Luận văn Hàng giả mạo về sở hữu trí tuệ theo quy định của luật sở hữu trí tuệ Việt Nam

pdf 135 trang vuhoa 24/08/2022 10020
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Hàng giả mạo về sở hữu trí tuệ theo quy định của luật sở hữu trí tuệ Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_hang_gia_mao_ve_so_huu_tri_tue_theo_quy_dinh_cua_lu.pdf

Nội dung text: Luận văn Hàng giả mạo về sở hữu trí tuệ theo quy định của luật sở hữu trí tuệ Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐỖ ĐÔ THÀNH HÀNG GIẢ MẠO VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014 1
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐỖ ĐÔ THÀNH HÀNG GIẢ MẠO VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ VIỆT N AM Chuyên ngành : Luật dân sự Mã số : 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Quế Anh Hà nội - 2014 2
  3. Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch•a tõng ®•îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n §ç §« Thµnh 3
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HÀNG HÓA 7 GIẢ MẠO VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ 1.1. Khái quát chung về quyền sở hữu trí tuệ và hành vi xâm phạm 7 quyền sở hữu trí tuệ 1.1.1. Khái quát chung về quyền sở hữu trí tuệ 7 1.1.2. Hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ 20 1.2. Khái niệm, đặc điểm và phân loại hàng hóa giả mạo về sở hữu 27 trí tuệ 1.2.1. Khái niệm hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ 27 1.2.2. Đặc điểm hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ 33 1.2.3. Các dạng hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ 34 1.3. Tương quan giữa hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ với hàng 35 hóa xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ 1.4. Tương quan giữa hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ và hàng 39 hóa chứa dấu hiệu cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến sở hữu trí tuệ 1.5. Ý nghĩa của việc xử lý hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ 41 1.6. Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển các quy định của pháp 44 luật Việt Nam về hàng hóa hóa giả mạo quyền sở hữu trí tuệ 4
  5. Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH VỀ HÀNG HÓA GIẢ MẠO VỀ SỞ HỮU 49 TRÍ TUỆ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH 2.1. Các loại hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ 49 2.2. Xác định hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ theo quy định 52 của Luật Sở hữu trí tuệ 2.2.1. Hàng hóa giả mạo về quyền tác giả 53 2.2.2. Hàng hóa giả mạo về quyền liên quan 59 2.2.3. Hàng hóa giả mạo về nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý 64 2.3. Xử lý hành vi làm giả mạo về sở hữu trí tuệ 76 2.3.1. Xử lý bằng biện pháp dân sự 77 2.3.2. Xử lý bằng một số biện pháp khác 92 Chương 3: THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN MỘT SỐ 105 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HÀNG HÓA GIẢ MẠO VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ 3.1. Thực trạng hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ tại Việt Nam 105 3.1.1. Số lượng vụ việc xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ 106 3.1.2. Tính chất và mức độ vi phạm 110 3.1.3. Thực trạng xử lý vi phạm 111 3.2. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng xâm phạm quyền sở hữu trí 111 tuệ ngày càng gia tăng 3.3. Kiến nghị hoàn thiện một số quy định của pháp luật liên quan 114 đến xử lý hành vi vi phạm pháp luật trong đó bao gồm cả những quy định về hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ 3.3.1. Kiến nghị thứ nhất, cần có những quy định cụ thể hơn về hàng 115 hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ và hàng hóa xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ 3.3.2. Kiến nghị thứ hai, cần có hướng dẫn về việc bãi bỏ điều kiện 116 gửi thư cảnh báo đến bên có hành vi vi phạm trong nghị định hoặc thông tư 5
  6. 3.3.3. Kiến nghị thứ ba, cần có những quy định cụ thể hơn nữa trong 116 việc xác định thường thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ gây ra 3.3.4. Kiến nghị thứ tư, quy định trách nhiệm rõ ràng giữa các cơ 117 quan thực thi pháp luật 3.3.5. Kiến nghị thứ năm, cần thành lập Tòa án chuyên trách về sở 118 hữu trí tuệ KẾT LUẬN 119 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 121 6
  7. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật Hình sự BLTTDS : Bộ luật Tố tụng dân sự KDCN : Kiểu dáng công nghiệp SHCN : Sở hữu công nghiệp SHTT : Sở hữu trí tuệ 7
  8. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng 3.1 Thống kê số vụ khiếu nại về vi phạm quyền SHCN 106 3.2 Số liệu vụ việc tranh chấp về SHTT đã được giải quyết 110 tại Tòa án 8
  9. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Hiện nay, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của tổ chức Thương mại thế giới. Trong xu thế hội nhập chung vào nền kinh tế toàn cầu, sở hữu trí tuệ (SHTT), ở bất kỳ một quốc gia nào cho dù là quốc gia có nền kinh tế phát triển hùng mạnh hay ở những quốc gia có nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam, sẽ đóng một vai trò hết sức quan trọng bởi đơn giản nó là một trong những cấu thành của kinh tế tri thức - nền kinh tế được nhận định và đánh giá là sẽ quyết định đến sự phát triển lớn mạnh và bền vững của từng quốc gia cũng như nền kinh tế toàn cầu trong một tương lai không xa. Nhận thức được tầm quan trọng của SHTT đối với sự hội nhập và phát triển của đất nước nên trong nhiều năm qua đặc biệt là trong khoảng thời gian từ năm 2001-2010, Nhà nước ta đã vạch ra một trong các mục tiêu và chiến lược để đưa đất nước phát triển đó là: chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với điều kiện của nước ta và bảo đảm thực hiện những cam kết trong quan hệ song phương và đa phương như Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA), Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Hiệp định thương mại Việt - Mỹ, tiến tới gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Một trong những nhiệm vụ trong giai đoạn nói trên cần phải thực hiện trước khi gia nhập WTO đó là xây dựng một bộ khung pháp lý đầy đủ và toàn diện về lĩnh vực SHTT để các quyền SHTT có thể được xác lập và thực thi một cách tốt nhất. Từ mục tiêu và chiến lược nêu trên, những năm gần đây, SHTT thực sự đã và đang dần có những bước phát triển khá mạnh mẽ cả về mặt xác lập và thực thi quyền ở Việt Nam. Một trong những minh chứng rõ nét nhất cho sự phát triển này chính là việc nhà nước ta đã ban hành một loạt các văn bản về SHTT để một mặt xây dựng một bộ khung pháp lý đầy đủ và vững chắc giúp chúng ta tạo tiền đề để có thể hội nhập sâu và rộng hơn vào nền kinh tế thế giới, mặt khác sẽ giúp cho các cơ quan quản lý nhà nước cũng như các chủ thể quyền sở hữu và 9
  10. người sử dụng hợp pháp các đối tượng SHTT có thể quản lý và bảo vệ tốt hơn quyền SHTT của mình. Qua việc chọn đề tài này làm luận văn tốt nghiệp sẽ giúp cho tác giả có điều kiện tìm hiểu và nghiên cứu sâu hơn và đầy đủ hơn về các quy định hiện hành của pháp Luật SHTT Việt Nam về lĩnh vực SHTT nói chung và những quy định của pháp luật về hàng hóa xâm phạm quyền SHTT, hàng hóa giả mạo về SHTT nói riêng qua đó sẽ giúp cho tác giả có một cái nhìn khái quát và toàn diện hơn về hệ thống pháp luật SHTT hiện hành cũng như thực trạng thực thi quyền SHTT ở Việt Nam về lĩnh vực tác giả đang nghiên cứu này. Về mặt xây dựng hệ thống pháp luật về SHTT, qua thực tiễn nghiên cứu và tìm hiểu các quy định của pháp luật về SHTT của Việt Nam, tác giả nhận thấy một trong những điểm hạn chế và bất cập trong các văn bản pháp luật về SHTT trước khi Quốc hội ban hành Luật SHTT năm 2005 đó là chưa có sự phân định thật sự rõ ràng giữa hàng hóa giả mạo về SHTT và hàng hóa xâm phạm quyền SHTT mà thay vào đó là việc đánh đồng hai loại hàng hóa này cùng với các hàng hóa giả mạo khác bằng việc quy định về hàng giả nói chung (ví dụ như hàng hóa giả mạo về nhãn hiệu, kiểu dáng; hàng giả về chất lượng, công dụng ). Chính điều này đã ít nhiều gây nên sự khó khăn trong việc xác định và xử lý các hành vi xâm phạm quyền SHTT cho cả cơ quan thực thi pháp luật cũng như các chủ thể quyền SHTT. Kể từ khi Luật SHTT năm 2005 ra đời và có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2006 sau đó được sửa đổi và bổ sung một số điều vào năm 2009 (Luật SHTT), cũng như một số văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành luật này được ban hành đã có những quy định khá cụ thể về hàng hóa giả mạo về SHTT và hàng hóa xâm phạm quyền SHTT. Sự quy định cụ thể này đã phần nào giải quyết được những bất cập trước đây đặc biệt là sẽ giúp cho các cơ quan thực thi pháp luật có thể giải quyết nhanh và xử lý đúng với tính chất và mức độ của các hành vi xâm phạm quyền SHTT nhằm bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ sở hữu, người sử dụng hợp pháp quyền SHTT. Mặc dù vậy, qua thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về hàng hóa giả mạo về SHTT cho thấy, không phải ai đọc các văn bản pháp luật về SHTT cũng có thể dễ dàng nhận ra ranh giới của sự khác biệt giữa hàng hóa giả 10
  11. mạo về SHTT và hàng hóa xâm phạm về SHTT, kể cả những người đang công tác trong lĩnh vực SHTT. Do vậy, việc chọn đề tài này làm luận văn tốt nghiệp, một mặt sẽ giúp cho chính tác giả có thể tìm hiểu cũng như phân biệt được ranh giới của hai loại hàng hóa này, mặt khác sẽ cung cấp thêm một nguồn tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến lĩnh vực SHTT về hàng hóa xâm phạm quyền SHTT nói chung và hàng hóa giả mạo về SHTT nói riêng. Dưới góc độ thực tế áp dụng và thực thi quyền SHTT, tác giả nhận thấy trong những năm gần đây tình trạng sản xuất, buôn bán hàng hóa xâm phạm quyền SHTT nói chung và hàng hóa giả mạo về SHTT nói riêng ngày càng gia tăng ở Việt Nam cả về tính chất và quy mô vi phạm. Nạn sản xuất, buôn bán hàng hóa giả mạo về SHTT không chỉ gây thiệt hại cũng như có ảnh hưởng xấu về nhiều mặt cho người tiêu dùng, cho các chủ sở hữu có quyền SHTT bị xâm phạm mà còn có tác dụng tiêu cực đến sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Do đó, việc chọn đề tài này làm luận văn tốt nghiệp sẽ giúp cho tác giả có thể tìm hiểu sâu hơn đến tác hại của nạn sản xuất, buôn bán hàng hóa giả mạo về SHTT, qua đó sẽ đóng góp một số ý kiến góp phần ngăn chặn tệ nạn này. Ngoài ra, tác giả nhận thấy thực tiễn áp dụng các quy định của Luật SHTT trong việc xác định và xử lý hành vi sản xuất, buôn bán hàng hóa giả mạo về SHTT còn có một số vướng mắc và khó khăn cho cả cơ quan thực thi pháp luật cũng như cho các chủ sở hữu và người sử dụng hợp pháp các đối tượng SHTT. Do đó, việc chọn đề tài này làm luận văn tốt nghiệp sẽ giúp cho tác giả có điều kiện chỉ ra những khó khăn và vướng mắc được tác giả nhận thấy thông qua quá trình tác nghiệp, qua đó sẽ đề xuất một số giải pháp để có thể giải quyết những khó khăn này. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài này tại Việt Nam Theo tìm hiểu chủ quan của tác giả, tính đến thời điểm tác giả chọn đề tài này làm luận văn tốt nghiệp, cũng có một số công trình nghiên cứu khoa học dưới dạng luận văn tốt nghiệp, bài viết có liên quan đến lĩnh vực hàng giả, hàng xâm phạm quyền SHTT. Một số công trình nghiên cứu dưới dạng luận văn tốt nghiệp có thể kể đến như: Đấu tranh phòng chống tội làm hàng giả, tội buôn bán hàng giả ở Việt 11
  12. Nam hiện nay (Luận văn thạc sĩ Luật học của Đỗ Thị Lan, Trường Đại học Luật Hà Nội, 1998); Đánh giá yếu tố xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của hàng giả trong hoạt động của quản lý thị trường (Luận văn thạc sĩ Luật học của Chu Thị Thu Hương, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2006); Bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ theo pháp luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam (Khóa luận tốt nghiệp của Đinh Thị Thúy Vân, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2011) Một số công trình nghiên cứu khoa học dưới dạng bài viết có liên quan đến đề tài của tác giả có thể kể đến như: Nâng cao vai trò của Tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp về sở hữu trí tuệ, của TS. Nguyễn Thị Quế Anh, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004; Hoạt động thực thi quyền tác giả trên địa bàn thành phố Hà Nội, đăng trên Tạp chí SHTT của Hội SHTT Việt Nam, số 39 năm 2004, của tác giả Phan Đăng Long Tuy nhiên, tác giả nhận thấy chưa có một công trình nghiên cứu khoa học nào đi sâu vào phân tích một cách có hệ thống về hàng hóa giả mạo về SHTT theo quy định của pháp luật Việt Nam. Do đó, việc tác giả chọn đề tài "Hàng giả mạo về sở hữu trí tuệ theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam" làm luận văn tốt nghiệp sẽ không bị trùng lặp với các công trình nghiên cứu tương tự trước đó đã được công bố trước đó. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Từ việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về hàng hóa giả mạo về SHTT cũng như phân tích thực trạng áp dụng và xử lý hàng hóa giả mạo về SHTT ở Việt Nam, tác giả sẽ đề xuất, kiến nghị một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện hơn về hệ thống các quy định của pháp luật về hàng hóa giả mạo về SHTT cũng như một số biện pháp nhằm góp phần ngăn chặn và xử lý hiệu quả hơn đối với các hành vi sản xuất, buôn bán loại hàng hóa này qua đó góp phần xây dựng một môi trường SHTT ngày một trong sạch và lành mạnh hơn ở Việt Nam. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Chọn đề tài này làm luận văn tốt nghiệp, tác giả đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau đây: 12
  13. - Làm rõ những vấn đề lý luận về hàng hóa giả mạo về SHTT. - Phân tích hệ thống các quy định của pháp luật Việt Nam về SHTT liên quan hàng hóa giả mạo về SHTT từ đó đặt ra những vấn đề, nội dung bất cập cần được khắc phục, sửa đổi, bổ sung. - Đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật Việt Nam về hàng hóa giả mạo về SHTT, hàng hóa xâm phạm quyền SHTT. 4. Đối tƣợng nghiên cứu Đối tượng chính mà đề tài hướng đến nghiên cứu là các quy đinh hiện hành của pháp luật Việt Nam về SHTT liên quan đến hàng hóa giả mạo về SHTT, thực tiễn áp dụng các quy định của pháp Luật SHTT trong việc xác định và xử lý hàng hóa giả mạo về SHTT của các cơ quan thực thi pháp luật. 5. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Trong phạm vi của một luận văn thạc sĩ, tác giả chủ yếu tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận của hệ thống pháp luật Việt Nam về SHTT liên quan đến hàng hóa giả mạo về SHTT cùng với việc đánh giá thực trạng áp dụng và thực thi các quy định của pháp luật của các cơ quan chức năng cũng như của các chủ thể quyền SHTT có liên quan đến loại hàng hóa này. 6. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn của tác giả được viết dựa theo các cơ sở lý luận là các thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý như: lịch sử pháp luật, lý luận về pháp luật, xã hội học pháp luật, luật hình sự, tội phạm học, sách chuyên khảo và các bài đăng trên tạp chí của các nhà khoa học - luật gia Việt Nam và nước ngoài. Bên cạnh đó, để góp phần phân tích khoa học nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về hàng hóa giả mạo về SHTT trong quá trình viết luận văn, tác giả còn sử dụng phương pháp phân tích pháp luật. Luận văn của tác giả đã sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các phương pháp nghiên cứu lịch sử, phương pháp phân tích, so sánh, quy nạp, thống kê để tiếp cận, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn có trong đề tài. 13
  14. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài Về mặt lý luận: - Thông qua việc nghiên cứu lịch sử phát triển các quy định của pháp luật về hàng hóa xâm phạm quyền SHTT, hàng hóa giả mạo về SHTT, luận văn sẽ góp phần làm sáng tỏ tính kế thừa và phát triển của các quy định pháp luật về vấn đề có liên quan này; - Luận văn cũng góp phần hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến hàng hóa xâm phạm quyền SHTT, hàng giả và hàng hóa giả mạo về SHTT. Về mặt thực tiễn: - Luận văn sẽ đóng góp một cái nhìn toàn cảnh về thực trạng áp dụng và thực thi các quy định của pháp luật về hàng hóa xâm phạm quyền SHTT, hàng giả nói chung và hàng hóa giả mạo về SHTT của các chủ thể quyền SHTT cũng như của các cơ quan thực thi pháp luật để từ đó có thể chỉ ra được những quy định còn bất cập, chưa hợp lý để đề xuất hướng sửa đổi, bổ sung; - Ngoài ra, thông qua đề tài nghiên cứu này luận văn sẽ đóng góp một cái nhìn toàn cảnh về thực trạng sản xuất, kinh doanh về hàng hóa giả mạo về SHTT của Việt Nam. Qua đó có thể chỉ ra những tác hại của loại hàng hóa này đối với sức khỏe và nền kinh tế quốc gia để đề xuất những giải pháp để phòng ngừa và ngăn chặn tệ nạn này. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ. Chương 2: Các quy định về hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ theo pháp luật hiện hành. Chương 3: Thực trạng và kiến nghị hoàn thiện một số quy định của pháp luật Việt Nam về hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ. 14
  15. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HÀNG HÓA GIẢ MẠO VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ 1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ VÀ HÀNH VI XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ 1.1.1. Khái quát chung về quyền sở hữu trí tuệ Trên thế giới, đặc biệt là ở những nước có nền kinh tế phát triển như Mỹ, các nước trong Khối cộng đồng chung Châu Âu, Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc thuật ngữ SHTT hoặc tài sản SHTT đã trở nên quen thuộc với nhiều người dân và các doanh nghiệp vì ở các quốc gia này SHTT là lĩnh vực rất được mọi người quan tâm và có lịch sử phát triển lâu đời. Việt Nam là một quốc gia có nền kinh tế đang phát triển nên SHTT vẫn còn là một trong những lĩnh vực còn khá mới mẻ, chưa thật sự được nhiều người biết đến một cách sâu sắc về loại tài sản đặc thù này. Để có thể hiểu được một cách cơ bản nhất về quyền SHTT, các nội dung cơ bản sau đây cần thiết được tìm hiểu. 1.1.1.1. Khái niệm quyền sở hữu trí tuệ Có lẽ đối với những người không trực tiếp làm việc về lĩnh vực SHTT hoặc chưa có thời gian tìm hiểu nhiều về pháp Luật SHTT, họ thường có những câu hỏi băn khoăn rằng tài sản SHTT là gì? hoặc tài sản này được pháp luật quy định và bảo hộ như thế nào? Để diễn tả một cách dễ hiểu về loại tài sản là quyền SHTT, chúng ta có thể nhìn nhận về loại tài sản này từ thực tiễn cuộc sống như sau: hàng ngày, con người có thể sáng tạo rất nhiều sản phẩm mang tính tạo nhưng không phải tất cả các sản phẩm có chứa các ý tưởng sáng tạo đó đều được pháp Luật SHTT bảo hộ là tài sản SHTT. Chỉ có những sản phẩm trí tuệ được pháp Luật SHTT thừa nhận và bảo hộ thì chúng mới được gọi là tài sản SHTT. Ví dụ, tại giải vô địch bóng đá quốc gia Đông Nam Á (AFF Suzuki cup 2008), Ông Calisto, huấn luyện viên trưởng đội tuyển bóng đá Việt Nam, đã nghiên cứu để tuyển chọn được những cầu thủ 15
  16. bóng đá giỏi như thủ môn Dương Hồng Sơn, trung vệ Như Thành, tiền đạo Công Vinh rồi sau đó sắp xếp họ thành những đội hình chiến thuật khác nhau để đá thắng đội Singapore ở vòng bán kết, thắng đội Thái Lan ở trận chung kết để lên ngôi vô địch, là một sản phẩm trí tuệ của vị huấn luyện viên người Bồ Đào Nha (thể hiện ở việc sắp xếp đội hình chiến thuật thi đấu ). Tuy nhiên, để sản phẩm mang tính trí tuệ nói trên được pháp Luật SHTT của Việt Nam bảo hộ là một tài sản SHTT, thì Ông Calisto cần phải thể hiện các ý tưởng sáng tạo nói trên của mình dưới một hình thức nhất định ví dụ như viết các ý tưởng sáng tạo này của mình thành một cuốn sách về bóng đá Theo đó, tác giả có thể đưa ra khái niệm về quyền SHTT dưới góc độ pháp lý như sau: quyền SHTT là quyền đối với những tài sản trí tuệ được con người sáng tạo ra từ hoạt động tư duy, hoạt động sáng tạo, đầu tư của mình và thành quả của hoạt động sáng tạo, đầu tư đó được pháp luật thừa nhận và bảo hộ. Từ khái niệm về tài sản SHTT như trên, có thể hiểu đối tượng của loại sở hữu này là các tài sản phi vật chất nhưng có giá trị kinh tế, tinh thần to lớn góp phần quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển nền văn minh, khoa học, công nghệ của nhân loại bao gồm các tác phẩm văn học, nghệ thuật, các công trình khoa học kỹ thuật ứng dụng, các tên gọi, hình ảnh được sử dụng trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh thương mại. 1.1.1.2. Phân loại quyền sở hữu trí tuệ Có thể ở hệ thống pháp luật quốc tế hoặc hệ thống pháp luật của từng quốc gia có những quy định không hoàn toàn giống nhau về các đối tượng quyền SHTT được bảo hộ hoặc thậm chí các lĩnh vực quyền SHTT. Cụ thể, theo quy định tại Công ước thành lập WIPO tại Stockholm ngày 14/07/1967 có đã đưa ra hệ thống các đối tượng thuộc phạm trù SHTT được chấp nhận trên toàn thế giới như sau: "intellectual property" shall include the rights relating to: literary, artistic and scientific works, performances of performing artists, phonograms, and broadcasts, inventions in all fields of human 16
  17. endeavor, scientific discoveries, industrial designs, trademarks, service marks, and commercial names and designations, protection against unfair competition and all other rights resulting from intellectual activity in the industrial, scientific, literary or artistic fields [49, Article 2]. Tác giả tạm dịch như sau: Sở hữu trí tuệ bao gồm các quyền gắn liền với các đối tượng: tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học; cuộc biểu diễn của nghệ sĩ biểu diễn, bản ghi âm và cuộc phát sóng; sáng chế thuộc mọi lĩnh vực nỗ lực của con người; phát minh khoa học; kiểu dáng công nghiệp; nhãn hiệu, tên và chỉ dẫn thương mại; bảo hộ chống cạnh tranh không lành mạnh; tất cả các quyền khác là kết quả của hoạt động trí tuệ trong lĩnh vực công nghiệp, khoa học, văn học và nghệ thuật [49, Điều 2]. Như vậy, theo quy định của Công ước Stockholm, thì quyền SHTT bao gồm hai lĩnh vực quyền mang tính truyền thống đó là: quyền tác giả, quyền liên quan; và quyền sở hữu công nghiệp (SHCN). Trong khi đó, theo quy định của Luật SHTT của Việt Nam, quyền SHTT là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan; quyền SHCN; và quyền đối với giống cây trồng. - Quyền tác giả và quyền liên quan: Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu. Quyền liên quan đến quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa. Các tài sản quyền SHTT ở lĩnh vực quyền tác giả và quyền liên quan luôn được pháp luật bảo hộ quyền nhân thân và quyền tài sản. Chủ sở hữu quyền tác giả và quyền liên quan được độc quyền sử dụng và khai thác tác phẩm của mình. Ngoại trừ những trường hợp được pháp luật cho phép sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao thì mọi hành vi sao chép, trích dịch, công bố, phổ biến, nhằm mục đích kinh doanh mà không có sự đồng ý của chủ sở hữu quyền tác giả và quyền liên quan đều bị coi là xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan đến tác giả. 17
  18. - Quyền SHCN: Quyền SHCN bao gồm quyền đối với sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp (KDCN), nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại, bí mật kinh doanh, quyền chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh và các quyền SHCN khác do pháp luật quy định. Quyền SHCN bảo hộ quyền sử dụng độc quyền vì mục đích kinh tế và quyền định đoạt của các chủ sở hữu các đối tượng SHCN. Luật về SHCN bảo hộ nội dung ý tưởng sáng tạo và uy tín kinh doanh. SHCN không phải là một loại sở hữu có liên quan đến tài sản hữu hình dùng trong công nghiệp mà là sở hữu đối với tài sản vô hình. Đó là sáng chế, giải pháp hữu ích, v.v Kể cả những đối tượng có thể tưởng là tài sản hữu hình như KDCN hay nhãn hiệu hàng hóa cũng không phải là tài sản hữu hình. Cái mà pháp luật hướng tới bảo vệ trong quan hệ pháp luật dân sự về SHCN không phải là kiểu dáng một chiếc xe hay một bộ quần áo, hay một dấu hiệu gắn trên hàng hóa, mà là những đối tượng vô hình đứng đằng sau kiểu dáng hay nhãn hiệu, là thành quả lao động sáng tạo hay uy tín kinh doanh của chủ sở hữu đối tượng đó. - Quyền đối với giống cây trồng: Giống cây trồng là quần thể cây trồng thuộc cùng một cấp phân loại thực vật thấp nhất, đồng nhất về hình thái, ổn định qua các chu kỳ nhân giống, có thể nhận biết được bằng sự biểu hiện các tính trạng do kiểu gen hoặc sự phối hợp của các kiểu gen quy định và phân biệt được với bất kỳ quần thể cây trồng nào khác bằng sự biểu hiện của ít nhất một tính trạng có khả năng di truyền được. Quyền đối với giống cây trồng là quyền của tổ chức, cá nhân đối với giống cây trồng mới do mình chọn tạo hoặc phát hiện và phát triển hoặc được hưởng quyền sở hữu. Đối tượng quyền đối với giống cây trồng là giống cây trồng và vật liệu nhân giống. Đối tượng được pháp luật hướng tới bảo vệ đối với giống cây trồng chính là tính mới, tính ổn định, đồng nhất và khả năng phân biệt với các giống cây trồng khác. Quyền đối với giống cây trồng được xác lập trên cơ sở quyết định cấp Bằng bảo hộ giống cây trồng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký quy định tại Luật SHTT. 18
  19. 1.1.1.3. Đặc điểm quyền sở hữu trí tuệ Theo quy định của pháp luật, quyền SHTT là một loại quyền tài sản. Tài sản là quyền SHTT được hình thành từ hoạt động sáng tạo của con người nên quyền SHTT có những đặc điểm riêng biệt như sau: - Sở hữu trí tuệ mang tính chất vô hình: Thông thường khi nói đến tài sản, mọi người thường nghĩ đến những tài sản hữu hình có thể nhìn thấy được bằng thị giác. Tuy nhiên, quyền SHTT là loại tài sản vô hình, phi vật chất không thể nhìn thấy bằng mắt thường nên chủ sở hữu của loại tài sản này sẽ giữ quyền, không nắm giữ vật như những tài sản hữu hình khác. Nội dung sở hữu của loại tài sản này cũng có điểm đặc thù, cụ thể đối với sở hữu thông thường, chủ sở hữu có đủ ba quyền bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt. Tuy nhiên, đối với quyền SHTT thì pháp luật không quy định gì về quyền chiếm hữu. Điều này là xuất phát từ đặc tính vô hình của các đối tượng SHTT. Chúng ta không thể nắm bắt, chiếm hữu được các kiến thức về một giải pháp kỹ thuật hay một KDCN. Chỉ có một cách duy nhất để chiếm hữu chúng là giữ bí mật kiến thức đó. Một khi kiến thức được công bố, phổ biến thì bất cứ ai cũng có khả năng sử dụng và bắt chước theo. Chính vì điểm đặc thù này nên nếu các kiến thức đó không được pháp luật bảo hộ, thì sẽ dẫn đến hậu quả là không ai chịu phổ biến các bí quyết mà mình biết, và hậu quả là trình độ khoa học kỹ thuật không phát triển được. Ngoài ra, mặc dù quyền SHTT là tài sản vô hình nhưng nó thường có vai trò quan trọng và có giá trị kinh tế lớn, thậm chí loại tài sản này có khả năng làm thay đổi vị thế của chủ sở hữu trên thương trường, hoặc quyết định đến sự tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp. Một nhà tư bản thành đạt ở phương tây đã từng tuyên bố với các thành viên trong Hội đồng quản trị của công ty mình rằng, nếu có một ngày nào buộc ông phải lựa chọn tài sản của công ty mình, thì ông ta sẽ nhường lại toàn bộ tài sản hữu hình bao gồm đất đai, nhà xưởng, máy móc và dây chuyền công nghệ cho các thành viên khác để được chọn các quyền SHTT của công ty. Rõ ràng tuyên bố của nhà tư bản phương Tây nói trên cho thấy giá trị của loại tài sản vô hình là các quyền SHTT là như thế nào. 19
  20. - Quyền SHTT bị giới hạn về thời hạn bảo hộ: Do SHTT là loại quyền tài sản được pháp luật công nhận và bảo hộ cho những sản phẩm trí tuệ đáp ứng được những điều kiện luật định. Tuy nhiên sự bảo hộ độc quyền của loại tài sản này không chỉ bị đặt trong vòng kiểm soát của nhà nước mà nó còn bị khống chế bảo hộ trong một khoảng thời gian nhất định. Thời gian bảo hộ quyền tác giả thông thường có thời hạn bảo hộ dài hơn so với quyền SHCN, cụ thể ở lĩnh vực quyền tác giả, chỉ có quyền nhân thân (ngoại trừ quyền công bố tác phẩm) là được bảo hộ vô thời hạn, đối với quyền tài sản, tùy thuộc vào loại hình tác phẩm, chỉ được bảo hộ trong một khoảng thời gian nhất định. Ví dụ, theo Luật SHTT của Việt Nam, quyền tài sản của tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh có thời hạn bảo hộ là bảy mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu tiên; đối với tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng chưa được công bố trong thời hạn hai mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm được định hình thì thời hạn bảo hộ là một trăm năm, kể từ khi tác phẩm được định hình (Điều 27, Luật SHTT); ở lĩnh vực quyền SHCN, ngoại trừ các đối tượng như tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh sẽ được pháp Luật SHTT bảo hộ vô thời hạn khi những đối tượng này thỏa mãn các điều kiện theo như quy định của Luật SHTT. Các đối tượng SHCN khác chỉ được pháp luật bảo hộ trong một khoảng thời hạn nhất định, cụ thể: Bằng độc quyền sáng chế có hiệu lực từ ngày cấp và kéo dài đến hết hai mươi năm kể từ ngày nộp đơn, Bằng độc quyền giải pháp hữu ích có hiệu lực từ ngày cấp và kéo dài đến hết mười năm kể từ ngày nộp đơn, Bằng độc quyền KDCN có hiệu lực từ ngày cấp và kéo dài đến hết năm năm kể từ ngày nộp đơn, có thể gia hạn hai lần liên tiếp, mỗi lần năm năm, Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu có hiệu lực từ ngày cấp đến hết mười năm kể từ ngày nộp đơn, có thể gia hạn nhiều lần liên tiếp, mỗi lần mười năm (Điều 93, Luật SHTT). Một trong những lý do quyền SHTT bị khống chế như vậy là để đảm bảo nguyên tắc cân bằng lợi ích của chủ sở hữu tài sản SHTT và lợi ích xã hội bởi tài sản SHTT được con người sáng tạo ra nhằm phục vụ cho cuộc sống của nhân 20
  21. loại được tốt hơn, do đó chủ sở hữu, sau một khoảng thời gian được độc quyền sử dụng cũng như khai thác giá trị thương mại của tài sản trí tuệ do mình tạo ra, thì sản phẩm trí tuệ ấy phải được nhân loại sử dụng thì nó mới có ý nghĩa. - Quyền SHTT bị giới hạn về không gian bảo hộ: Đối với quyền SHTT, sự giới hạn bảo hộ và thực thi trong phạm vi lãnh thổ cũng là một trong những đặc điểm của loại tài sản này. Xuất phát từ điểm đặc thù này nên tất cả các đối tượng SHTT ở lĩnh vực quyền tác giả, quyền liên quan và các đối tượng SHTT ở lĩnh vực quyền SHCN sau khi được pháp luật của một (hoặc một số) quốc gia nhất định ghi nhận hoặc công nhận bảo hộ, thì các quyền SHTT chỉ có hiệu lực trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia đó. Không có đối tượng quyền SHTT được bảo hộ trên phạm vi toàn cầu. Ví dụ: Ông Nguyễn Văn A, được Cục SHTT cấp Bằng độc quyền sáng chế cho sản phẩm có tên gọi Máy gặt lúa liên hợp, theo đó bằng độc quyền sáng chế này chỉ có giá trị sử dụng cũng như giá trị khai thác thương mại trong phạm vi lãnh thổ của Việt Nam trong một thời hạn luật định. Ống Nguyễn Văn A muốn sáng chế của mình có giá trị ở Trung Quốc, Thái Lan hay ở bất kỳ quốc gia nào khác, thì phải tiến hành thủ tục đăng ký sáng chế của mình ở từng quốc gia này và chỉ khi sáng chế đó đáp ứng các tiêu chuẩn bảo hộ và được luật pháp của các nước đăng ký cấp văn bằng thì sáng chế của Ông Nguyễn Văn A mới có hiệu lực ở các quốc gia này. - Nội dung SHTT thường bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản: Quyền SHTT là một loại quyền dân sự, hầu hết các tác giả đồng thời là chủ sở hữu của các loại tài sản này thường được pháp luật bạo hộ quyền nhân thân và quyền tài sản. Hay nói một cách khác, quyền nhân thân được pháp luật trao cho các tác giả sáng tạo ra những đối tượng SHTT được bảo hộ trong các lĩnh vực văn học (như tác giả của một bài thơ ), nghệ thuật (ví dụ như tác giả của một tác phẩm âm nhạc ) hay kỹ thuật (như tác giả của một sáng chế, KDCN ). Quyền nhân thân được pháp luật bảo hộ vô thời hạn (trừ quyền công bố tác phẩm) như quyền đặt tên cho tác phẩm, quyền được đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm, quyền được bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, quyền được ghi tên 21