Luận văn Giữ người trong trường hợp khẩn cấp theo luật tố tụng hình sự Việt Nam
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Giữ người trong trường hợp khẩn cấp theo luật tố tụng hình sự Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_giu_nguoi_trong_truong_hop_khan_cap_theo_luat_to_tu.pdf
Nội dung text: Luận văn Giữ người trong trường hợp khẩn cấp theo luật tố tụng hình sự Việt Nam
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN NGỌC LỆ HUYỀN GIỮ NGƯỜI TRONG TRƯỜNG HỢP KHẨN CẤP THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội- 2020
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN NGỌC LỆ HUYỀN GIỮ NGƯỜI TRONG TRƯỜNG HỢP KHẨN CẤP THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8380101.03 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Đỗ Thị Phượng Hà Nội- 2020
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Trần Ngọc Lệ Huyền i
- MỤC LỤC Trang phụ bìa LỜI CAM ĐOAN i DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT iv DANH MỤC BẢNG v MỞ ĐẦU 1 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP GIỮ NGƯỜI TRONG TRƯỜNG HỢP KHẨN CẤP TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 7 1.1. Khái niệm, đặc điểm về giữ người trong trường hợp khẩn cấp trong tố tụng hình sự 7 1.1.1. Khái niệm 7 1.1.2. Đặc điểm 13 1.2. Mục đích và ý nghĩa của biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp trong tố tụng hình sự 15 1.2.1. Mục đích của biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp trong tố tụng hình sự 15 1.2.2. Ý nghĩa của biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp trong tố tụng hình sự 19 1.3. Mối quan hệ giữa biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp với một số biện pháp ngăn chặn khác trong tố tụng hình sự 22 Kết luận chương 1 26 Chương 2 QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ BIỆN PHÁP GIỮ NGƯỜI TRONG TRƯỜNG HỢP KHẨN CẤP VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG 27 2.1. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp 27 ii
- 2.1.1. Đối tượng áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp 27 2.2.2. Các nguyên tắc và căn cứ áp dụng giữ người trong trường hợp khẩn cấp 29 2.2.3. Thẩm quyền ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp 36 2.2.4. Thủ tục giữ người trong trường hợp khẩn cấp 38 2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật TTHS về giữ người trong trường hợp khẩn cấp 40 2.2.1. Những kết quả đạt được 40 2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế 50 Kết luận chương 2 56 Chương 3 CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP GIỮ NGƯỜI TRONG TRƯỜNG HỢP KHẨN CẤP . 57 3.1. Các yêu cầu của việc áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp 57 3.1.1. Yêu cầu về chính trị 57 3.1.2. Yêu cầu về pháp luật 59 3.1.3. Yêu cầu về nghiệp vụ 62 3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp 62 3.2.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp 64 3.2.2. Các giải pháp khác 66 Kết luận chương 3 73 KẾT LUẬN 74 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 76 iii
- DANH MỤC TỪ VIẾT TẮTDANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT Cụm từ viết tắt Cụm từ đầy đủ BLTTHS Bộ luật Tố tụng Hình sự BLHS Bộ luật Hình sự CQĐT Cơ quan điều tra TTHS Tố tụng hình sự TNHS Trách nhiệm hình sự XHCN Xã hội chủ nghĩa VKS Viện kiểm sát iv
- DANH MỤC BẢNG Bảng 2.1: Số liệu điều tra, truy tố trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang từ 2015-2018 43 Bảng 2.2: Tình hình áp dụng một số biện pháp ngăn chặn trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang năm 2015-2017 44 Bảng 2.3: Tình hình áp dụng một số biện pháp ngăn chặn trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang năm 2018 44 v
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết và lý do chọn đề tài Trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền có nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật là một trong những yêu cầu cấp thiết đòi hỏi Nhà nước cần thực hiện đồng bộ, nhanh chóng và hiệu quả, trong đó có hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự. Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 ra đời đã kế thừa và phát triển một bước về pháp luật tố tụng hình sự của Nhà nước ta, cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013, chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp; đáp ứng yêu cầu thực tiễn của công tác điều tra, truy tố, xét xử và bảo đảm quyền con người. Một trong những nội dung có nhiều điểm mới của BLTTHS năm 2015 là về các biện pháp ngăn chặn. Biện pháp ngăn chặn (BPNC) là biện pháp tố tụng quan trọng nhằm mục đích kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ người bị buộc tội gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội thì cơ quan, người có thẩm quyền có thể áp dụng một trong các biện pháp: giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh. Khi áp dụng một trong các biện pháp này luôn ảnh hưởng đến quyền con người, quyền công dân nên pháp luật tố tụng hình sự luôn có quy định rất chặt chẽ về trình tự, thủ tục, điều kiện, thẩm quyền và về thời hạn áp dụng. Biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp là một trong những BPNC được quy định chi tiết tại Điều 110 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và thay thế cho biện pháp "Bắt người trong trường hợp khẩn cấp" quy định tại Điều 81 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. Trước đó, trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 có quy định “bắt người là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự được áp dụng đối với bị can, bị cáo, người đang bị truy nã và 1
- trong các trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang”. Việc bắt người còn là vấn đề nhạy cảm trong đời sống chính trị- xã hội, có tác động trực tiếp đến quyền tự do về thân thể của công dân, một trong các quyền nhân thân quan trọng nhất của con người. Sự sửa đổi này một mặt nhằm bảo đảm phù hợp với tinh thần của Hiến pháp năm 2013 “Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát” (Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 quy định khi có căn cứ bắt khẩn cấp, các cơ quan có thẩm quyền được phép bắt trước, sau đó mới đề nghị Viện kiểm sát phê chuẩn lệnh bắt). Mặt khác cũng nhằm khắc phục những bất cập, hạn chế sau hơn 10 năm thi hành các quy định liên quan đến bắt, giữ người trong trường hợp khẩn cấp của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. Với những điều chỉnh căn bản về căn cứ và nội dung, biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp cần được tiếp tục nghiên cứu về lý luận cũng như thực tiễn áp dụng, nhằm đánh giá những mặt tích cực, hạn chế, xác định những nguyên nhân, tồn tại trên cơ sở đó đưa ra phương hướng hoàn thiện những quy định của pháp luật về biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng trong thời gian tới. Trong phạm vi luận văn này, tôi xin đề cập đến vấn đề: “ Giữ người trong trường hợp khẩn cấp theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam”. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong những năm qua, các biện pháp ngăn chặn là vấn đề được nhiều người quan tâm nghiên cứu và đã được thể hiện trong các công trình khoa học được công bố trên sách, báo, tạp chí chuyên ngành và luận văn thạc sĩ, một số giáo trình giảng dạy môn pháp luật, phần lớn đã tập trung làm rõ được các vấn đề lý luận và pháp lý có liên quan. Tiêu biểu là các công trình: Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2013; Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân, năm 2018; 2
- Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, NXB Chính trị quốc gia sự thật, năm 2016; Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, thực trạng, nguyên nhân và giải pháp, luận án tiến sỹ Luật học, Trần Quang Tiệp, năm 2005; Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự Việt Nam, luận văn thạc sỹ luật học, Lê Văn Bình, năm 2010; Chế định các biện pháp ngăn chặn theo luật tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án tiến sỹ Luật học, Nguyễn Trọng Phúc, năm 2010; Biện pháp ngăn chặn bắt người và thực tiễn áp dụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng, luận văn thạc sỹ luật học, Nguyễn Hồng Ly, năm 2011; Biện pháp ngăn chặn bắt người phạm tội quả tang trong luật Tố tụng hình sự Việt Nam, luận văn thạc sỹ luật học, Nguyễn Thị Huân, năm 2013; Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, luận văn thạc sỹ luật học, Nguyễn Thị Thu Hoài, năm 2015; Áp dụng các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh, luận văn thạc sĩ luật học, Nguyễn Thị Ninh Bình, năm 2017; Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Vĩnh Phúc, luận văn thạc sỹ luật học, Khổng Minh Quân, năm 2018; Áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng, luận văn thạc sĩ luật học, Đặng Thị Thảo Vân, năm 2019; Biện pháp ngăn chặn giữ người trong trường hợp khẩn cấp theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, TS Vũ Gia Lâm, Tạp chí Kiểm sát số 01 (01/2019). 3
- Có thể nói, những vấn đề chung về BPNC cũng như một số biện pháp ngăn chặn cụ thể đã được nhiều tác giả đề cập tới. Tuy nhiên, sau khi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 ra đời và bắt đầu có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2018 thì chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu chuyên sâu về biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp. Luận văn trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận, các quy định của pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng, xác định những hạn chế của biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, để từ đó đề ra những quan điểm và giải pháp bảo đảm đúng đắn trong quá trình áp dụng biện pháp ngăn chặn. Do đó, đề tài "Giữ người trong trường hợp khẩn cấp theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam" là mang tính cấp thiết và nhằm mang lại hiệu quả thiết thực hơn trong quá trình áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn hiện nay. 3. Mục tiêu nghiên cứu 3.1. Mục tiêu tổng quát Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận, quy định của pháp luật tố tụng hình sự (TTHS) và thực tiễn về áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, từ đó đề xuất những giải pháp góp phần thi hành đúng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp trong thời gian tới. 3.2. Mục tiêu cụ thể Làm rõ một cách cơ bản và toàn diện những vấn đề lý luận về biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp: Khái niệm, đặc điểm, mục đích, ý nghĩa của biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp; Đối tượng áp dụng, thẩm quyền áp dụng, căn cứ và thủ tục giữ người trong trường hợp khẩn cấp. Phân tích, bình luận các quy định của BLTTHS năm 2015 về biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp. Đánh giá thực trạng việc áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp. Tìm ra những ưu điểm, những điểm bất cập, hạn chế của thực trạng 4
- trên. Từ đó bước đầu đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp ngăn chặn giữ người trong trường hợp khẩn cấp và góp phần nâng cao chất lượng giải quyết vụ án hình sự. 4. Tính mới và những đóng góp của đề tài * Về mặt lý luận Là một công trình nghiên cứu độc lập và chuyên sâu về biện pháp ngăn chặn giữ người trong trường hợp khẩn cấp trong pháp luật TTHS Việt Nam, luận văn làm rõ những khái niệm, đối tượng, thủ tục áp dụng biện pháp ngăn chặn giữ người, từ đó góp phần bổ sung, hoàn thiện hệ thống lý luận khoa học về các biện pháp ngăn chặn nói chung và biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp nói riêng. * Về mặt thực tiễn Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật về biện pháp ngăn chặn giữ người trong trường hợp khẩn cấp giúp cho việc áp dụng các quy định này được chính xác, đúng đắn, không bỏ lọt kẻ phạm tội, không làm oan người vô tội. Từ đó, mở đầu cho một giai đoạn TTHS được chính xác, kịp thời, nghiêm minh và đúng pháp luật. Bên cạnh việc nghiên cứu thực trạng về biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, xác lập cơ sở pháp lý, đề xuất giải pháp, kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp này trong thời gian tới. 5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu 5.1. Đối tượng nghiên cứu - Những vấn đề lý luận về biện pháp ngăn chặn giữ người trong trường hợp khẩn cấp trong TTHS Việt Nam; - Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp ngăn chặn giữ người trong trường hợp khẩn cấp trong TTHS; - Thực tiễn áp dụng các quy định của luật tố tụng hình sự về biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp. 5
- 5.2. Phạm vi nghiên cứu + Về nội dung: Luận văn nghiên cứu về biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp theo quy định của Bộ luật TTHS năm 2015. + Về địa bàn: Luận văn nghiên cứu trong vi một số tỉnh phía Bắc như: Tuyên Quang, Hà Nội, Hải Dương 5.3. Phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về chính sách hình sự và đấu tranh phòng chống tội phạm. Đồng thời sử dụng một số phương pháp cụ thể như: - Phương pháp phân tích, so sánh luật học, bình luận được sử dụng để tìm hiểu những vấn đề lý luận về biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp theo pháp luật TTHS Việt Nam. - Phương pháp điều tra, thống kê, so sánh, đánh giá được sử dụng khi tìm hiểu thực trạng pháp luật về giữ người trong trường hợp khẩn cấp theo pháp luật TTHS Việt Nam. - Phương pháp tổng hợp, quy nạp, diễn giải được sử dụng khi nghiên cứu một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về vấn đề này. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về giữ người trong trường hợp khẩn cấp trong tố tụng hình sự Chương 2: Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về giữ người trong trường hợp khẩn cấp và thực tiễn áp dụng Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp 6
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP GIỮ NGƯỜI TRONG TRƯỜNG HỢP KHẨN CẤP TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm, đặc điểm về giữ người trong trường hợp khẩn cấp trong tố tụng hình sự 1.1.1. Khái niệm Biện pháp ngăn chặn là một trong những chế định quan trọng trong luật TTHS nước ta. Thời gian trước đây, các biện pháp này đã được quy định trong Luật số 103-SL/005 ngày 20/5/1957, sắc luật số 002-SLt ngày 18/6/1957 của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa và Sắc luật 02-SL ngày 15/3/1976 của Chính phủ Cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam bao gồm các quy định về việc bắt người, giam, tha, khám xét và được gọi là những biện pháp cưỡng chế [12,tr.198]. Các biện pháp ngăn chặn mang tính cưỡng chế nghiêm khắc để kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn việc người bị nghi là thực hiện tội phạm (người bị nghi ngờ thực hiện tội phạm nhưng chưa bị khởi tố bị can), bị can, bị cáo bỏ trốn, tiêu hủy chứng cứ, gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hoặc sẽ tiếp tục phạm tội. Các biện pháp ngăn chặn khi được áp dụng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp. Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn gắn liền với sự hạn chế một số quyền và tự do cá nhân đối với bị can, bị cáo, người có liên quan đến việc thực hiện tội phạm, nhưng lại bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của công dân khác như: người bị hại, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Từ trước đến nay, khái niệm biện pháp ngăn chặn không được đưa ra trong luật, tuy nhiên trong một số nghiên cứu ở nước ta, các tác giả đã đưa ra nhiều khái niệm khác nhau về biện pháp ngăn chặn. 7
- Theo Từ điển Luật học giải thích biện pháp ngăn chặn là: Biện pháp cưỡng chế về mặt Tố tụng hình sự áp dụng khi có đủ căn cứ đối với bị can, bị cáo hoặc người chưa bị khởi tố trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang để ngăn chặn hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án [21,tr69]. Trong giáo trình Luật tố tụng hình sự của khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, khái niệm biện pháp ngăn chặn được hiểu như sau: Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế trong TTHS áp dụng với bị can, bị cáo, người phạm tội quả tang và người cần phải bắt trong trường hợp khẩn cấp. Nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm của họ, ngăn chặn người đó gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử và tiếp tục phạm tội hoặc trốn [10, tr133]. Một số khái niệm khác về BPNC của các nhà khoa học nghiên cứu pháp luật, cán bộ làm công tác thực tiễn phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm được công bố trong các giáo trình Luật TTHS Việt Nam, sách chuyên khảo, tạp chí chuyên ngành luật học. Các khái niệm đó đều dựa trên cơ sở phân tích nội dung của các quy phạm pháp luật tại BLTTHS cũng như thực tiễn áp dụng chúng trong công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm. Trong BLTTHS năm 2015, các biện pháp ngăn chặn được quy định tại Mục I Chương VII. Mặc dù không có khái niệm cụ thể về biện pháp ngăn chặn nhưng tại điều 109 BLTTHS có chỉ ra các căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn như sau: “Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để bảo đảm thi hành án, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phạm vi thẩm quyền của mình có thể áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, 8
- bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh”. Từ đây, chúng ta có thể hiểu biện pháp ngăn chặn là biện pháp do cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng đối với người bị nghi là thực hiện tội phạm, bị can, bị cáo nhằm ngăn chặn việc người đó bỏ trốn, tiêu hủy chứng cứ, gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hoặc sẽ tiếp tục phạm tội [12,tr197]. Từ khái niệm về biện pháp ngăn chặn ngoài việc nêu rõ tính chất, mục đích và đối tượng áp dụng của biện pháp ngăn chặn cần phải xác định đúng chủ thể áp dụng. Chủ thể áp dụng các biện pháp ngăn chặn không chỉ là cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án. Theo quy định của pháp luật, một số cơ quan khác cũng được áp dụng biện pháp ngăn chặn đó là người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới; người chỉ huy tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng trong trường hợp bắt người phạm tội quả tang thì bất cứ ai trông thấy đều có quyền bắt. BLTTHS năm 2015 quy định những biện pháp ngăn chặn gồm: giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh. Mỗi biện pháp ngăn chặn có quy định cụ thể về đối tượng, thẩm quyền, thủ tục áp dụng nhằm đảm bảo hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng được thuận lợi. Biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp là một trong những biện pháp ngăn chặn được quy định chi tiết tại Điều 110 BLTTHS năm 2015 và thay thế cho biện pháp "Bắt người trong trường hợp khẩn cấp" quy định tại Điều 81 BLTTHS năm 2003. Theo quy định của BLTTHS năm 2003, bắt người trong trường hợp khẩn cấp là biện pháp ngăn chặn độc lập và căn cứ bắt được quy định cụ thể tại khoản 1 Điều 81, trong đó tại điểm a khoản 1 quy định: “Khi có căn cứ để cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm 9
- rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Điều 17 BLHS năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) cũng quy định người chuẩn bị phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi họ chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Như vậy: Một người chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự trong trường hợp chuẩn bị phạm tội và có thể bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Bắt người trong trường hợp khẩn cấp nếu người đó chuẩn bị thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Quy định này nhằm mục đích ngăn chặn kịp thời các hành vi phạm tội trong trường hợp có đủ cơ sở để khẳng định một người đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng nên cần bắt ngay, để ngăn chặn kịp thời việc người đó gây thiệt hại cho xã hội. Hành vi chuẩn bị phạm tội nói trên mặc dù chưa trực tiếp xâm hại lợi ích của Nhà nước và công dân nhưng nó đã đặt các lợi ích ấy vào tình trạng bị đe dọa rất nghiêm trọng. Vì vậy, yêu cầu đặt ra hết sức cấp bách, cần ngăn chặn ngay, không để tội phạm xảy ra. Tuy nhiên, quá trình áp dụng Điều 81 của BLTTHS năm 2003 về Bắt người trong trường hợp khẩn cấp” nói chung và đối với căn cứ áp dụng để bắt khẩn cấp nói riêng, còn một số bất cập, hạn chế như : Theo quy định của Điều 81 BLTTHS năm 2003 thì “bắt trước, phê chuẩn sau”, là chưa đảm bảo tinh thần của Hiến pháp năm 2013 “Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát”; bên cạnh đó, căn cứ để bắt khẩn cấp quy định “Khi có căn cứ để cho rằng là còn mang tính chất định tính, chưa cụ thể. BLTTHS năm 2015 đã có sự sửa đổi căn bản về cả căn cứ và nội dung đối với trường hợp “Bắt người trong trương hợp khẩn cấp”, cụ thể đã được sửa thành biện pháp “Giữ người trong trường hợp khẩn cấp”. Trong các tài liệu hiện nay, còn tồn tại nhiều khái niệm khác nhau về biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp. 10
- - Theo giải thích của Từ điển Tiếng Việt của NXB Bách Khoa Việt Nam năm 2006 thì giữ là làm cho ở nguyên tại vị trí nào đó, không có sự di chuyển, hoặc không rơi, không đổ. Theo đó có thể thấy, giữ người là một thuật ngữ dùng để chỉ một hành vi tác động vào quyền tự do về thân thể của một người nào đó nhưng đảm bảo được sự chủ động của người thực hiện hành vi trong việc nắm giữ nhằm vô hiệu hoá sự chống cự hay sự tự do hoạt động của đối tượng bị giữ. Về bản chất, đây là một hành vi mang tính chất cưỡng chế dùng quyền lực của chủ thể thực hiện hoặc dựa vào quyền lực khác để buộc đối tượng bị áp dụng phải tuân theo nhằm đạt được một mục đích nào đó. - Theo Từ điển tiếng Việt năm 1997 của Trung tâm từ điển học, thuộc Viện Ngôn ngữ học thì: + “Trường hợp” là tình hình cụ thể trong đó sự việc nói đến xảy ra hoặc giả định xảy ra, trong quan hệ với các tình hình khác có thể có; + "Khẩn cấp" có hai nghĩa: cần được tiến hành, được giải quyết ngay, không chậm trễ, và có tính chất nghiêm trọng, đòi hỏi phải có ngay những biện pháp tích cực để đối phó, không cho phép chậm trễ. Như vậy, trường hợp khẩn cấp là tình hình cụ thể, trong đó sự việc nói đến xảy ra hoặc giả định xảy ra, có tính chất nghiêm trọng, đòi hỏi phải có ngay những biện pháp tích cực để đối phó, không cho phép chậm trễ [15,tr8]. Trong pháp luật TTHS đương nhiên có rất nhiều trường hợp khẩn cấp (như trường hợp khẩn cấp bị can sắp chết, bị can có thể hé lộ những tình tiết đặc biệt quan trọng tới vụ án thì có thể hỏi cung vào ban đêm). Trước đây, tại Luật số 103-SL ngày 20/5/1957 về bảo đảm quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân và Sắc luật 002 ngày 18/6/1957 quy định cụ thể về các trường hợp phạm pháp quả tang và trường hợp khẩn cấp cũng đã có đề cập tới vấn đề này. Cụ thể là tại Chương II Luật số 103-SL (Điều 4) thì những trường hợp phạm 11
- pháp quả tang, những trường hợp khẩn cấp là những trường hợp đặc biệt do luật quy định và được cụ thể trong Sắc lệnh số 002-SL ngày 18/6/1957 của Thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà: Điều 2: Các trường hợp khẩn cấp - Có hành động chuẩn bị làm việc phạm pháp; - Người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra vụ phạm pháp chính mắt thấy và xác nhận đúng là kẻ phạm pháp; - Tìm thấy chứng cứ phạm pháp trong người hoặc tại nhà ở của người tình nghi phạm pháp; - Có hành động đang chuẩn bị trốn hoặc đang trốn; - Có hành động tiêu huỷ chứng cứ, làm giả chứng cứ. Có sự thông đồng giữa những kẻ phạm pháp với nhau để trốn tránh pháp luật; - Căn cước, lai lịch không rõ ràng. Hiện nay, những trường hợp khẩn cấp để giữ người thì đã được luật hóa tại các điểm a, b, c khoản 1 Điều 110 BLTTHS năm 2015 bao gồm: Có đủ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; Người cùng thực hiện tội phạm hoặc bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt nhìn thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn; Có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở hoặc nơi làm việc hoặc trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ. Sau khi phân tích hai phạm trù trên thì khái niệm về giữ người trong trường hợp khẩn cấp được hiểu như sau: Giữ người trong trường hợp khẩn cấp là biện pháp ngăn chặn do người có thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng, ngay lập tức làm hạn chế tự do về thân thể đối với người ở trong trường hợp khẩn cấp nhằm ngăn chặn việc người đó thực hiện tội phạm hoặc ngăn chặn ngay việc người đó bỏ trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ [11 ,tr.201]. 12
- Việc đưa ra khái niệm giữ người trong trường hợp khẩn cấp có ý nghĩa rất quan trọng. Không chỉ góp phần bổ sung, hoàn thiện các quy định của pháp luật về biện pháp ngăn chặn mà còn giúp các cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật có những điều kiện thuận lợi để thực hiện tốt vai trò, chức năng của mình trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm. 1.1.2. Đặc điểm Căn cứ vào khái niệm giữ người trong trường hợp khẩn cấp nêu trên và quy định của pháp luật TTHS Việt Nam hiện hành, ta có thể khái quát đặc điểm cơ bản của giữ người trong trường hợp khẩn cấp như sau: - Thứ nhất: Giữ người trong trường hợp khẩn cấp trực tiếp ảnh hưởng và tác động tới quyền con người của đối tượng bị giữ. Điều này thể hiện ở chỗ: Giữ người trong trường hợp khẩn cấp phần nào hạn chế quyền được tôn trọng và bảo vệ (quyền bất khả xâm phạm) về tự do thân thể (Điều 20) và quyền tự do đi lại (Điều 23) được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013. Đó được coi là những quyền cơ bản, quan trọng của con người được Hiến pháp và pháp luật bảo vệ trong trường hợp thông thường. Tuy nhiên, do tính chất khẩn cấp của tình huống mà việc hạn chế quyền con người của đối tượng bị giữ là cần thiết và được pháp luật cho phép “trong khuôn khổ” về các trường hợp nào thì mới được giữ, đối tượng bị giữ là ai, thẩm quyền, trình tự, thủ tục giữ như thế nào [15,tr10]. Chính vì vậy mà không chỉ BLTTHS có quy định về căn cứ pháp lý để giữ khẩn cấp mà ngay tại khoản 2 Điều 14 Hiến pháp 2013 đã tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho việc hạn chế quyền con người của đối tượng bị áp dụng BPNC trong TTHS nói chung và đối tượng bị bắt khẩn cấp nói riêng: Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng. 13
- - Thứ hai: Giữ người trong trường hợp khẩn cấp là một hình thức ngăn chặn có tính độc lập tương đối được quy định tại Điều 109 và 110 BLTTHS hiện hành. Sở dĩ nó được coi là một biện pháp bắt độc lập có tính chất ngăn chặn vì nó có mục đích áp dụng, đối tượng áp dụng, căn cứ áp dụng, thẩm quyền áp dụng, thủ tục áp dụng, văn bản tố tụng riêng, trong đó: + Mục đích áp dụng là để: Ngăn chặn tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng xảy ra; ngăn chặn người bị tình nghi trốn hoặc tiêu hủy, tẩu tán dấu vết của tội phạm; tạo thuận lợi cho việc giải quyết vụ án hình sự; + Đối tượng bị áp dụng: Là những người chưa bị khởi tố hình sự về hành vi đang được phát hiện, điều tra, nhưng lại có đầy đủ các căn cứ để cho rằng chính đối tượng này là kẻ đã gây ra tội phạm đang được phát hiện, điều tra. Các căn cứ này đã được luật hóa thành 3 trường hợp được phép giữ khẩn cấp [15,tr10]. + Căn cứ áp dụng: Theo quy định tại khoản 1 Điều 110 BLTTHS năm 2015, căn cứ áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp là: Trường hợp khẩn cấp thứ nhất: khi có đủ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; Trường hợp khẩn cấp thứ hai: người cùng thực hiện tội phạm hoặc bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt nhìn thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn; Trường hợp khẩn cấp thứ ba: có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở hoặc nơi làm việc hoặc trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ. +Thẩm quyền áp dụng: Người có thẩm quyền áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp là các chủ thể có cơ hội tiếp xúc với các đối 14
- tượng có thể bị giữ khẩn cấp, trong đó có cả những chủ thể không phải là cơ quan hay người tiến hành tố tụng như người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời sân bay, bến cảng; Chi cục trưởng Chi cục Kiểm ngư vùng. Tuy nhiên, chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp vẫn được quy định rất chặt chẽ, chứ không phải là bất kỳ ai cũng có quyền giữ như trong bắt quả tang hay bắt người đang bị truy nã. Viện Kiểm sát không cần xem xét việc phê chuẩn hay không phê chuẩn lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp [15,tr10]. + Thủ thủ áp dụng: Giữ người trong trường hợp khẩn cấp phải tuân theo thủ tục luật định và bao gồm các thủ tục cơ bản như: Đọc lệnh (giữ người trong trường hợp khẩn cấp); Hành vi khống chế đối tượng bị giữ khẩn cấp; lập biên bản giữ khẩn cấp; lấy lời khai, kiểm tra, xác minh các thông tin liên quan tới đối tượng bị giữ khẩn cấp và vụ việc đang xem xét. + Về văn bản áp dụng: Giữ người trong trường hợp khẩn cấp cần sử dụng và ban hành các văn bản tố tụng như: Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp; Biên bản giữ người trong trường hợp khẩn cấp; Biên bản lấy lời khai của người bị giữ. + Thời điểm giữ: Giữ người trong trường hợp khẩn cấp có thể được tiến hành bất kỳ vào thời điểm nào, kể cả vào ban đêm, khác hẳn trường hợp bắt bị can, bị cáo để tạm giam. 1.2. Mục đích và ý nghĩa của biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp trong tố tụng hình sự 1.2.1. Mục đích của biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp trong tố tụng hình sự Mục đích của việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự là vấn đề mà các cơ quan tiến hành tố tụng cần đạt được khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn đó. Theo quy định tại khoản 1 Điều 109 BLTTHS năm 15