cái như một chủ thể giao tiếp tích cực để tác động theo chiều hướng tích cực và phù hợp” [29] - Thạc sĩ tâm lý Hoàng Minh Tố Nga chia sẻ: "Qua tham vấn tâm lý, tôi phát hiện nhiều điều không ổn trong cách dạy con của người lớn". Cuộc sống đã có quá nhiều thay đổi, nhưng không ít người cứ dạy con "nguyên xi" theo cách mình từng được hưởng trước đây. Họ "ghi âm" sẵn những bài học đạo đức, đợi khi có dịp là phát ra để "lên lớp" chứ không quan tâm lắng nghe. Khi bố mẹ không là "đồng minh", trẻ sẽ chia sẻ cuộc sống của mình với những người bên ngoài tổ ấm và điều đó thật nguy hiểm"[dẫn theo 44]. - Tại Hội nghị quốc gia về phòng chống xâm hại trẻ em do Bộ LĐ–TB- XH phối hợp với Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) và Tổ chức Plan tổ chức ngày 22/8/2008, báo cáo của Cục Bảo vệ chăm sóc trẻ em (BVCSTE) thuộc Bộ LĐ-TB-XH, cho biết, từ năm 2005 đến 2007, số vụ xâm hại, bạo lực đối với trẻ em trong gia đình tăng gấp ba lần so với trước đó [dẫn theo 45]. - Cũng theo Cục BVCSTE, 58,3% trẻ được khảo sát một cách ngẫu nhiên tại một số tỉnh, thành cho biết, các em thường xuyên bị người lớn quát mắng, sỉ nhục, tát tai, phát vào mông khi mắc lỗi. Việc sử dụng hình phạt, biện pháp giáo dục nghiêm khắc mang tính bạo lực, cả về tinh thần lẫn thể xác trong gia đình còn khá phổ biến. Nhiều cha mẹ đánh đập con mà không biết đó là hành vi xâm hại [dẫn theo 45]. - Tại Hội thảo Sức khoẻ thanh niên và vị thành niên (Hà Nội, 30/6), nhiều chuyên gia tâm lý cho rằng, trong xã hội đầy biến động, áp lực và cạnh tranh ngày nay, trẻ em không chỉ cần được nuôi khoẻ về thể chất, mà còn cần được "dưỡng" cả tinh thần. Cách cư xử hà khắc của cha mẹ sẽ không chỉ khiến gia đình đánh mất vai trò "giảm sóc" cho con, mà còn khiến trẻ thui chột tình cảm; đến một lúc nào đó từ chối chính cha mẹ các cháu [dẫn theo 45]. - Tác giả Văn Thị Kim Cúc trong nghiên cứu của mình về "một số cách thức giáo dục con cái ở một nhóm bố mẹ Hà Nội" đã đưa ra giả thuyết và chứng 8
  14. minh được sự tồn tại của nhiều cách thức giáo dục khác nhau của bố mẹ. Đồng thời cô cũng chỉ ra nguyên nhân tâm l ý của những cách thức giáo dục ấy như là: môi trường văn hóa xã hội của bố mẹ, bản sắc làm bố làm mẹ, giới tính của trẻ và sự kỳ vọng của bố mẹ đối với sự thành công thành đạt của trẻ. Theo ông Trần Ban Hùng, giám đốc chương trình nghiên cứu về trẻ em của Tổ chức Cứu trợ trẻ em Thụy Điển cho biết "vấn đề trừng phạt thân thể trẻ em ở Việt Nam vẫn còn xảy ra rất nhiều cho tới thời điểm này. Vào năm 2005, một nghiên cứu của tổ chức này cho thấy “hơn 60% trẻ em nói rằng mình bị trừng phạt thân thể ở gia đình"[dẫn theo 45] Hầu hết cha mẹ đều không coi việc trừng phạt thân thể trẻ em là vi phạm luật mà người ta coi đó là một cách nuôi dưỡng con cái Cha mẹ còn nặng nề về tư tưởng phong kiến ngày xưa, cha mẹ bảo sao thì con cái phải như thế, con cái giống như tài sản của cha mẹ "[dẫn theo 44] Theo Tiến sĩ Võ Văn Nam, giảng viên khoa Tâm lý, trường Đại học Sư phạm TPHCM trả lời phỏng vấn báo chí thì việc cha mẹ dùng roi vọt để trừng phạt con cái là việc không nên làm dù trong bất kỳ tình huống nào “Vì khi dùng roi vọt, tức là đã đầu hàng, đã bất lực đối với việc giáo dục con cái. Hơn nữa, ảnh hưởng của việc dùng roi vọt chỉ tạo ra những con người ranh mãnh một cách đáng sợ hoặc hèn nhát một cách đáng thương, roi vọt không tạo ra một nhân cách lành mạnh [dẫn theo 44]. Đứa trẻ khi tránh được xu hướng nhát đòn, thì lại rơi vào trạng thái lì đòn, chai đòn, và những đứa trẻ như vậy sẽ không cảm nhận được nỗi đau trên cơ thể mình, lại càng không thể cảm nhận nỗi đau trên cơ thể của người khác. Lớn lên, nó sẽ chà đạp lên người khác để tiến lên. Những con người đó sẽ không có lợi cho cộng đồng cũng không có lợi cho chính bản thân họ. Chính vì truyền thống, thói quen, hiểu lầm ý của ông cha ngày xưa “thương con cho roi, cho vọt, ghét con cho ngọt, cho bùi”, nghĩa là có 9
  15. lúc khoan dung, có lúc cương quyết, phải nghiêm khắc mà cha mẹ đã lạm dụng “roi, vọt” để dạy con. Tiến sĩ tâm lý Đỗ Ngọc Khanh, ở Hà Nội, hiện đang làm việc trực tiếp với trẻ em đường phố thì việc dùng bạo lực để giáo dục trẻ sẽ để lại hậu quả khó lường “Tôi làm việc với những trẻ em đường phố thì thấy rằng phần lớn các em bỏ nhà ra đi, lang thang kiếm sống vì bị đối xử bạo lực trong gia đình. Đấy là hậu quả chứng minh rằng khi bị trừng phạt như thế thì dẫn đến các em có những hành vi phạm luật rất cao” Từ năm 2003, UNICEF cùng với Uỷ ban Dân số Gia đình và Trẻ em, Quỹ Cứu trợ trẻ em Thụy Điển và Plan International tiến hành một số nghiên cứu đánh giá mức độ bạo lực và lạm dụng trẻ em ở Việt Nam. Vào năm 2003, một nghiên cứu tiến hành trên 2.800 người tham gia (chủ yếu là trẻ em) ở ba tỉnh An Giang, Lào Cai và Hà Nội vào năm 2003 cho thấy, trừng phạt thân thể (đánh đập) là hình thức bạo lực phổ biến ở gia đình và trường học, các hình thức bạo lực khác như lạm dụng từ ngữ, bắt nạt và chứng kiến bạo lực gia đình cũng khá phổ biến. Có nhiều trường hợp lạm dụng tình dục đã được nêu ra trong báo cáo, đặc biệt là thói quen người lớn sờ dương vật của trẻ em trai [45]. - Tác giả Lê Thi trong bài viết “xây dựng mối quan hệ thích hợp giữa cha mẹ và con cái” cũng đề cập đến những nguyên nhân tâm lý dẫn đến sự xung đột giữa cha mẹ và con cái cũng như việc cha mẹ sử dụng các biện pháp trừng phạt để răn dạy, giáo dục con. Đó là “ chủ nghĩa cá nhân vị kỷ, tính hiếu thắng trong mỗi con người”; là “tính độc đoán” Lấy quyền làm cha làm mẹ, cha mẹ thường “tự cho mình có quyền quyết định tối cao, bắt con cái phải nghe theo mình vì mình đã sinh ra chúng, đã vất vả nuôi dưỡng, cho chúng ăn học. Họ tự cho mình cái quyền được phạt hay đánh mắng con và nhiều khi coi thường con cái. Khi mình sai vì tính tự ái và sĩ diện cá nhân lại không muốn rút kinh nghiệm ” [45] 10
  16. - Tác giả Lê Thi trong "nghệ thuật ứng xử giữa cha mẹ và con cái "đã chỉ ra những nguyên nhân, yếu tố tâm l ý xã hội ảnh hưởng tới cách thức giáo dục con của cha mẹ. Trong đó có một nguyên nhân được bà khá nhấn mạnh là trình độ kiến thức của cha mẹ so với con cái và tâm l ý tự ti, thủ cựu, coi thường con trẻ, luôn luôn tuyệt đối hóa vai trò của kinh nghiệm và cho rằng "trứng" không thể "khôn hơn vịt" được [ dẫn theo 45]. - Tác giả Mai Thị Kim Thanh trong nghiên cứu về "ứng xử giữa các thành viên trong gia đình với việc chăm sóc sức khỏe tâm trí cho trẻ" đã chỉ ra một vài nguyên nhân tâm l ý chi phối cách thức giáo dục con nói chung và hình thức trừng phạt con của cha mẹ. Đó là những nguyên nhân như: truyền thống Nho giáo và những tư tưởng Nho giáo vẫn in sâu trong tâm thức mỗi người Việt Nam. Là tính gia trưởng độc đoán trong cách ứng xử của người lớn đối với trẻ . Là sự hạn chế trong nhận thức của cha mẹ : về đặc trưng tâm lý lứa tuổi , về quyền lợi và nghĩa vụ của trẻ em, về luật bảo vệ và chăm sóc giáo dục trẻ em, về ảnh hưởng của những hình thức giáo dục đến sự hình thành nhân cách trẻ [ dẫn theo 37] Những nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Thanh nhiên đã đưa ra kết luận “trẻ em là nạn nhân chính và cũng là nguyên nhân của nhiều vụ bạo lực gia đình”. Kết quả nghiên cứu thăm dò dư luận trẻ em được tiến hành năm 1998 do tác giả Đặng Cảnh Khanh và Nguyễn Văn Buồm thực hiện đã phỏng vấn các em về hình thức xử phạt của cha mẹ với con cái. Trong số những em được hỏi thì có 90,52% nói rằng chúng thường bị cha mẹ đánh khi có lỗi, trong đó vừa đánh, vừa mắng là 25,6%, đánh đau là 64,92%. Cũng theo báo cáo này thì có 45% các em nói rằng mình bị phạt oan ức, 72.08% nói rằng đã rất đau buồn khi bị xử phạt và có 27,92% nói rằng các em rất tức giận bố mẹ. “Những thương tích trên cơ thể dù đau đớn nhưng thời gian sẽ xóa nhòa, còn những thương tích về tinh thần, đời sống tâm lý, trẻ đâu dễ quên đi [ dẫn theo 35] 11
  17. Kết quả cuộc điều tra dư luận học sinh với chủ đề: " Hình phạt của cha mẹ đối với trẻ em" tại 12 điểm đại diện các tỉnh thành phố Trung Nam Bộ trở ra phía Bắc với sự tham gia của 1240 học sinh cũng cho thấy kết quả tương tự: 50,1% trẻ cho rằng cha mẹ đôi khi sử dụng hình phạt, 45,7% cho rằng cha mẹ thường xuyên sử dụng hình phạt và chỉ có 4,1% là trẻ cho rằng cha mẹ không xử phạt [45]. Tác giả Khánh Phương trong bài viết "Gánh nặng trên đôi vai bé nhỏ" đề cập đến những sức ép, áp lực mà cha mẹ đang đặt lên vai các em đó là sự kỳ vọng vào các em, vào kết quả học tập, vào trí thông minh, sự tiến bộ và những thành tích Chính những điều này cũng là một trong những nguyên nhân chi phối cách thức dạy dỗ con của cha mẹ. Khi trẻ không đáp ứng được những kỳ vọng đó sẽ gây những căng thẳng, thất vọng cho cha mẹ, gây tâm trạng bực bội, khó chịu, chán nản và khi đó cha mẹ rất dễ nổi giận với con, áp dụng các hình thức kỷ luật , trừng phạt để con ngoan hơn , biết nghe lời và có chí phấn đấu cố gắng hơn [44]. Hành vi bạo lực của cha mẹ cũng được đề cập đến khá nhiều như là một nguyên nhân khách quan trong các công trình nghiên cứu về những hành vi phạm tội hay lệch chuẩn ở trẻ em đặc biệt là trẻ em tuổi vị thành niên. Như vậy, từ trước tới nay hành vi bạo lực trong gia đình được đề cập đến nhiều trong các công trình nghiên cứu, tuy nhiên, những hành vi bạo lực của cha mẹ đối với con thì chưa được đề cập một cách kỹ càng, trực tiếp. Có chăng chỉ là nhận biết những hành vi đó thông qua nghiên cứu mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái trong gia đình hay khi đi sâu nghiên cứu những hành vi lệch chuẩn của trẻ em, đặc biệt là trẻ vị thành niên. Những hành vi bạo lực của cha mẹ đối với con mới được xem xét như là nguyên nhân của những hành vi lệch chuẩn hay một biểu hiện trong mối quan hệ giữa cha mẹ với con cái chứ chưa được xem xét như một đối tượng nghiên cứu. Chưa có những nghiên cứu sâu về thực trạng, nguyên nhân, hậu quả, đặc biệt là những ảnh hưởng về mặt tâm lý của những hành vi bạo lực đó đối với trẻ. Nếu có thì vấn đề cũng chỉ được xem xét 12
  18. như là một phần trong đề tài và chưa được tìm hiểu môṭ cách thấu đáo, sâu sắc, nhất là dưới góc nhìn của khoa học Tâm l ý. Những dữ liệu thu được về bạo lực gia đình, bạo lực thế hệ đối với trẻ thường mới chỉ được thu thập trong những nghiên cứu khác nhau về gia đình, về giới và sức khỏe, hoặc trong những nghiên cứu về bạo lực gia đình. 1.2. Những khái niệm cơ bản 1.2.1. Khái niệm hành vi Trong khoa học nói chung và Tâm lý học nói riêng, hành vi là một trong những khái niệm quan trọng, được nhiều tác giả đề cập đến trong nhiều tài liệu với cách nhìn nhận khác nhau từ nhiều góc độ nghiên cứu. Thuật ngữ hành vi xuất hiện từ thời trung cổ và thường được sử dụng để miêu tả hay nói về tính cách. Cho đến khi lý thuyết hành vi trở thành một trường phái Tâm lý học, lấy hành vi người làm đối tượng nghiên cứu, khái niệm hành vi được bàn đến rất nhiều trong khoa học tâm lý. Trong lý thuyết Hành vi cổ điển cho rằng hành vi - đơn giản chỉ là tổ hợp các phản ứng của cơ thể trả lời các kích thích tác động lên cơ thể. Toàn bộ hành vi, phản ứng của con người và động vật đều được phản ánh bằng công thức S-R, kích thích - phản ứng (yếu tố ý thức không hề được đề cập đến). Con người được hiểu như một cơ thể, một cái máy hữu cơ muốn tồn tại được thì phải thích nghi với môi trường sống thông qua những hành vi của người đó – những gì người đó nói và làm. Với công thức này, Watson đã nêu lên một quan điểm tiến bộ trong Tâm lý học, coi hành vi là do ngoại cảnh quyết định, hành vi có thể quan sát được, nghiên cứu được một cách khách quan, từ đó có thể điều chỉnh được hành vi theo phương pháp "thử - sai". Tuy nhiên, ở một mức độ nào đó, quan điểm của các nhà hành vi không khác quan điểm của các nhà sinh học là bao. Họ đã quan niệm một cách máy móc, cơ học về hành vi, đem đánh đồng hành vi của con người với hành vi của con vật, coi hành vi chỉ là những phản ứng máy móc nhằm đáp ứng kích thích, giúp cơ thể thích nghi được với môi 13
  19. trường xung quanh, con người thụ động và chịu sự tác động, chi phối hoàn toàn của hoàn cảnh ngoại cảnh. Trong thực tế, con người không chỉ thích ứng với môi trường tự nhiên mà còn thích ứng với môi trường xã hội, do đó, chuẩn mực để đánh giá hành vi con người không chỉ dừng lại ở mức độ thích ứng của cơ thể với môi trường. Chính vì vậy có thể khẳng định đây là quan điểm tự nhiên chủ nghĩa, phi lịch sử và thực dụng. Dần dần, cùng với sự phát triển của khoa học nói chung, khoa học tâm lý nói riêng, trên cơ sở những thành tựu nghiên cứu về hành vi của con người, khái niệm hành vi trong tâm lý học ngày càng được mở rộng, không còn cứng nhắc và máy móc như trong thuyết hành vi cổ điển nữa. Ví dụ như trong quan điểm của J.Piaget khi bàn về mô hình cấu trúc của hành vi S-R (tác nhân kích thích – phản ứng), hành vi người không đơn thuần chỉ là chuỗi các phản ứng của cơ thể trước những tác nhân kích thích bên ngoài. Piaget đặc biệt nhấn mạnh tính tích cực của hành vi con người. Đó không chỉ là những phản ứng của cơ thể trước tác động của môi trường, hơn thế nữa, đó còn là sự tìm kiếm những hoàn cảnh hay đối tượng “còn thiếu hoặc còn chưa tồn tại”[2]. -> Sự ra đời của Tâm lý học hoạt động là một cuộc cách mạng trong xem xét hành vi: Theo L.X.Vưgootxki, hành vi người có cấu trúc khác hẳn về chất so với hành vi của động vật. Cấu trúc hành vi của con người bao gồm kinh nghiệm lịch sử, kinh nghiệm xã hội và kinh nghiệm kép. Những kinh nghiệm này đều xuất phát từ lao động, trong quá trình truyền đạt kinh nghiệm từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ người này sang người khác và trong quá trình lĩnh hội kinh nghiệm, biến cái chung thành cái riêng có của mỗi cá nhân [2]. Theo A.N. Leeonchev, Hành vi không phải là những phản ứng máy móc của một cơ thể sinh vật, hành vi phải được hiểu là một hoạt động [2] Sự ra đời của Tâm lý học Macxit với các nhà đại diện tiêu biểu đã đưa ra một quan điểm mới về hành vi con người. Tâm lý học Macxit coi con người là 14
  20. một chủ thể tích cực chứ không phải là một cá thể thích nghi thụ động với môi trường. Hành vi của con người bao giờ cũng có tính mục đích rõ ràng. Hành vi không chỉ đảm bảo cho con người tồn tại mà còn đảm bảo cho con người ngày càng phát triển. Những hành vi đó chứng tỏ con người là chủ thể tích cực tác động vào môi trường, cải tạo môi trường nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con người. Hành vi của con người được hiểu là hoạt động có tiền đề tự nhiên song về bản chất có tính quy định xã hội. Hành vi được thực hiện thông qua ngôn ngữ và các hệ thống kí tín hiệu có ý nghĩa khác. Đặc điểm hành vi của mỗi cá nhân phụ thuộc vào mối quan hệ của cá nhân đó đối với nhóm mà anh ta là thành viên thông qua các quy tắc, chuẩn mực, vai trò của anh ta trong nhóm đó. Hành vi của con người được phản ánh theo công thức S-O-R. Các nhà nghiên cứu Việt Nam cũng đưa ra những cách hiểu và định nghĩa khác nhau về hành vi. Theo Từ điển Tâm lý học do Nguyễn Khắc Viện chủ biên thì hành vi "là các hoạt động cụ thể , những phản ứng của con người hay động vật khi bị một yếu tố nào đó trong môi trường kích thích với muc̣ đích là thích nghi với môi trường". Trong khoa học Tâm lý, hành vi (behavior) chỉ mọi phản ứng của một động vật khi bị một yếu tố nào đó trong môi trường kích thích; các yếu tố bên ngoài và tình trạng bên trong gộp thành một tình huống, và tiến trình của ứng xử để thích ứng có định hướng nhằm giúp chủ thể thích nghi với hoàn cảnh. Khi nhấn mạnh về tính khách quan, tức là các yếu tố bên ngoài kích thích cũng như phản ứng đều là những hiện tượng có thể quan sát được, chứ không như tình ý bên trong thì nói là ứng xử. Khi nhấn mạnh mặt định hướng, mục tiêu thì gọi là hành vi. "Những cá nhân trong xa ̃ hôị có hành vi phản ứ ng khác nhau tr ước những kích thích của môi trường . Nguyên nhân gây ra hành vi khác nhau của cá nhân trước cùng môṭ kích thích là do các cá nhân có nhu cầu , đôṇ g cơ, tri giác , thái đô,̣ niềm tin, hê ̣giá tri,̣ kinh nghiêṃ không đồng nhất như nhau"[41] 15