Luận văn Góp vốn kinh doanh bằng tài sản trí tuệ trong pháp luật Việt Nam

pdf 121 trang vuhoa 24/08/2022 9560
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Góp vốn kinh doanh bằng tài sản trí tuệ trong pháp luật Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_gop_von_kinh_doanh_bang_tai_san_tri_tue_trong_phap.pdf

Nội dung text: Luận văn Góp vốn kinh doanh bằng tài sản trí tuệ trong pháp luật Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TẠ THỊ THANH THỦY GÓP VỐN KINH DOANH BẰNG TÀI SẢN TRÍ TUỆ TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2012 1
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TẠ THỊ THANH THỦY GÓP VỐN KINH DOANH BẰNG TÀI SẢN TRÍ TUỆ TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Vũ Quang HÀ NỘI - 2012 2
  3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÀI SẢN TRÍ TUỆ VÀ 5 GÓP VỐN KINH DOANH BẰNG TÀI SẢN TRÍ TUỆ 1.1. Một số vấn đề lý luận về tài sản trí tuệ 5 1.1.1. Khái niệm tài sản trí tuệ 5 1.1.2. Những đặc điểm chủ yếu của tài sản trí tuệ 9 1.1.3. Giá trị của tài sản trí tuệ và những yếu tố ảnh hưởng tới giá 11 trị của tài sản trí tuệ 1.1.3.1. Giá trị của tài sản trí tuệ 11 1.1.3.2. Những yếu tố ảnh hưởng tới giá trị của tài sản trí tuệ 13 1.1.4. Định giá tài sản trí tuệ 16 1.1.4.1. Phương pháp định giá tiếp cận thu nhập 17 1.1.4.2. Phương pháp định giá tiếp cận chi phí 17 1.1.4.3. Phương pháp định giá tiếp cận thị trường 19 1.2. Pháp luật về góp vốn kinh doanh bằng tài sản trí tuệ 20 1.2.1. Khái niệm về vốn góp và góp vốn kinh doanh bằng tài sản 20 trí tuệ 1.2.1.1. Vốn góp kinh doanh bằng tài sản trí tuệ 20 1.2.1.2. Góp vốn kinh doanh bằng tài sản trí tuệ 23 3
  4. 1.2.2. Quyền góp vốn bằng tài sản trí tuệ và đảm bảo của Nhà 25 nước đối với việc bỏ vốn tài sản trí tuệ đầu tư vào hoạt động kinh doanh 1.2.3. Nguyên tắc góp vốn và định giá tài sản trí tuệ khi góp vốn 28 1.2.3.1. Nguyên tắc góp vốn 28 1.2.3.2. Nguyên tắc định giá tài sản trí tuệ khi góp vốn 29 1.2.4. Chủ thể tham gia góp vốn kinh doanh bằng tài sản trí tuệ 32 1.2.5. Trách nhiệm pháp lý về những khoản nợ và chi phí trong 34 quá trình hoạt động của doanh nghiệp 1.2.6. Thời điểm góp vốn 38 1.2.7. Chuyển dịch quyền sở hữu tài sản góp vốn 41 1.2.8. Cấp giấy chứng nhận góp vốn và cổ phiếu 44 1.2.9. Chuyển nhượng phần vốn góp 45 1.2.10. Hợp đồng góp vốn 47 Chương 2: THỰC TRẠNG GÓP VỐN KINH DOANH BẰNG TÀI 49 SẢN TRÍ TUỆ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1. Một vài nét về hoạt động góp vốn kinh doanh bằng tài sản 49 trí tuệ trên thế giới 2.2. Góp vốn kinh doanh bằng tài sản trí tuệ đã và đang diễn ra 58 tại Việt Nam nhưng còn gặp rất nhiều trở ngại vì chưa có đủ hành lang pháp lý 2.2.1. Góp vốn bằng thương hiệu VINASHIN vào các doanh 59 nghiệp mới được thành lập 2.2.2. Góp vốn bằng nhãn hiệu SÔNG ĐÀ tại các doanh nghiệp 65 mới được thành lập 2.2.3. Góp vốn bằng công nghệ vào Công ty Liên doanh phân bón 68 Hữu Nghị 2.3. Pháp luật góp vốn kinh doanh bằng tài sản trí tuệ tại Việt 72 4
  5. Nam hiện nay còn nhiều bất cập 2.3.1. Góp vốn kinh doanh bằng tài sản trí tuệ theo quy định của 72 Luật Doanh nghiệp và các văn bản dưới luật khác có liên quan 2.3.1.1. Khái niệm góp vốn 73 2.3.1.2. Thời điểm góp vốn 73 2.3.1.3. Tài sản góp vốn là quyền sở hữu trí tuệ 74 2.3.1.4. Định giá tài sản góp vốn là quyền sở hữu trí tuệ 75 2.3.1.5. Giấy chứng nhận tài sản góp vốn 78 2.3.2. Góp vốn bằng tài sản trí tuệ theo quy định của Luật Sở hữu 79 trí tuệ và Bộ luật Dân sự 2.3.3. Góp vốn bằng tài sản trí tuệ theo quy định của Luật Đầu tư 80 2.4. Pháp luật định giá tài sản trí tuệ chưa hoàn thiện là nguyên 81 nhân cản trở hoạt động góp vốn kinh doanh bằng tài sản trí tuệ 2.5. Về hệ thống pháp luật về hạch toán kế toán tài sản trí tuệ 88 Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP 94 LUẬT VỀ GÓP VỐN KINH DOANH BẰNG TÀI SẢN TRÍ TUỆ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 3.1 Hoàn thiện hệ thống pháp luật về góp vốn kinh doanh bằng 94 tài sản trí tuệ 3.1.1. Hoàn thiện quy định về bảo đảm của Nhà nước đối với bỏ 94 vốn đầu tư vào hoạt động kinh doanh 3.1.2. Hoàn thiện quy định về thời điểm góp vốn 97 3.1.3. Hoàn thiện quy định tài sản góp vốn 98 3.1.3.1. Về khái niệm tài sản góp vốn 98 3.1.3.2. Điều kiện cần và đủ khi tài sản góp vốn là tài sản trí tuệ 99 3.1.4. Thời điểm chuyển dịch quyền sở hữu tài sản và trách nhiệm 100 của người góp vốn 3.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về định giá tài sản trí tuệ 102 5
  6. 3.3. Hoàn thiện hệ thống pháp luật và các thiết chế kinh tế, xã hội 104 3.4. Xây dựng chính sách nhằm phát triển giá trị của tài sản trí tuệ 105 KẾT LUẬN 108 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 109 6
  7. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLDS : Bộ luật Dân sự LDN : Luật Doanh nghiệp LĐT : Luật Đầu tư SHTT : Sở hữu trí tuệ TSCĐ : Tài sản cố định TSHH : Tài sản hữu hình TSTT : Tài sản trí tuệ TSVH : Tài sản vô hình 7
  8. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng 2.1 Giỏ trị của 10 nhón hiệu hàng đầu thế giới theo Brandz 51 Top 100 - 2007 2.2 Bảng so sỏnh giỏ trị tài sản vụ hỡnh trờn tổng giỏ trị tài 52 sản của một số nước trờn thế giới năm 1966 và năm 2003 2.3 Giỏ trị của 10 nhón hiệu hàng đầu thế giới theo Brandz 53 Top 100 - 2010 8
  9. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong bất cứ lĩnh vực nào cũng đều gắn liền với vốn. Vốn là yếu tố đầu tiên và giữ vai trò quan trọng và quyết định đối với một doanh nghiệp, không có vốn thì không thể tiến hành sản xuất kinh doanh được. Doanh nghiệp muốn ra đời, tồn tại và phát triển thì phải quan tâm đến vấn đề tạo lập vốn, quản lý, khai thác và sử dụng đồng vốn sao cho có hiệu quả, nhằm đem lại nhiều lợi nhuận nhất. Trước đây, tài sản đưa vào sử dụng làm vốn thường chỉ bao gồm tiền tệ và vật chất. Tiến đến nền kinh tế hiện đại, nhiều quốc gia nhất là các quốc gia phát triển đang hướng tới một nền kinh tế dựa trên tri thức (thông tin và công nghệ), phạm trù vốn được hiểu với nghĩa rộng hơn không chỉ là tiền, vàng, nhà xưởng, xe cộ mà nó bao gồm cả tài sản vô hình (TSVH), trong đó có tài sản trí tuệ (TSTT). Ngày nay, việc góp vốn bằng giá trị quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) đã trở thành thông lệ phổ biến trên thế giới bởi vai trò hết sức đặc biệt của nó. TSTT ngày càng được thừa nhận là có vai trò quyết định đối với sự phát triển khoa học, công nghệ, kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia. Với các doanh nghiệp, TSTT đóng vai trò như là thước đo hiệu quả kinh doanh, sức cạnh tranh và khả năng phát triển của doanh nghiệp trong tương lai. Bằng việc xây dựng, phát triển và sở hữu các TSTT, uy tín và vị thế của doanh nghiệp luôn được củng cố và mở rộng; khả năng cạnh tranh, thị phần và doanh thu của doanh nghiệp được nâng cao. Tại Việt Nam, vấn đề góp vốn bằng TSTT còn hết sức mới mẻ. Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996 đã cho phép nhà đầu tư nước ngoài góp vốn bằng TSVH này (Khoản 1 Điều 2). Tiếp đó, Luật Doanh nghiệp (LDN) năm 2005 cũng như LĐT năm 2005 đều cho phép nhà đầu tư được quyền góp vốn bằng giá trị quyền SHTT với tư cách là một loại TSVH để tiến 9
  10. hành các hoạt động đầu tư, kinh doanh (Điều 4 LDN và Điều 3 Luật Đầu tư (LĐT)). Tuy vậy, việc đưa TSTT vào hoạt động đầu tư bằng cách nào thì các doanh nghiệp còn hết sức lúng túng vì không biết phải làm gì. Xuất phát từ nhận thức tầm quan trọng của giá trị quyền SHTT đối với doanh nghiệp cũng như đối với nền kinh tế, do yêu cầu thực tế hiện nay trong việc sử dụng nguồn vốn TSTT vào hoạt động kinh doanh, tác giả chọn nghiên cứu luận văn: "Góp vốn kinh doanh bằng tài sản trí tuệ trong pháp luật Việt Nam". Khi lựa chọn nghiên cứu đề tài này, mong muốn của tác giả là mang đến những thông tin nhất định để giúp các doanh nghiệp khai thác tốt hơn nguồn vốn TSTT mà lâu nay còn đang bị bỏ ngỏ, đặc biệt là thông qua hoạt động góp vốn kinh doanh khi doanh nghiệp thành lập hoặc đang hoạt động, thông qua đó góp phần vào quá trình sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật liên quan như Bộ luật Dân sự (BLDS), Luật SHTT, LDN, LĐT trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài TSTT có liên quan đến rất nhiều khía cạnh trong kinh doanh, vì vậy nó đóng một vai trò quan trọng đối với doanh nghiệp. Hiện nay, góp vốn kinh doanh bằng TSTT là một nhu cầu tất yếu giúp đưa vào khai thác, sử dụng TSTT một cách có hiệu quả. Tuy nhiên, pháp luật quy định về góp vốn kinh doanh bằng TSTT và thực tiễn thực hiện góp vốn kinh doanh bằng TSTT như thế nào thì vẫn đang là vấn đề được nhiều người quan tâm. Trong quá trình tìm kiếm thông tin để viết luận văn này, tôi chưa có may mắn được gặp bất kỳ công trình nghiên cứu quy mô hay cuốn sách nào viết về vấn đề này, chỉ có may mắn gặp được một số bài báo tản mạn trên mạng Internet hoặc một số chuyên đề liên quan như giá trị TSTT và định giá TSTT, và một số nghiên cứu nhỏ lẻ về góp vốn bằng TSVH hay TSTT vì vấn đề đưa ra nghiên cứu còn hết sức mới mẻ. Các 10
  11. công trình nghiên cứu trên mới chỉ mang tính chất gợi mở, đi sâu vào nghiên cứu một khía cạnh, lĩnh vực cụ thể chứ chưa đi vào nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ và có hệ thống vấn đề góp vốn kinh doanh bằng TSTT - một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. 3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn làm sáng tỏ về mặt lý luận TSTT và góp vốn kinh doanh bằng TSTT. Trên cơ sở các quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động góp vốn kinh doanh bằng TSTT. Mục đích của đề tài được cụ thể hóa ở những nhiệm vụ nghiên cứu sau đây: - Nghiên cứu vấn đề lý luận về TSTT, giá trị của TSTT và những yếu tố ảnh hưởng đến giá trị TSTT cũng như định giá TSTT. - Nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn của hoạt động góp vốn kinh doanh bằng TSTT. - Đánh giá những ưu, nhược điểm của các quy định hiện hành đối với thực tiễn của hoạt động góp vốn kinh doanh bằng TSTT. - Đưa ra một số kiến nghị để hoàn thiện các quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả góp vốn kinh doanh bằng TSTT. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ luật học, tác giả tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về TSTT; góp vốn kinh doanh bằng TSTT; những quy định của pháp luật về góp vốn kinh doanh bằng TSTT và thực tiễn của hoạt động góp vốn kinh doanh bằng TSTT, từ đó bước đầu đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật và nâng cao hơn nữa hiệu quả của hoạt động góp vốn kinh doanh bằng TSTT. 11
  12. 5. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng phép biện chứng của triết học Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở cho quá trình nghiên cứu. Ngoài ra, các phương pháp phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh, khảo sát, thu thập, được sử dụng phù hợp với từng mặt, từng lĩnh vực nghiên cứu của đề tài. Các quy định của Hiến pháp, BLDS, Luật SHTT, LDN, LĐT . có liên quan đến góp vốn kinh doanh bằng TSTT được sử dụng với tư cách là cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý cho quá trình nghiên cứu. 6. Kết quả của luận văn Luận văn nghiên cứu những vấn đề về lý luận chung về TSTT, góp vốn kinh doanh bằng TSTT, pháp luật về góp vốn kinh doanh bằng TSTT và thực tiễn hoạt động góp vốn kinh doanh bằng TSTT, đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành cũng như thực tiễn thực hiện, từ đó đưa ra các kiến nghị đồng bộ cả về mặt lập pháp và tổ chức thực hiện nhằm góp phần thúc đẩy hoạt động góp vốn kinh doanh bằng TSTT thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Góp vốn kinh doanh bằng TSTT là vấn đề thực tiễn đang diễn ra rất sôi động, tuy nhiên, hiện nay chưa có bất kỳ một đề tài nào nghiên cứu về vấn đề này. Do đó, kết quả của luận văn sẽ là nguồn tài liệu tham khảo rất hữu ích cho các nhà hoạch định chính sách, các nhà nghiên cứu, các doanh nghiệp và những ai quan tâm đến vấn đề này. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tài sản trí tuệ và góp vốn kinh doanh bằng tài sản trí tuệ. Chương 2: Thực trạng góp vốn kinh doanh bằng tài sản trí tuệ theo pháp luật Việt Nam hiện nay. Chương 3: Những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về góp vốn kinh doanh bằng tài sản trí tuệ ở Việt Nam. 12
  13. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÀI SẢN TRÍ TUỆ VÀ GÓP VỐN KINH DOANH BẰNG TÀI SẢN TRÍ TUỆ 1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÀI SẢN TRÍ TUỆ 1.1.1. Khái niệm tài sản trí tuệ Trước thập niên 90, khái niệm "tài sản" được nhiều người biết đến chỉ bao gồm tiền tệ và vật chất. Trong nền kinh tế hiện đại, nhiều quốc gia nhất là các quốc gia phát triển đang hướng tới một nền kinh tế dựa trên tri thức, khái niệm này dần được thay đổi, "tài sản" không chỉ là tiền, vàng, nhà xưởng, xe cộ là những TSHH mà nó bao gồm cả TSVH, trong đó có TSTT. Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng mạnh mẽ như hiện nay, TSTT nổi lên như một khái niệm mới và là một loại tài sản đặc biệt quan trọng đối với sự tăng trưởng kinh tế của một quốc gia, cho dù đó là nước phát triển, đang phát triển hay là nước kém phát triển. Trong cuốn "Sở hữu trí tuệ - một công cụ đắc lực để phát triển kinh tế" của Tiến sỹ Kamil Idris, Tổng giám đốc Tổ chức SHTT thế giới (WIPO): "tài sản trí tuệ là thuật ngữ mô tả những ý tưởng, sáng chế, công nghệ, tác phẩm nghệ thuật, âm nhạc và văn học, những cái vô hình khi mới được tạo ra nhưng trở nên đáng giá dưới dạng sản phẩm hữu hình" [50]. Như vậy, nếu hiểu theo khái niệm này, TSTT chính là các sản phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học, là các giải pháp công nghệ, các ý tưởng kinh doanh, v.v Trong phạm vi quốc gia, pháp luật Việt Nam thừa nhận TSTT là một loại tài sản gắn liền với các thành quả sáng tạo của con người. TSTT có thể là sản phẩm sáng tạo khoa học, công nghệ (như các bí quyết kỹ thuật, sáng chế, dữ liệu thử nghiệm, phần mềm máy tính, công trình nghiên cứu ), hoặc sản phẩm sáng tạo văn học, nghệ thuật (như các tác phẩm văn học/ âm nhạc/ hội 13
  14. họa/ mỹ thuật ứng dụng/ sân khấu/ điện ảnh, các sản phẩm liên quan như các cuộc biểu diễn, trình diễn, các sản phẩm ghi âm/ghi hình ), hoặc sản phẩm sáng tạo kinh doanh, thương mại (như bí mật thương mại, tên thương mại, nhãn hiệu hàng hóa/dịch vụ, tên miền ). Như vậy, một khi TSTT được luật hóa, nghiễm nhiên tài sản đó trở thành những tài sản cụ thể và được pháp luật bảo vệ mặc dù đây là những TSVH. Mặc dù các TSTT là các sản phẩm sáng tạo trí tuệ mang bản chất vô hình nhưng có khả năng lan truyền không có giới hạn và quan trọng hơn có thể do nhiều người cùng chiếm hữu. Hơn thế, TSTT với khả năng vật chất hóa vô tận, thường mang lại những giá trị vô cùng to lớn, do đó rất dễ bị sao chép hoặc bắt chước. Trong khi đó, việc khuyến khích hoạt động sáng tạo, đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh là những mục tiêu luôn đồng hành cùng với chính sách phát triển tổng thể của một quốc gia, do đó việc bảo vệ các TSTT đương nhiên là một việc làm cần thiết nếu không muốn nói là đặc biệt quan trọng để đảm bảo các mục tiêu đó. Cùng với quá trình phát triển của văn hóa, khoa học, kỹ thuật, kinh tế, người ta dần dần cũng cụ thể hóa được một cách tổng thể các TSTT gồm những tài sản gì, đó chính là các tác phẩm văn học, khoa học, nghệ thuật, sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, tên thương mại, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh Pháp luật Việt Nam hiện nay chưa có bất kỳ một văn bản nào quy định khái niệm TSTT mặc dù thuật ngữ này đã được sử dụng phổ biến trong các văn bản pháp luật cũng như trong đời sống thực tế. BLDS năm 2005 mới đưa ra khái niệm tài sản nói chung bằng cách liệt kê các hình thái biểu hiện của nó là "tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản" [34, Điều 163], trong đó "Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ" [34, Điều 181]. Luật SHTT năm 2005 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật SHTT năm 2009 chỉ đưa ra khái niệm quyền SHTT "là quyền của các tổ chức cá nhân đối với 14
  15. TSTT, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng" [39, Điều 4.1], tuy nhiên lại không quy định thế nào là TSTT. Mặc dù khái niệm quyền SHTT được định nghĩa thông qua khái niệm TSTT nhưng khái niệm về TSTT lại được hiểu thông qua các khái niệm về quyền SHTT, trong đó quyền SHTT bao gồm: quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng, theo đó: - Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu; - Quyền liên quan đến quyền tác giả (còn gọi là quyền liên quan) là quyền của tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa; - Quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh; - Quyền đối với giống cây trồng là quyền của tổ chức, cá nhân đối với giống cây trồng mới do mình chọn tạo hoặc phát hiện và phát triển hoặc được hưởng quyền sở hữu. Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 04 không có khái niệm TSTT, nhưng có nêu TSCĐ vô hình là "tài sản không có hình thái vật chất nhưng xác định được giá trị và do doanh nghiệp nắm giữ, sử dụng trong sản xuất, kinh doanh, cung cấp dịch vụ hoặc cho các đối tượng khác thuê phù hợp với tiêu chuẩn ghi nhận TSCĐ vô hình" [3, Mục 06]. Theo đó, các loại TSTT là một bộ phận của TSCĐ vô hình, được ghi nhận theo chuẩn mực kế toán Việt Nam bao gồm: ▪ Bản quyền, bằng sáng chế: Phản ánh giá trị TSCĐ vô hình là các chi phí thực tế chi ra để có bản quyền tác giả, bằng sáng chế. 15
  16. ▪ Nhãn hiệu hàng hóa: Phản ánh giá trị TSCĐ vô hình là các chi phí thực tế liên quan trực tiếp tới việc mua nhãn hiệu hàng hóa. ▪ Phần mềm máy vi tính: Phản ánh giá trị TSCĐ vô hình là toàn bộ các chi phí thực tế doanh nghiệp đã chi ra để có phần mềm máy vi tính. ▪ Theo Thông tư số 203/2009/TT-BTC ngày 20/10/2009 về hướng dẫn chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định cũng không giải thích thế nào là TSTT mà nêu ra định nghĩa TSCĐ hữu hình và TSCĐ vô hình, trong đó đã liệt kê TSTT là một bộ phận của TSCĐ vô hình: Tài sản cố định vô hình là những tài sản không có hình thái vật chất, thể hiện một lượng giá trị đã được đầu tư thỏa mãn các tiêu chuẩn của tài sản cố định vô hình, tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh, như một số chi phí liên quan trực tiếp tới đất sử dụng; chi phí về quyền phát hành, bằng phát minh, bằng sáng chế, bản quyền tác giả [7, Khoản 2 Điều 2]. Như vậy, theo nghĩa rộng, chúng ta có thể hiểu: TSTT là một loại đặc biệt của TSVH, đây là tài sản do trí tuệ con người sáng tạo ra thông qua các hoạt động tư duy, sáng tạo trong các lĩnh vực công nghiệp, khoa học, văn học và nghệ thuật, không thể xác định được bằng các đặc điểm vật chất của chính nó nhưng lại có giá trị vì có khả năng sinh ra lợi nhuận và thường được pháp luật bảo vệ khỏi sự sử dụng trái thẩm quyền. Theo nghĩa hẹp có thể hiểu TSTT gồm: các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học; các chương trình biểu diễn, các bản ghi âm và các chương trình phát sóng; các sáng chế; các kiểu dáng công nghiệp; các bí mật kinh doanh; các nhãn hiệu; bản quyền, bằng sáng chế, bí quyết thương mại, bí quyết kinh doanh; chỉ dẫn địa lý; tên thương mại; giống cây trồng mới; thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn 16
  17. 1.1.2. Những đặc điểm chủ yếu của tài sản trí tuệ TSTT là tài sản mang tính chất vô hình, được thể hiện ra bằng những lợi ích kinh tế. Chúng không có cấu tạo vật chất mà tạo ra những quyền và những ưu thế và giá trị thu nhập cho người sở hữu chúng. TSTT có đặc điểm chủ yếu sau: Một là tính sáng tạo, đổi mới. Mỗi một TSTT là một sản phẩm của hoạt động sáng tạo (như một tác phẩm, một sáng chế hay một kiểu dáng công nghiệp), là một thực thể hoàn toàn mới hoặc là một thực thể đã biết nhưng được bổ sung cái mới, trên cơ sở nền tảng thông tin, tri thức được tích lũy từ trước. Các TSTT luôn chứa đựng trong đó lao động sáng tạo của con người chứ không phải là sản phẩm sao chép của người khác. Tính mới là nét đặc trưng của sản phẩm trí tuệ, buộc các tác giả của sản phẩm trí tuệ (một sáng chế, một kiểu dáng mới, một sáng tác mới hoặc một tác phẩm văn học, khoa học, nghệ thuật ) phải động não nhiều để làm ra và phải làm được trước những người khác. Trên thực tế rất hay xảy ra tranh chấp về tính mới. Hai là tính vô hình. TSTT tồn tại chủ yếu dưới dạng thông tin, tri thức (không có bản chất vật chất), do đó không thể nhận biết được sự tồn tại của tài sản này bằng giác quan của con người mà chỉ bằng nhận thức (thông qua quá trình tự nhận thức hoặc truyền thụ). Sự bùng nổ của khoa học kỹ thuật, sự cạnh tranh quyết liệt trên thương trường và những yếu tố khác có thể dẫn đến tăng/giảm nhanh chóng giá trị của một TSTT như sáng chế, kiểu dáng, nhãn hiệu và ngược lại. Ví dụ, sự xuất hiện một số loại xe có kiểu dáng giống hệt xe DREAM II của hãng HONDA, như DEALIM, LIFAN, HONGDA, do Hàn Quốc và Trung Quốc sản xuất trên thị trường nhằm lợi dụng uy tín đã đạt được của hãng HONDA đã gây thiệt hại không nhỏ đến thị phần và lợi nhuận của hãng này. Ba là tính xác định được. Mặc dù TSTT tồn tại vô hình nhưng con người vẫn có khả năng nhận biết và xác định được TSTT. Sở dĩ như vậy vì 17
  18. TSTT luôn được thể hiện dưới một hình thức vật chất xác định (mô tả, liệt kê, công thức, hình vẽ, ảnh ). Đồng thời, mỗi TSTT là một đối tượng tồn tại độc lập, có nội dung/bản chất xác định, có chức năng, công dụng, ý nghĩa xác định, thậm chí có giá trị xác định. Theo hướng dẫn của Ủy ban chuẩn mực kế toán quốc tế (Financial Accounting Standards Board - FASB), một TSVH được coi là có thể xác định được khi: - Có thể tách rời (có khả năng tách rời, bán, tặng cho, cho thuê, trao đổi, cấp lisence, một cách riêng biệt hoặc là một phần của một gói). Hoặc - Hình thành thông qua hợp đồng hoặc những quyền hợp pháp khác, bất kể là quyền này có thể được chuyển giao hoặc có thể được tách rời từ một phần độc lập hoặc từ những quyền và nghĩa vụ khác. Bốn là tính kiểm soát được. Do TSTT có khả năng được vật chất hóa nên trở thành đối tượng chịu sự tác động có chủ đích của con người như khai thác/sử dụng, duy trì, cất giữ, phát triển, mua bán, trao đổi, cho thuê, góp vốn, chuyển nhượng, , nhằm mang lại kết quả nhất định, trong đó quan trọng nhất là tạo ra giá trị. Một TSTT thường là kết quả của một quá trình đầu tư sức lực, thời gian và tiền bạc nên khả năng kiểm soát TSTT xuất phát từ các quyền pháp lý của chủ sở hữu TSTT được pháp luật bảo vệ. Ví dụ, chủ sở hữu của một sáng chế có quyền thu lợi ích kinh tế từ sáng chế đó và có quyền hạn chế sự tiếp cận của các đối tượng khác với lợi ích mà sáng chế đó mang lại. Năm là tính sinh lợi. Do có bản chất tài sản, các TSTT đều có khả năng sinh lợi (tạo ra giá trị), nghĩa là khi được khai thác, sử dụng, mua bán, cho thuê, trao đổi, góp vốn, TSTT có khả năng mang lại thu nhập bằng tiền hoặc bằng tài sản khác cho người kiểm soát tài sản đó. Ví dụ: Năm 2003, Unilever đã thương lượng được với Công ty hóa phẩm P/S trong việc chuyển nhượng nhãn hiệu kem đánh răng P/S với giá 5,3 triệu US để có cơ hội sở hữu trên 65% thị phần kem đánh răng mà nhãn hiệu P/S đã thiết lập được trước đó. 18
  19. Sáu là thời gian sử dụng hữu ích của một TSTT thường là một đại lượng biến đổi, không cố định, có thể dài ngắn khác nhau, nhưng không phải là vô hạn định. Sản phẩm trí tuệ, ngoài các tác phẩm văn chương hay nghệ thuật, các sản phẩm khác có tính thời gian, vì khoa học kỹ thuật ngày nay biến đổi rất nhanh. Việc quy định bảo hộ độc quyền có thời hạn cho các sản phẩm trí tuệ chính là động lực khuyến khích phát triển trong cuộc chạy đua cải tiến công nghệ. Sự cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường là một cuộc đua không có đích cuối cùng và không có người chiến thắng mãi mãi. Một nhãn hiệu ngày hôm nay được khách hàng ưa chuộng, nhưng ngày mai có thể nó phải nhường lại sự ưa thích đó cho nhãn hiệu khác. Ngay cả những nhãn hiệu đã rất nổi tiếng trên thị trường nhiều năm như "Coca Cola", "Honda" một ngày nào đó cũng có thể bị nhãn hiệu khác thay thế. Hoặc thí dụ như các phần mềm máy tính Word Perfect hay Fox-Pro, trước đây được sử dụng khá rộng rãi nhưng đến nay chỉ còn rất ít người sử dụng vì đã có những phần mềm khác như Microsoft Word và Microsoft Excel tiện lợi hơn ra đời cạnh tranh khiến các nhà sản xuất và kinh doanh phần mềm trên gặp rất nhiều khó khăn. Trái lại, Bill Gate chủ tịch tập đoàn Microsoft là người sở hữu tác quyền Window thông dụng trên hầu hết các máy vi tính hiện nay đã trở thành người giàu nhất thế giới. 1.1.3. Giá trị của tài sản trí tuệ và những yếu tố ảnh hưởng tới giá trị của tài sản trí tuệ 1.1.3.1. Giá trị của tài sản trí tuệ Theo Các Mác, hàng hóa có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị. Trong đó, "giá trị sử dụng là công dụng của hàng hóa để thỏa mãn một nhu cầu nào đó của con người, còn giá trị của hàng hóa được xác định ở mặt chất và lượng" [25]. Nếu hiểu giá trị của TSTT như một loại hàng hóa, về mặt chất sẽ là lao động trừu tượng của người sản xuất kết tinh trong TSTT đó, về mặt lượng là tổng thời gian lao động đã hao phí để sản xuất ra TSTT đó. 19
  20. Theo quan điểm của kinh tế học hiện đại, TSTT chính là một thứ TSVH được hình thành qua quá trình đầu tư công sức và tiền của, có thể mua bán được, và hoàn toàn có thể xác định được giá trị. Cho dù TSTT là TSVH nhưng nguyên tắc xác định giá trị của chúng vẫn có thể tiến hành được dựa trên cơ sở chi phí. Theo nguyên tắc này, giá trị của loại TSVH này được phản ánh trong báo cáo kế toán của doanh nghiệp theo chi phí mà doanh nghiệp đã chi ra để có được các tài sản đó. Ủy ban tiêu chuẩn và thẩm định giá quốc tế (International Valuation Standards Courcil, viết tắt là IVSC) đã đưa ra khái niệm giá trị như sau: "Giá trị là số tiền ước tính của hàng hóa và dịch vụ tại một thời điểm nhất định" [25]. Thuật ngữ giá trị (value) theo quan điểm của IVSC là thuật ngữ mang tính giả thiết, không có trên thực tế mà là mức giá dự tính của người mua, người bán hàng hóa và dịch vụ tại một thời điểm nhất định. Giá trị thể hiện mức giá dự tính sẽ được chấp nhận trong một cuộc giao dịch và giá trị thị trường thể hiện mức giá cả dự tính sẽ được chấp nhận trong một cuộc giao dịch bình đẳng. Hơn nữa, chúng ta cũng cần chú ý rằng giá trị theo khái niệm của IVSC được định giá bằng một vật ngang giá, đó là tiền. Việc được ước tính bằng tiền sẽ cho thấy một cách dễ dàng hơn giá trị của hàng hóa, đồng thời dễ dàng cho việc tiến hành các giao dịch trên thị trường. - Giá cả (price) là số tiền được yêu cầu, được đưa ra hoặc được trả cho một hàng hóa hoặc dịch vụ nhất định. - Chi phí (Cost) là mức giá được trả cho hàng hóa hoặc dịch vụ hoặc là một số tiền cần có để tạo ra hoặc để sản xuất ra hàng hóa hoặc dịch vụ. Khi hàng hóa hoặc dịch vụ đã được hoàn tất thì chi phí của hàng hóa hoặc dịch vụ đó trở thành một thực tế lịch sử và được gọi là giá gốc. Mức giá được trả để có được hàng hóa dịch vụ đó trở thành chi phí đối với người mua [22]. Dựa trên các định nghĩa của IVSC ta có thể suy ra các khái niệm giá trị và giá cả sau đối với TSTT: 20
  21. Giá trị của TSTT (Value of intellectual assets) là số tiền ước tính của TSTT đó ở tại một thời điểm nhất định. Giá cả của TSTT (Price of intellectual assets) là số tiền được yêu cầu, được đưa ra hoặc được trả cho một TSTT nhất định. Chi phí của TSTT (Cost of intellectual assets) là số tiền cần có để tạo ra TSTT đó. Như vậy, có thể khái quát là giá trị TSTT là giá trị của lợi ích kinh tế trong tương lai của TSTT được xác định vào thời điểm hiện tại, được biểu hiện dưới hình thức giá cả. 1.1.3.2. Những yếu tố ảnh hưởng tới giá trị của tài sản trí tuệ Chúng ta đã biết giá trị, giá cả, chi phí của TSTT là gì, nhưng khi xem xét trên thị trường, có thể dễ dàng nhận thấy là giá trị của từng TSTT là khác nhau. Liên quan đến giá trị của TSTT, chúng ta cũng cần tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng tới giá trị của TSTT. Qua thực tế cho thấy, các nhân tố sau đây có ảnh hưởng tới giá trị của TSTT: - Tính hữu ích: Tính hữu ích của TSTT thể hiện khả năng làm thỏa mãn nhu cầu của người sử dụng tài sản đó hay nói cách khác thể hiện giá trị sử dụng của hàng hóa là TSTT [22]. Tính hữu ích chính là một thuộc tính cơ bản tạo nên giá trị của TSTT, nếu không tồn tại tính hữu ích, tức nó không mang lại lợi ích gì cho con người thì tài sản đó không thể coi là có giá trị. TSTT sẽ chỉ có giá trị khi nó làm thỏa mãn một nhu cầu nào đó của con người khi sử dụng tài sản đó, hay nói cách khác là nó có tính hữu ích. Tính hữu ích của TSTT thể hiện ở chỗ nó tạo ra những lợi ích nhất định cho người sở hữu hoặc người sử dụng đó. Tài sản càng có tính hữu ích cao, tức là càng sinh ra nhiều lợi ích cho người sử dụng thì giá trị càng cao, và ngược lại, giá trị của TSTT sẽ thấp khi nó chỉ tạo ra được một số ít các lợi ích 21
  22. cho người sử dụng. Nói theo cách khác, giá trị của một TSTT cao hay thấp một phần do giá trị những lợi ích mà nó tạo ra. Tuy nhiên, tính hữu ích chỉ là một trong các yếu tố ảnh hưởng tới giá trị, không có các thuộc tính khác như tính có nhu cầu hay tính khan hiếm, tính có thể chuyển giao thì cũng sẽ bị coi là không có giá trị. - Tính khan hiếm: Tính khan hiếm của TSTT có thể hiểu như tác động của yếu tố cung tài sản đối với thị trường ở hiện tại và tương lai. Trong trường hợp các yếu tố khác không đổi, cung tài sản khi cao hơn cầu trên thị trường sẽ tạo ra sự vượt cung, thừa tài sản trên thị trường và chưa tạo ra sự khan hiếm, khi cung bằng với cầu sẽ không tạo ra khan hiếm vào thời điểm hiện tại mà có thể là trong tương lai, và tất nhiên khi cung thấp hơn cầu sẽ xuất hiện sự thiếu trên thị trường và khi đó tạo ra sự khan hiếm, điều này sẽ đẩy cho giá TSTT lên cao. Nếu như mọi yếu tố khác như nhau thì giá trị khác nhau là kết quả của sự thay đổi mức khan hiếm của các hàng hóa dịch vụ trên thị trường. Ví dụ, công ty A là công ty chuyên bán phần mềm kế toán dành cho quản trị doanh nghiệp, và phần mềm của công ty A là phần mềm duy nhất có trên thị trường, không có đối thủ cạnh tranh, khi đó các công ty khác muốn mua phần mềm kế toán bắt buộc phải mua của công ty A, khi đó công ty A có thể đẩy giá lên một mức cao hợp lý để nhằm kiếm nhiều lợi nhuận. Nhưng nếu trên thị trường có các công ty khác cũng có khả năng cung cấp những phần mềm kế toán với công dụng tương đương với phần mềm của công ty A, sự khan hiếm được giảm xuống, khi đó công ty A sẽ buộc phải giảm giá của phần mềm để có thể cạnh tranh. - Tính có yêu cầu: Tính có yêu cầu của TSTT có thể hiểu như sự tác động của yếu tố cầu của thị trường lên giá trị của TSTT. Trong trường hợp mà các yếu tố khác không đổi, thì cầu càng cao tất nhiên sẽ dẫn tới giá của tài sản cũng càng cao. 22