Luận văn Giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Ninh Thuận
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Ninh Thuận", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_gioi_han_xet_xu_so_tham_vu_an_hinh_su_theo_phap_lua.pdf
Nội dung text: Luận văn Giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Ninh Thuận
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HÀ HUY CẦU GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH NINH THUẬN LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2018
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HÀ HUY CẦU GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH NINH THUẬN Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 8.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. CAO THỊ OANH HÀ NỘI - 2018
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan, Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Cao Thị Oanh. Các số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn này là trung thực. Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình./. Tác giả luận văn Hà Huy Cầu
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ 6 1.1. Những vấn đề lý luận về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 6 1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 222 Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH VỀ GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI TỈNH NINH THUẬN 399 2.1. Những kết quả đạt được 399 2.2. Những tồn tại hạn chế khi áp dụng quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm và nguyên nhân của tồn tại, hạn chế 556 Chương 3: GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ 666 3.1. Yêu cầu bảo đảm thực hiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 666 3.2. Các giải pháp bảo đảm thực hiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 688 KẾT LUẬN 80 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật hình sự BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự HĐXX : Hội đồng xét xử TAND : Tòa án nhân dân TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao TTHS : Tố tụng hình sự VKS : Viện kiểm sát VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao
- DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1: Số liệu thụ lý, giải quyết án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân hai cấp trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận từ năm 2012 đến năm 2017. Bảng 2.2: Số liệu các vụ án áp dụng giới xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Ninh Thuận từ năm 2012 đến năm 2017. Bảng 2.3: Số lượng các vụ án áp dụng giới xét xử sơ thẩm so với các vụ án đã giải quyết của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Ninh Thuận từ năm 2012 đến năm 2017. Bảng 2.4: Số lượng xét xử các vụ án có áp dụng giới hạn xét xử sơ thẩm của các Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Ninh Thuận từ năm 2012 đến năm 2017.
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một chế định pháp lý quan trọng trong pháp luật tố tụng hình sự (TTHS). Việc xác định đúng đắn quy định này giúp cho Tòa án nhận thức đầy đủ và rõ ràng hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, khắc phục được tình trạng bỏ lọt tội phạm hoặc người phạm tội, tránh làm oan người vô tội. Quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là cơ sở pháp lý để xác định phạm vi xét xử của Tòa án sơ thẩm (được xét xử những bị cáo nào, hành vi nào, theo tội danh nào); đồng thời, cũng thể hiện được mối quan hệ chặt chẽ giữa Viện kiểm sát và Tòa án trong TTHS. Từ năm 1945, khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được thành lập cho đến trước khi có Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 1988, trong Hiến pháp cũng như pháp luật TTHS Việt Nam không có quy định về giới hạn xét xử của Tòa án. Đến năm 1988, lần đầu tiên, giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được quy định tại Điều 170 BLTTHS. Nhưng ngay từ khi BLTTHS năm 1988 có hiệu lực thi hành thì việc vận dụng quy định này vào thực tiễn đã gặp nhiều khó khăn vì còn có cách hiểu và nhận thức khác nhau về nội dung của điều luật này. Sau đó, Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) và Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC) đã ban hành Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 8/12/1988 hướng dẫn thi hành Điều 170 BLTTHS năm 1988, nhưng dưới góc độ nghiên cứu cũng như thực tiễn vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau. Chính vì vậy, khi tiến hành xây dựng BLTTHS năm 2003 thì một trong những vấn đề lớn và quan trọng nhất đặt ra là quy định về giới hạn xét xử sơ thâm của Tòa án. Theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, xét xử sơ thẩm được xác định như là một giai đoạn của quá trình giải quyết một vụ án hình sự, mọi tài liệu chứng cứ của vụ án do cơ quan điều tra thu thập trước đó đều được xem xét một cách công khai tại phiên toà, những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng được nghe trực tiếp lời khai của nhau, được tranh tụng chất vấn những điều mà tại cơ quan điều tra họ không có điều kiện thực hiện. Xét xử sơ thẩm được coi như là đỉnh 1
- cao của quyền tư pháp, tại phiên toà quyền và nghĩa vụ của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng được thực hiện một cách công khai và đầy đủ nhất. Xét xử sơ thẩm là một giai đoạn tố tụng mà ở đó đòi hỏi những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng phải tập trung trí tuệ, xử lý các tình huống một cách mau lẹ, các lý lẽ đưa ra không chỉ đòi hỏi sự chính xác mà phải có sức thuyết phục, nhưng đồng thời lại phải tuân theo những quy định của pháp luật. Thông qua phiên toà có thể đánh giá được trình độ nghiệp vụ của Thẩm phán, của Hội thẩm, của Kiểm sát viên, của Luật sư và những người tham gia tố tụng tố tụng khác. Vì vậy, việc tổ chức phiên toà sơ thẩm tốt có tác dụng to lớn không chỉ đối với một vụ án cụ thể mà còn có tác dụng đối với việc giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật cho mọi công dân. Giới hạn của việc xét xử liên quan trực tiếp và chặt chẽ đến việc đảm bảo nguyên tắc xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của Tòa án, cũng như nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự. Giới hạn xét xử được xác định theo hướng tạo điều kiện cho Hội đồng xét xử (HĐXX) căn cứ vào những chứng cứ được đưa ra xem xét tại phiên tòa và đánh giá một cách khách quan toàn diện, đầy đủ về vụ án, đưa ra quyết định xử lý vụ án theo đúng quy định của pháp luật. Mặt khác, giới hạn xét xử còn đảm bảo cho bị cáo biết mình bị truy tố, xét xử về những hành vi nào, hành vi đó cấu thành tội gì để họ chủ động trong việc bào chữa, nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình. Đó cũng là những căn cứ xây dựng nên các nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự nói chung và quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng. Qua nghiên cứu quy định của pháp luật tố tụng hình sự, các bài viết và tìm hiểu thực tiễn thi hành quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, tác giả xin được đóng góp ý kiến của mình về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự với mong muốn đưa ra được cách hiểu thống nhất và áp dụng hiệu quả hơn nữa quy định này. Do đó, tác giả đã chọn đề tài: “Giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo phápluật tố tụng hình sự Việt Nam, từ thực tiễn tỉnh Ninh Thuận” để làm Luận văn Thạc sĩ của mình. 2
- 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một trong những vấn đề pháp lý thu hút rất nhiều ý kiến tranh luận ở nước ta trong suốt một thời gian dài kể từ Bộ luật Tố tụng hình sự 1988 ra đời cho đến thời điểm hiện nay. Đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề này như: Luận văn “Giới hạn xét xử trong tố tụng hình sự”, của tác giả Trần Văn Tín, Trường Đại học luật Hà Nội, năm 1997; Luận văn “Giới hạn xét xử trong tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Ngô Thị Ánh, Trường Đại học luật Hà nội, năm 2007; Luận văn “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Thúy Hoàn, Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2011. Luận văn “Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” của tác giả Phan Vĩnh Chuyên, Học viện Khoa học xã hội năm 2017. Về các công trình là đề tài nghiên cứu có thể kể đến bài viết “Địa vị pháp lý của người bào chữa trong tố tụng hình sự ở Việt Nam” trong đề tài khoa học cấp Bộ “Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Phạm Hồng Hải năm 1995; bài viết “Nguyên tắc độc lập xét xử và vấn đề giới hạn xét xử trong tố tụng hình sự” của tác giả Đặng Quang Phương trong đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Viện kiểm sát nhân dân tối cao năm 1995; đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường “Giai đoạn xét xử trong tố tụng hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của Trường Đại học Luật Hà Nội. Ngoài ra, các bài nghiên cứu về vấn đề giới hạn xét xử trong tố tụng hình sự nói chung và giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng cũng được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành như: bài viết “Về giới hạn xét xử của Tòa án” của tác giả Vũ Gia Lâm, Tạp chí Luật học số 5/1997; bài viết “Một số ý kiến về giới hạn xét xử của Tòa án” của tác giả Giang Sơn, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 6/1997; bài viết “Bàn thêm về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự” của tác giả Phạm Hồng Hải, Tạp chí Luật học số 4/1998; bài viết “Bàn về giới hạn xét xử sơ thẩm” của tác giả Đinh Văn Quế, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 11/1999; bài viết “Hoàn 3
- thiện các quy định của pháp luật về giới hạn xét xử” của PGS.TS Trần Văn Độ, Tạp chí Tòa án nhân dân số 3/2000; bài viết “Giới hạn xét xử của Tòa án theo Điều 170 Bộ luật tố tụng hình sự” của tác giả Nguyễn Đức Cường, Tạp chí Tòa án nhân dân số 12/2001; bài viết “Một số vấn đề về giới hạn xét xử” của tác giả Nguyễn Văn Huyên, Tạp chí Luật học số 6/2003; bài viết “Giới hạn xét xử theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003” của tác giả Phạm Vũ Ngọc Quang, Tạp chí kiểm sát số 12/2004; bài viết “Bàn về việc áp dụng Điều 196 Bộ luật tố tụng hình sự” của tác giả Nguyễn Thị Kim Thanh, Tạp chí Tòa án nhân dân số 1/2010. Các công trình nói trên nhìn chung đều có những nghiên cứu về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Tuy nhiên, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện cả về lí luận, quy định của pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng quy định này trên thực tế. Do đó cần phải có sự nghiên cứu một cách toàn diện và đầy đủ vấn đề giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong mối quan hệ với các quy định khác của pháp luật tố tụng hình sự, trong mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn để đưa ra được hướng hoàn thiện phù hợp. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu làm rõ khái niệm giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự; phân tích, đánh giá quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam; thực tiễn áp dụng quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự để đưa ra các giải pháp bảo đảm thực hiện quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lí luận về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự; nghiên cứu quy định của pháp luật và thực tiễn thi hành quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu của đề tài là tập trung nghiên cứu các quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm qua thực tiễn áp dụng tại tỉnh Ninh Thuận để thấy những hạn chế, bất cập của pháp luật tố tụng hình sự nước ta; từ đó đề ra một số yêu cầu, giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. 4
- 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở áp dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, các quan điểm của Đảng về Nhà nước và pháp luật. Ngoài ra, luận văn cũng kế thừa có chọn lọc những vấn để lý luận và thực tiễn được các nhà nghiên cứu đi trước đưa ra, những tài liệu, công trình đã được công bố trên các tạp chí, bài viết và tài liệu của các cơ quan từ hoạt động thực tiễn xét xử hình sự. Luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể khác như: phân tích, tổng hợp, so sánh, diễn giải, suy luận logic, phương pháp hệ thống, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn để rút ra các kết luận khoa học của mình. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này, chúng tôi tập trung nghiên cứu những vấn đề lí luận cơ bản về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trên thực tế, và đưa ra một số giải pháp bảo đảm thực hiện chế định này theo quy định của BLTTHS năm 2015. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên cứu Bộ luật tố tụng hình sự về giới hạn xét xử sơ thẩm hình sự và tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu, giảng dạy môn Luật tố tụng hình sự. Những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được vận dụng trong công tác áp dụng pháp luật. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự; Chương 2: Thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại tỉnh Ninh Thuận; Chương 3: Giải pháp bảo đảm thực hiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. 5
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1. Những vấn đề lý luận về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 1.1.1.1 Khái niệm: Tố tụng hình sự là trình tự tiến hành giải quyết vụ án hình sự theo quy định của pháp luật, bao gồm toàn bộ hoạt động của cơ quan, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và cá nhân, cơ quan, tổ chức khác góp phần vào việc giải quyết đúng đắn vụ án theo quy định của luật tố tụng hình sự. Đây là một lĩnh vực đặc thù của Nhà nước, mang tính quyền lực Nhà nước, có liên quan đến nhiều quyền cơ bản của công dân, đặc biệt là quyền của bị can, bị cáo. Xét xử là một trong ba chức năng cơ bản của tố tụng hình sự (buộc tội, bào chữa và xét xử) và chỉ thuộc về một chủ thể duy nhất là Tòa án, thông qua hoạt động xét xử tại phiên tòa, Tòa án - đại diện là Hội đồng xét xử tiến hành xem xét, đánh giá một cách công khai, minh bạch, khách quan, toàn diện và đầy đủ mọi tình tiết của vụ án để đưa ra phán quyết về vụ án. Vì vậy, có thể nói, xét xử vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng trung tâm, giữ vai trò quyết định đối với toàn bộ quá trình tố tụng của vụ án đó. Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, mỗi cấp Tòa án có thẩm quyền xét xử nhất định đối với các vụ án hình sự và chỉ có thể xem xét và quyết định một số vấn đề nhất định về vụ án, tức là chỉ ở một giới hạn nhất định theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Thực tế hiện nay, các văn bản pháp luật tố tụng hình sự không đưa ra một khái niệm về giới hạn xét xử, mà chỉ liệt kê những việc Tòa án được làm trong từng giai đoạn của vụ án; đồng thời, người ta cũng dùng các thuật ngữ khác nhau khi đề cập đến vấn đề này ở các giai đoạn tố tụng khác nhau như: “giới hạn xét xử sơ thẩm”, “phạm vi xét xử phúc thẩm”, “phạm vi giám đốc thẩm” Cơ quan có thẩm quyền cũng chưa có văn bản giải thích sự khác nhau giữa hai khái niệm “giới hạn xét xử” và “phạm vi xét xử”. Theo Từ điển Tiếng Việt, “giới hạn là phạm vi, mức độ nhất định không thể hoặc không được phép vượt qua” 6
- [36, tr.405] còn “phạm vi là khoảng được giới hạn của một hoạt động hay một cái gì” [36, tr.764]. Như vậy, phạm vi thực chất chính là giới hạn, hai khái niệm này có nội hàm tương đương nhau. Xuất phát từ khái niệm “giới hạn” và “phạm vi” trong Từ điển tiếng Việt, chúng tôi cho rằng, mặc dù các nhà làm luật sử dụng thuật ngữ khác nhau nhưng không nhằm mục đích tạo ra sự phân biệt về ý nghĩa. Vì vậy, về cơ bản¸ “giới hạn xét xử” hay “phạm vi xét xử” được dùng với ý nghĩa rất giống nhau hoặc thường là thống nhất với nhau. Ngoài ra, trong một số công trình nghiên cũng đưa ra khái niệm về giới hạn xét xử như “giới hạn xét xử trong tố tụng hình sự là phạm vi mà pháp luật tố tụng hình sự cho phép Tòa án được xem xét và quyết định các vấn đề cụ thể về vụ án hình sự theo các quy định của pháp luật” [34, tr.15] hoặc “giới hạn xét xử là phạm vi Tòa án được xem xét và giải quyết về vụ án” [4, tr.7]. Như vậy, hai tác giả cùng đưa ra một quan điểm về “giới hạn xét xử” và chúng tôi cũng nhất trí với cách hiểu khá phổ biến này. Theo Từ điển Luật học: “Xét xử sơ thẩm có nghĩa là lần đầu tiên đưa vụ án ra xét xử tại một Tòa án có thẩm quyền” [4, tr.870]. Tuy nhiên, theo các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam thì khái niệm này chỉ có ý nghĩa tương đối bởi lẽ, mặc dù phần lớn các phiên tòa sơ thẩm được tiến hành là để xét xử lần đầu tiên đối với vụ án, nhưng vẫn có những phiên tòa sơ thẩm không phải xét xử lần đầu tiên đối với vụ án, đó là những phiên tòa xét xử sơ thẩm lại do Tòa án cấp trên hủy bản án để điều tra, truy tố, xét xử lại hoặc chỉ để xét xử lại ở cấp sơ thẩm. Hoặc trong những thời kì trước đây pháp luật nước ta còn có quy định về thủ tục tố tụng đặc biệt: xét xử sơ và chung thẩm; có nghĩa là sau khi xét xử sơ thẩm thì án có hiệu lực pháp luật ngay mà không có giai đoạn xét xử phúc thẩm như thông thường; chỉ xét xử sơ thẩm đối với vụ án đó 01 lần duy nhất mà thôi. Theo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, thì Tòa án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm là Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực; Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân sự cấp quân khu. Cơ sở pháp lý làm phát sinh việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là quyết định 7
- truy tố (bản cáo trạng) của Viện kiểm sát hoặc quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm về việc hủy bản án để xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm. Giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự căn cứ vào nội dung truy tố của Viện kiểm sát, Tòa án cấp sơ thẩm chỉ được xét xử vụ án hình sự trong phạm vi truy tố của Viện kiểm sát, Tòa án không có quyền xét xử đối với những bị cáo và những hành vi mà Viện kiểm sát không truy tố. Trong quá trình xét xử tại phiên tòa, nếu phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm thì Tòa án ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự. Như vậy, giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là phạm vi những bị cáo, những hành vi của bị cáo theo tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố và Tòa án đã ra quyết định xét xử. Trường hợp Tòa án thấy cần xét xử bị cáo về tội danh nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố thì có thể tự mình quyết định bởi đây là xét xử theo hướng có lợi cho bị cáo; nhưng nếu muốn xét xử tội danh nặng hơn thì phải trả hồ sơ để Viện kiểm sát truy tố lại, cùng với đó phải thông báo rõ lý do cho bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo, người bào chữa biết. Nếu Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên tội danh đã truy tố, thì Tòa án có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn đó. Tuy nhiên, khi thay đổi tội danh như vậy lại liên quan đến một loạt vấn đề rất phức tạp về áp dụng thủ tục tố tụng, xác định thẩm quyền xét xử, điều kiện áp dụng, thay đổi biện pháp ngăn chặn Theo đó, để đưa ra một khái niệm đầy đủ về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, thì khái niệm đó phải bao hàm các yếu tố như: chủ thể, quyền hạn, nội dung, đối tượng. Chủ thể ở đây phải là Tòa án cấp sơ thẩm với chức năng xét xử vụ án hình sự; về nội dung, đối tượng phải là vụ án hình sự trong đó có bị cáo và hành vi của bị cáo theo tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố và Tòa án đã quyết định đưa ra xét xử. Từ những phân tích trên, chúng tôi đưa ra khái niệm về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự như sau: Giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là phạm vi những bị cáo, những hành vi của bị cáo mà Hội đồng xét xử được xét xử tại phiên tòa theo tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố và Tòa án đã ra quyết định xét xử. 8
- 1.1.1.2. Đặc điểm: Về đặc điểm của giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có một số nội dung đáng chú ý, bao gồm: Thứ nhất, đối tượng bị đưa ra xét xử sơ thẩm phải là bị cáo bị Tòa án sơ thẩm ra quyết định đưa vụ án ra xét xử trên cơ sở quyết định truy tố của Viện kiểm sát. có nghĩa là Tòa án không được xét xử thêm bị cáo khi chưa được VKS truy tố. Giới hạn xét xử sơ thẩm là giới hạn bị cáo, giới hạn hành vi của bị cáo bị VKS truy tố. Thứ hai: trong giai đoạn chuẩn bị xét xử Thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa, sau khi nghiên cứu hồ sơ nếu xét thấy có căn cứ cho rằng bị can phạm một tội khác, hoặc có đồng phạm khác, bị can phạm một tội khác nặng hơn tội mà VKS đã truy tố, thì Thẩm phán ra quyết định trả hồ sơ cho VKS để điều tra bổ sung. ngoài ra trong giai đoạn chuẩn bị xét xử Thẩm phán còn có thể ra quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án theo quy định của pháp luật TTHS. Như vậy không phải lúc nào VKS truy tố bị can ra trước Tòa án, thì Tòa án phải thực hiện hành vi quyết định đưa vụ án ra xét xử. Thứ ba: Việc quy định về giới hạn xét xử trong TTHS là thể hiện tính chế ước giữa VKS và Tòa án cấp sơ thẩm có thẩm quyền; phạm vi Tòa án được xét xử không phải là vô hạn, bởi nó bị hạn chế về những người và những hành vi mà VKS truy tố trong bản cáo trạng, và Thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Do vậy, việc VKS truy tố những bị can ra trước Tòa án để xét xử về những hành vi phạm tội do những bị can đó gây ra đúng với tội danh là yếu tố cốt lõi có tác động rất lớn trong quá trình Tòa án xem xét giải quyết vụ án, trên cơ sở đó Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử tại phiên tòa, HĐXX dễ dàng trong việc xét xử đúng người, đúng tội, không xét xử oan sai người vô tội, đồng thời cũng không bỏ lọt tội phạm, tạo ra một lẽ phải công bằng trong xã hội , đảm bảo vụ án được đưa ra xét xử khách quan, công bằng, đúng pháp luật. Ngược lại nếu VKS truy tố những bị can ra trước Tòa án không đúng tội danh, thì một là Tòa án buộc phải xem xét lại tội danh cho đúng với hành vi phạm tội của những bị can đó, hai là Tòa án tiến 9
- hành xét xử theo tội danh không đúng đó và chịu sự chi phối của tội danh đó trong giới hạn xét xử, dẫn đến việc ra bản án, quyết định không đúng với thực tế mà bị cáo phải gánh chịu. Do vậy, quyết định truy tố của VKS sẽ làm căn cứ để Tòa án khi tiến hành xét xử để quyết định tính đúng đắn, khách quan sự thật của vụ án nhằm bảo vệ quyền con người, quyền lợi ích hợp pháp của Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của công dân. 1.1.2. Cơ sở lý luận và mối liên hệ giữa giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và một số nguyên tắc trong tố tụng hình sự Giới hạn của việc xét xử là một chế định pháp lý quan trọng liên quan trực tiếp và chặt chẽ đến việc đảm bảo nguyên tắc xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của tòa án, cũng như nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự. Giới hạn xét xử được xác định theo hướng tạo điều kiện cho Hội đồng xét xử căn cứ vào nhũng chứng cứ được đưa ra xem xét tại phiên tòa và đánh giá một cách khách quan toàn diện, đầy đủ về vụ án, đưa ra quyết định xử lý vụ án theo đúng quy định của pháp luật. Mặt khác, giới hạn xét xử còn đảm bảo cho bị cáo biết mình bị truy tố, xét xử về tội gì, gồm những hành vi nào để họ chủ động trong việc bào chữa, nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình. Đó cũng là những căn cứ xây dựng nên các nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự, là căn cứ pháp lý và cơ sở lý luận xây dựng quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm hình sự mà chúng ta đề cập dưới đây: 1.1.2.1. Giới hạn xét xử và nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự Hiến pháp và Bộ luật Tố tụng hình sự của nước ta qua các thời kỳ đã khẳng định Tòa án là cơ quan duy nhất thực hiện chức năng xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, được giao thực hiện quyền tư pháp. Để đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa tức là đảm bảo mọi hoạt động của mọi chủ thể phải tuân theo pháp luật, hoạt động của Tòa án cũng phải tuân theo những quy định của pháp luật. 10
- Nguyên tắc này chỉ ra rằng: các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải tuân thủ nghiêm chỉnh và triệt để các quy định của pháp luật tố tụng hình sự; thực hiện theo đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn mà pháp luật quy định. Mọi hành vi lạm quyền, vượt quá chức năng, nhiệm vụ của mình, kéo dài quá thời hạn luật định đều là vi phạm nguyên tắc pháp chế trong TTHS, xâm phạm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, ảnh hưởng đến hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, làm tổn hại uy tín của các cơ quan tiến hành tố tụng và làm giảm lòng tin của nhân dân vào sự nghiêm minh của pháp luật. Đây là nguyên tắc xuyên suốt, bao trùm, được thể hiện trong tất cả các giai đoạn của TTHS, từ những quy định chung cho đến những quy định cụ thể và cũng là nguyên tắc pháp lý cơ bản nhất trong hoạt động của các cơ quan nhà nước và công dân được ghi nhận ở Điều 12 Hiến pháp năm 2013. Trong tố tụng hình sự, nguyên tắc này đảm bảo cho cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm toàn diện và triệt để, vừa đảm bảo giáo dục người phạm tội, ngăn chặn việc làm oan người vô tội và ngăn ngừa việc hạn chế quyền dân chủ của công dân một cách trái pháp luật; đảm bảo cho cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng phải nghiêm chỉnh tuân thủ những quy định của BLTTHS. Để nguyên tắc trên được đảm bảo trong quá trình tố tụng, Tòa án cần được tổ chức một cách phù hợp, có chức năng, nhiệm vụ cụ thể, rõ ràng, hoạt động có hiệu quả. Việc quy định Tòa án xét xử trong một giới hạn nhất định về cơ bản đã đảm bảo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Vì lẽ đó, việc xây dựng chế định giới hạn xét xử phải phù hợp và luôn lấy nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa làm tư tưởng chỉ đạo. 1.1.2.2. Giới hạn xét xử và nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật Đây là nguyên tắc được quy định trong Hiến pháp năm 1946 và tiếp tục được ghi nhận ở Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992 và gần đây là Hiến pháp năm 2013; đồng thời cũng được quy định trong Luật tổ chức Tòa án nhân dân các năm 1960, 1981, 1992, 2002 và năm 2014, trong các Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988, 2003, 11
- 2015; các pháp lệnh giải quyết các vụ án kinh tế, lao động, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2005, 2015; Luật tố tụng hành chính năm 2011, 2015. Như vậy, đây vừa là nguyên tắc hiến định vừa là nguyên tắc của tất cả các hình thức tố tụng. Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của TTHS. Nguyên tắc này thể hiện ở hai nội dung cơ bản: khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân không phụ thuộc vào bất cứ cá nhân hay tổ chức nào trong việc đưa ra các ý kiến và phán quyết của mình về vụ án; khi xét xử, căn cứ duy nhất mà Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân dựa vào là pháp luật, đảm bảo vụ án được giải quyết một cách khách quan, phù hợp với quy định của pháp luật. Theo nguyên tắc này, khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm có dựa trên cơ sở chứng cứ, tài liệu của các giai đoạn tố tụng trước nhưng không bị phụ thuộc vào đó (các quyết định, kết luận của Cơ quan điều tra và bản cáo trạng, quyết định truy tố của Viện kiểm sát). Tại phiên tòa, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải trực tiếp xem xét những chứng cứ của vụ án để đưa ra quyết định giải quyết vụ án. Bất cứ ai, bất cứ cơ quan Nhà nước nào vì bất cứ lí do gì cũng không được can thiệp vào hoạt động xét xử hoặc buộc HĐXX phải xét xử theo ý muốn chủ quan của mình. Sự độc lập trong công tác xét xử của Tòa án còn thể hiện ở chỗ, các thành viên của HĐXX cũng độc lập với nhau trong suy nghĩ, trong việc xem xét, đánh giá chứng cứ. Nguyên tắc quy định hai vế, khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân “độc lập” và “chỉ tuân theo pháp luật”, tức là độc lập nhưng không tùy tiện, độc đoán mà phải trên cơ sở các quy định pháp luật. Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền xét xử và quyết định bị cáo có tội hay không, vì vậy quyết định của Tòa án phải là quyết định khách quan, chính xác và độc lập. Nếu khi xét xử Tòa án bị lệ thuộc vào quan điểm Viện kiếm sát, hoặc “án đã bỏ túi” thì tính khách quan của vụ án không còn nữa. Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải tự mình nghiên cứu toàn bộ hồ sơ vụ án, kết hợp chứng cứ thu được tại phiên tòa xét xử để có kết luận riêng của mình đối với từng vấn đề và đưa ra phán quyết độc lập dựa trên cơ sở pháp luật. Như vậy, “độc lập” và “chỉ tuân theo pháp luật” có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, độc lập là điều kiện để Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân khi xét xử chỉ tuân 12
- theo pháp luật, tuân theo pháp luật là cơ sở không thể thiếu để độc lập khi xét xử. Mối quan hệ này ràng buộc bổ trợ cho nhau, nếu chỉ độc lập mà không tuân theo pháp luật thì dễ dẫn đến tùy tiện, độc đoán và oan sai. Nguyên tắc này là điều kiện và cũng là chỗ dựa vững chắc để Tòa án thực thi công tác xét xử của mình. Giới hạn xét xử sơ thẩm đề cập đến các vấn đề: Tòa án được xét xử những bị cáo nào, những hành vi nào của bị cáo đã bị Viện kiểm sát truy tố? Tòa án có bị ràng buộc bởi tội danh mà Viện kiểm sát truy tố hay không? Khi Viện kiểm sát rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa thì quyền hạn xét xử của Tòa án như thế nào? Những nội dung này được xây dựng phù hợp với nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Tòa án xét xử vụ án được đúng đắn, ngược lại nếu quy định về giới hạn xét xử không phù hợp sẽ hạn chế quyền hạn của Tòa án và không đảm bảo tính độc lập cần thiết của Tòa án trong xét xử. 1.1.2.3. Giới hạn xét xử và nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội Bảo đảm quyền con người nói chung, quyền con người của người bị tạm giam, tạm giữ, bị can, bị cáo nói riêng trong tố tụng hình sự là một xu thế tất yếu trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền. Vấn đề bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội được quy định trong các văn bản pháp lý quốc tế cũng như trong luật tố tụng hình sự của nhà nước ta. Qua việc nghiên cứu các văn bản pháp luật quốc tế có thể thấy, quyền con người và bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội được quy định cụ thể trong các văn bản như: Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền, Công ước Châu Âu về quyền con người, Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em, Quy chế Rome về thành lập tòa hình sự thường trực quốc tế. Các văn bản pháp luật này luôn khẳng định các nguyên tắc cơ bản của TTHS như: nguyên tắc xét xử công bằng, nguyên tắc các bên bình đẳng trước Tòa án, nguyên tắc xét xử nhanh chóng, công khai, nguyên tắc suy đoán không có tội cho đến khi tội phạm được chứng minh theo quy định của pháp luật và nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội. Đây là những cơ sở 13