Luận văn Giao tiếp trong gia đình đô thị dưới ảnh hưởng của điện thoại thông minh (smartphone) (nghiên cứu tại phường Phú Lợi, TP Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương)

pdf 103 trang vuhoa 24/08/2022 6440
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Giao tiếp trong gia đình đô thị dưới ảnh hưởng của điện thoại thông minh (smartphone) (nghiên cứu tại phường Phú Lợi, TP Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_giao_tiep_trong_gia_dinh_do_thi_duoi_anh_huong_cua.pdf

Nội dung text: Luận văn Giao tiếp trong gia đình đô thị dưới ảnh hưởng của điện thoại thông minh (smartphone) (nghiên cứu tại phường Phú Lợi, TP Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương)

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN HÀ VY GIAO TIẾP TRONG GIA ĐÌNH ĐÔ THỊ DƢỚI ẢNH HƢỞNG CỦA ĐIỆN THOẠI THÔNG MINH (SMARTPHONE) (Nghiên cứu tại Phƣờng Phú Lợi, Tp. Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dƣơng) Chuyên ngành : Xã hội học Mã số : 60310301 LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. TRỊNH DUY LUÂN HÀ NỘI, năm 2016
  2. LỜI CẢM ƠN Trước hết tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy cô Học viện Khoa học Xã hội, đặc biệt là những người thầy cô đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn cho tôi trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu tại học viện. Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy GS.TS. Trịnh Duy Luân đã dành rất nhiều thời gian và tâm huyết hướng dẫn nghiên cứu và giúp tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp này. Tôi xin cảm ơn Ủy ban nhân dân phường Phú Lợi, Tp. Thủ Dầu Một đã tạo điều kiện cho tiếp xúc với người dân ở đây để điều tra khảo sát và sử dụng dữ liệu để viết luận văn. Nhân đây, tôi xin cảm ơn đến gia đình, bạn bè, những người đã giúp đỡ và bên cạnh tôi suốt thời gian qua, để tôi hoàn thành tốt luận văn này. Mặc dù tôi đã cố gắng để hoàn thiện luận văn bằng cả sự nhiệt tình và năng lực. Tuy nhiên không thể tránh khỏi thiếu sót. Rất mong được sự đóng góp quý báu của quý thầy cô. Xin chân thành cảm ơn Học viên thực hiện Nguyễn Hà Vy
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn “Giao tiếp trong gia đình đô thị dưới ảnh hưởng của điện thoại thông minh (Smartphone)” – Nghiên cứu trường hợp tại phường Phú Lợi, Tp. Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương hoàn toàn do tôi thực hiện. Các trích dẫn và số liệu được sử dụng trong luận văn được dẫn nguồn chính xác trong phạm vi nghiên cứu và hiểu biết của tôi. Hà Nội, tháng 7 năm 2016 Tác giả luận văn Nguyễn Hà Vy
  4. MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT DANH MỤC BẢNG BIỂU PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài 1 2. Tình hình nghiên cứu đề tài 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 6 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 6 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 7 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 8 7. Cơ cấu của luận văn 9 PHẦN NỘI DUNG Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 10 1.1. Cơ sở lý luận 10 1.2. Cơ sở thực tiễn 15 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG GIAO TIẾP TRONG GIA ĐÌNH ĐÔ THỊ HIỆN NAY 17 2.1. Thời gian và cách thức giao tiếp giữa cha mẹ và con cái 17 2.2. Mức độ và cách thức giao tiếp giữa cha mẹ và con cái có nội dung giáo dục 19 2.3. Mức độ và cách thức giao tiếp giữa cha mẹ và con cái về tình cảm 27 2.4. Mức độ và cách thức giao tiếp giữa cha mẹ và con cái về lĩnh vực nghỉ ngơi, giải trí 34
  5. Chƣơng 3: THỰC TRẠNG SỬ DỤNG VÀ ẢNH HƢỞNG CỦA ĐIỆN THOẠI THÔNG MINH ĐẾN GIAO TIẾP TRONG GIA ĐÌNH ĐÔ THỊ 3.1. Thực trạng sử dụng điện thoại thông minh trong gia đình đô thị 44 3.2. Ảnh hưởng của điện thoại thông minh tới giao tiếp trong gia đình đô thị hiện nay 50 Chƣơng 4: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 75 TÀI LIỆU THAM KHẢO 79 PHỤ LỤC
  6. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT STT Viết tắt Diễn giải 1. ĐTTM Điện thoại thông minh 2. CM-CC Cha mẹ và con cái
  7. DANH MỤC BẢNG BIỂU Tên bảng biểu Trang 1.1. Trình độ học vấn của học sinh 14 1.2. Giới tính của học sinh 14 1.3. Nghề nghiệp của phụ huynh 15 1.4. Trình độ học vấn của phụ huynh 15 1.5. Số hộ dân trong từng khu phố của phường Phú Lợi 16 2.1 Thời gian CM-CC thường giao tiếp trực tiếp 18 2.2 Cách thức CM-CC giao tiếp thông qua ĐTTM 18 2.3 Các cách thức giao tiếp giữa CM-CC thông qua ĐTTM phân theo 19 giới tính và nhóm tuổi 2.4 Mức độ giao tiếp trực tiếp giữa CM-CC trong quá trình học tập 20 2.5 Cách thức giao tiếp giữa CM-CC thông qua ĐTTM trong quá trình 20 học tập phân theo giới tính và nhóm tuổi 2.6 Mức độ giao tiếp trực tiếp giữa CM-CC về kết quả học tập 21 2.7 Cách thức giao tiếp giữa CM-CC thông qua ĐTTM về kết quả học 22 tập phân theo giới tính và nhóm tuổi 2.8 Mức độ giao tiếp trực tiếp giữa CM-CC về vấn đề tình dục, giới 23 tính 2.9 Cách thức giao tiếp giữa CM-CC thông qua ĐTTM về vấn đề tình 23 dục, giới tính phân theo giới tính và nhóm tuổi 2.10 Mức độ giao tiếp trực tiếp giữa CM-CC về định hướng nghề 24 nghiệp 2.11 Cách thức giao tiếp giữa CM-CC thông qua ĐTTM về định hướng 25 nghề nghiệp phân theo giới tính và nhóm tuổi 2.12 Tổng hợp mức độ giao tiếp trực tiếp giữa CM-CC về các nội dung 26 giáo dục (%) 2.13 Tổng hợp cách thức giao tiếp giữa CM-CC thông qua ĐTTM về 26 các nội dung giáo dục (%) 2.14 Mức độ giao tiếp trực tiếp giữa CM-CC trong chia sẻ những khó 28 khăn trong cuộc sống phân theo giới tính và nhóm tuổi 2.15 Cách thức giao tiếp giữa CM-CC thông qua ĐTTM trong chia sẻ 29 những khó khăn trong cuộc sống phân theo giới tính và nhóm tuổi 2.16 Mức độ giao tiếp trực tiếp giữa CM-CC trong chia sẻ những niềm 29 vui trong cuộc sống 2.17 Cách thức giao tiếp giữa CM-CC thông qua ĐTTM trong chia sẻ 31 những niềm vui trong cuộc sống phân theo giới tính và nhóm tuổi
  8. 2.18 Mức độ giao tiếp trực tiếp giữa CM-CC trong việc hỗ trợ lẫn nhau 31 khi gặp khó khan 2.19 Cách thức giao tiếp giữa CM-CC thông qua ĐTTM để hỗ trợ nhau 33 khi gặp khó khăn phân theo giới tính và nhóm tuổi 2.20 Tổng hợp mức độ giao tiếp trực tiếp giữa CM-CC về tình cảm (%) 33 2.21 Tổng hợp cách thức giao tiếp giữa CM-CC thông qua ĐTTM về 34 tình cảm(%) 2.22 Mức độ giao tiếp trực tiếp giữa CM-CC để chia sẻ sở thích 35 2.23 Cách thức giao tiếp giữa CM-CC thông qua ĐTTM để chia sẻ sở 35 thích phân theo giới tính và nhóm tuổi 2.24 Mức độ giao tiếp trực tiếp giữa CM-CC để thảo luận về địa điểm 37 giải trí chung 2.25 Cách thức giao tiếp giữa CM-CC thông qua ĐTTM để thảo luận 38 về địa điểm giải trí chung phân theo giới tính và nhóm tuổi 2.26 Mức độ giao tiếp trực tiếp giữa CM-CC để thảo luận về thời gian 39 giải trí chung 2.27 Cách thức giao tiếp giữa CM-CC thông qua ĐTTM để thảo luận 39 về thời gian giải trí chung phân theo giới tính và nhóm tuổi 2.28 Mức độ giao tiếp trực tiếp giữa CM-CC để thảo luận về cách thức 40 giải trí chung 2.29 Cách thức giao tiếp giữa CM-CC thông qua ĐTTM để thảo luận 40 về cách thức giải trí chung phân theo giới tính và nhóm tuổi 2.30 Tổng hợp mức độ giao tiếp trực tiếp giữa CM-CC về nghỉ ngơi, 42 giải trí (%) 2.31 Tổng hợp cách thức giao tiếp giữa CM-CC thông qua ĐTTM về 42 nghỉ ngơi, giải trí(%) 3.1 Tổng thời gian sử dụng ĐTTM trong ngày 45 3.2 Thời gian sử dụng ĐTTM trung bình một ngày phân theo giới tính 45 và nhóm tuổi 3.3 Các ứng dụng của ĐTTM được sử dụng nhiều nhất 46 3.4 Các ứng dụng của ĐTTM thường được dùng (so sánh nam và nữ) 46 3.5 Các ứng dụng của ĐTTM thường được dùng 48 (so sánh phụ huynh và học sinh) 3.6 Mục đích sử dụng ĐTTM phân theo giới tính và nhóm tuổi 49 3.7 Thời gian thường sử dụng ĐTTM nhất phân theo giới tính và 50 nhóm tuổi 3.8 Mức độ ảnh hưởng của ĐTTM đến giao tiếp giữa CM-CC trong 51
  9. quá trình học tập 3.9 Mức độ ảnh hưởng của ĐTTM đến giao tiếp giữa CM-CC về kết 52 quả học tập 3.10 Mức độ ảnh hưởng của ĐTTM đến giao tiếp giữa CM-CC về tình 52 dục, giới tính 3.11 Mức độ ảnh hưởng của ĐTTM đến giao tiếp giữa CM-CC về định 53 hướng nghề nghiệp 3.12 Tổng hợp mức độ ảnh hưởng của ĐTTM tới giao tiếp của CM-CC 53 có nội dung giáo dục 3.13 Mức độ ảnh hưởng của ĐTTM tới giao tiếp CM-CC khi chia sẻ 55 những khó khó khăn trong cuộc sống 3.14 Mức độ ảnh hưởng của ĐTTM đến giao tiếp giữa CM-CC khi chia 56 sẻ những niềm vui trong cuộc sống 3.15 Ảnh hưởng của ĐTTM đến giao tiếp giữa CM-CC khi hỗ trợ lẫn 57 nhau lúc gặp khó khăn trong cuộc sống 3.16 Tổng hợp mức độ ảnh hưởng của ĐTTM đến giao tiếp của CM- 58 CC về tình cảm 3.17 Ảnh hưởng của ĐTTM đến giao tiếp giữa CM-CC khi chia sẻ sở 59 thích 3.18 Ảnh hưởng của ĐTTM đến giao tiếp giữa CM-CC khi thảo luận về 60 địa điểm giải trí chung 3.19 Ảnh hưởng của ĐTTM đến giao tiếp giữa CM-CC khi thảo luận về 61 thời gian giải trí chung 3.20 Ảnh hưởng của ĐTTM đến giao tiếp giữa CM-CC khi thảo luận về 62 cách thức giải trí chung 3.21 Tổng hợp mức độ ảnh hưởng của ĐTTM đến giao tiếp của CM- 63 CC về nghỉ ngơi, giải trí 3.22 Các mặt ảnh hưởng tích cực của ĐTTM đến giao tiếp trong gia 64 đình đô thị 3.23 Các mặt ảnh hưởng tiêu cực của ĐTTM đến giao tiếp trong gia 64 đình đô thị 3.24 Các mặt ảnh hưởng tiêu cực của ĐTTM tới giao tiếp của gia đình 69 đô thị phân theo nhóm tuổi và giới tính 3.25 Sự lo ngại về các ảnh hưởng tiêu cực của ĐTTM 71 3.26 Các vấn đề lo ngại về ảnh hưởng tiêu cực của việc sử dụng ĐTTM 72 3.27 So sánh các lo ngại về ảnh hưởng tiêu cực của việc sử dụng 73 ĐTTM giữa phụ huynh và học sinh
  10. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ở khu vực đô thị nước ta trong thời kỳ Đổi mới và hội nhập hiện nay, người dân rất dễ dàng tiếp cận những trào lưu văn hoá mới, những lối sống mở cùng với việc tiếp cận và sử dụng các dịch vụ hay sản phẩm mới hiện đại. Một trong số đó phải kể đến sự phổ biến rất nhanh và mạnh mẽ của loại hình ĐTTM (smartphone). Nó không chỉ được dùng để nghe – nói, nhắn tin mà còn tích hợp nhiều chức năng khác như chụp hình, nghe nhạc, báo thức, lịch làm việc, truy cập internet và các mạng xã hội Với một thiết bị nhiều tiện ích như vậy, nó đã được các nhóm dân cư đón nhận, đặc biệt là những người dân thành thị. ĐTTM là một trong những vật không thể thiếu đối với dân cư thành thị hiện nay, trong tất cả các hoạt động của mình: làm việc, giải trí, giao tiếp, tra cứu, Đối với các gia đình, nơi người ta thường gọi là “tổ ấm”, là nơi để người ta trở về sau thời gian làm việc bên ngoài, để nghỉ ngơi và xum họp với những người thân yêu: cha mẹ, vợ/chồng, con cái, cùng nhau trò chuyện và trao đổi những việc xảy ra trong ngày với nhau. Ngày nay, với điện thoại di động trên tay, mỗi người đều có thể làm việc, giải trí với game và tham gia mạng xã hội tại nhà. Song việc này cũng đang hình thành những thói quen mới, làm giảm đi các giao tiếp trực tiếp giữa những thành viên trong gia đình hoặc tạo nên những cách thức giao tiếp mới. Matine Segalen đã viết rằng “Liên quan đến các cặp vợ chồng, chiếc điện thoại, một công cụ trao đổi thông tin, có thể là một kể gây chia rẽ: nó ném một trong hai vợ chồng ra khỏi vòng tròn hôn nhân, nó làm rối loạn cái có thể là thời gian tụ họp gia đình trước máy thu hình chẳng hạn” [38] Vấn đề đặt ra là như vậy những gia đình đô thị có những ứng xử, thói quen nào khi sử dụng ĐTTM trong sinh hoạt, giao tiếp, làm việc cũng như vui chơi? Sự hiện hữu của ĐTTM trong các gia đình đô thị có những tác động tiêu cực hay có những tác động tích cực nào? Mối quan hệ của vợ chồng, CM-CC có phải bị “rối loạn” như Martine Segalen đã nói hay không? Giao tiếp là để trao đổi thông tin và những người trong một gia đình càng có nhiều thông tin về nhau thì càng gắn kết 1
  11. với nhau hơn, nhưng khi có một yếu tố chen vào, là chiếc điện thoại thông tin, có thể làm tăng hoặc giảm chất lượng giao tiếp của những người trong cùng một gia đình thì mối quan hệ này sẽ ra sao? Đó là lý do mà tác giả chọn nghiên cứu đề tài “Giao tiếp trong gia đình đô thị dưới ảnh hưởng của điện thoại thông minh”. Đề tài nhằm trả lời những câu hỏi xung quanh vấn đề về hiện trạng dùng ĐTTM trong gia đình và chỉ ra được những ưu điểm và hạn chế của sự hiện hữu chiếc ĐTTM trong gia đình đô thị hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài 2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới: Trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu về ĐTTM (smartphone), nghiên cứu từ thói quen mua sắm tới các ảnh hưởng của nó tới sức khỏe của con người và các mối quan hệ của con người. Bởi vì ĐTTM nhỏ gọn, có thể kết nối với internet, rất tiện dụng cho người dùng. Theo cuộc khảo sát 1.600 người của giáo sư Leslie Perlow, trường kinh doanh Hardvard về thói quen kiểm tra điện thoại thì 70% người phải kiểm tra điện thoại trong một giờ sau khi thức dậy, 56% người kiểm tra điện thoại trong vòng một giờ trước khi đi ngủ, 51% người kiểm tra điện thoại liên tục trong suốt kỳ nghỉ, 48% người kiểm tra điện thoại và những ngày cuối tuần và 44% người cảm thấy rất lo lắng nếu bị mất điện thoại mà không thể mua điện thoại trong vòng một tuần [42]. Denis. F. Berg ( Đại học bang Califonia, Mỹ) cho biết: Số lượt người tìm kiếm và sử dụng các dịch vụ miễn phí trên thuộc mạng xã hội toàn cầu Google là khoảng 27,7 tỉ lượt/ tháng (thống kê năm 2006)[37], và con số này cũng không ngừng tăng cao. Trong nghiên cứu của Thomas Valente, Đại học Southern Califonia, khi khảo sát 1.563 thanh thiếu niên trong độ tuổi từ 15-19 về mạng lưới bạn bè trên internet, cho biết họ sử dụng Internet phục vụ cho học tập chiếm 30,7%, sử dụng các ứng dụng xã hội chiếm 40,9%, 17,2% dành cho tiêu khiển, giải trí trên mạng và 11,2% sử dụng cho các hoạt động nghiên cứu khác [5]. Từ quan điểm xã hội học, Martine Segalen [38] tập hợp được các kết quả nghiên cứu giao tiếp giữa CM-CC ở khu vực Tây Âu thông qua điện thoại di động. 2
  12. Con cái khi được sở hữu điện thoại di động thì đã được giải phóng khỏi sự kiểm soát của cha mẹ, nhưng lại có thể liên hệ được tại mọi thời điểm. Khi xuất hiện internet, trẻ em lại có thêm trợ thủ để trợ giúp cho việc kết nối với bạn bè, chơi game hoặc tìm kiếm thông tin cho việc học hành, đến lúc này chúng được gọi là nhóm trẻ em “tự do có giám sát”, chúng vẫn ngồi nhà trong sự giám sát của cha mẹ nhưng thực sự internet và điện thoại di động đã làm vỡ tung bốn bức tường hiện hữu, chúng “đi ra ngoài” theo lối riêng của chúng. Nghiên cứu tập trung vào sự thay đổi kiểm soát của cha mẹ đối với con cái khi có sự xuất hiện của điện thoại di động và internet, chưa nghiên cứu về các cách thức giao tiếp thông qua những công nghệ này, ngoài ra cũng chưa nói đến việc cha mẹ có dùng các thiết bị này hay không, dường như chỉ tập trung vào con cái. Tác giả sẽ tập trung từ mấu chốt này, từ cách con người muốn thể hiện cái tôi, cái riêng tư mà lý giải vì sao ĐTTM lại được ưa dùng và ảnh hưởng đến việc giao tiếp giữa những người trong gia đình như thế nào. Từ quan điểm y học, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng ĐTTM có thể tác động đến trạng thái cân bằng của não bộ dẫn tới tâm lý dễ cáu gắt hay cảm thấy cô đơn, sử dụng điện thoại đi động quá nhiều sẽ gây ra chứng mất ngủ, đau mỏi cổ, ngón tay, ảnh hưởng thính giác, thị giác và dễ nhiễm bệnh do các vi khuẩn trên thiết bị [35]. Tuy nhiên tác giả chưa tìm thấy có nghiên cứu nào về mối liên hệ giảm sức khoẻ do ĐTTM gây ra với chất lượng giao tiếp của những người trong gia đình. Có thể chính tình trạng suy giảm về thể chất sẽ làm người ta cảm thấy không còn sức cho các cuộc giao tiếp dài hơi. Điện thoại di động cũng gây ra bệnh não mạng, người mắc bệnh này trở nên ngày càng say mê bản thân [narcissism], không tập trung tư tưởng được lâu và thường có tâm trạng sợ bị bỏ lỡ [Fear of missing out - FOMO]. Họ thường chơi trò đánh bạc trên mạng, sử dụng các mạng xã hội, mạng game và các ứng dụng trò chơi. Tỷ lệ mắc bệnh não mạng ở người dùng smartphone cao gấp ba lần người không dùng [13] Bệnh não mạng có ảnh hưởng lớn nhất đối với mức độ căng thẳng công việc-sinh hoạt, ý nói công việc của một người có ảnh hưởng ra sao đối với đời 3
  13. sống gia đình của người đó, thí dụ chứng hay nói dối. Mức độ căng thẳng công việc-sinh hoạt ở những người mắc bệnh não mạng cao gấp ba lần người thường. Một số công trình nghiên cứu chỉ ra rằng những nam giới thường post ảnh selfies lên Facebook, Twitter và Instagram dường như càng trở nên tự yêu mình, dễ xúc động hoặc có các đặc trưng tính cách như thiếu thông cảm với người khác [1] Từ người lớn đến trẻ nhỏ, ai cũng có thể dùng smartphone và chịu sức ảnh hưởng của smartphone. Smartphone làm cho trẻ nhỏ, nhất là những trẻ tiếp cận smartphone quá sớm (dưới 2 tuổi) dễ bị tự kỷ, giảm thị lực và có vấn đề về khả năng tập trung [23] làm cho thanh thiếu niên giảm thời gian giao tiếp cũng như chất lượng giao tiếp, chúng tìm tới thế giới riêng mà quên đi sự có mặt của người bên cạnh, phớt lờ những câu nói của người xung quanh và như thế làm ảnh hưởng đến các mối quan hệ [20] Các nhà nghiên cứu cũng đã chỉ ra rằng việc sử dụng smartphone quá nhiều làm ảnh hưởng đến đời sống chăn gối của các cặp vợ chồng, họ quan tâm tới việc trả lời tin nhắn hay các cuộc gọi điện hơn là đời sống tình dục và dần dần họ không còn thấy hứng thú với việc sinh hoạt vợ chồng nữa [16] Nghiên cứu của Varoth Chotpitayasunondh và giáo Karen Douglas tại Trung tâm tâm lý học của ĐH Kent vừa hoàn thành năm 2016, có 3 nguyên nhân liên quan tới việc nghiện smartphone, gồm nghiện internet, sợ bỏ lỡ thông tin và thiếu tự chủ. Không chỉ vậy, nghiên cứu còn chỉ ra hệ lụy của việc nghiện smartphone chính là sự lạnh nhạt với những người xung quanh, bao gồm cả người thân, bạn bè Họ đã thực hiện cuộc khảo sát trên 251 ứng viên có độ tuổi từ 18 đến 66. Kết quả cho thấy, những người nghiện điện thoại thường có hành vi “phubbing” đối với người khác. “Phubbing” là một thuật ngữ được ghép từ “phone” (điện thoại) và “snub” (lạnh nhạt). Nó chỉ tới việc con người trở nên lạnh nhạt với mọi người xung quanh, mà nguyên nhân chính là chiếc điện thoại thông minh. [22] 2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước: Đã có rất nhiều nghiên cứu về ảnh hưởng của facebook đến lối sống của thanh thiếu niên. Thanh thiếu niên là đối tượng luôn luôn sẵn sàng tiếp nhận cái mới 4
  14. và thích thể hiện cái tôi của mình. Facebook là nơi trao đổi thông tin, hình ảnh và đăng tải những trạng thái của người dùng một cách dễ dàng, người xem cũng có thể dễ dàng bình luận những ý kiến của mình đến những điều được đăng tải đó. Đây là môi trường thuận lợi cho thanh thiếu niên thể hiện những điều mình mong muốn mà không lo sợ ai khác đánh giá. Các nghiên cứu cũng chỉ ra những tác động tích cực và tiêu cực của trang mạng xã hội đối với thanh thiếu niên là ngoài tác động tích cực như có thông tin nhanh chóng, dễ dàng trao đổi việc học hành, tâm sự, giải trí, Facebook cũng có tác hại rất lớn, nó được coi như một thứ gây nghiện mà người dùng phải thường xuyên truy cập, mất rất nhiều thời gian chỉ cho việc like, comment, hay đơn giản là xem những người khác đang làm gì, nghĩ gì. Điều này làm giảm sự tập trung trong việc học hành. Với đề tài của tác giả, đây cũng là một trong những kết quả có thể dùng lý giải cho việc do quá tập trung vào mạng xã hội mà chất lượng giao tiếp bị suy giảm, hoặc cũng có thể là khi các thành viên trong gia đình cùng sử dụng facebook thì họ có thể chia sẻ những điều mà giao tiếp trực tiếp không thể có. [11][14][17][27][41]. Khi nghiên cứu về internet, các nhà nghiên cứu cũng đưa ra được kết quả tương tự như nhóm tác giả nghiên cứu về ảnh hưởng của facebook, tức là nó cũng có những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực đến đời sống của người dùng. Về lối sống ở đô thị, dưới tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, người dân đô thị, với năng suất làm việc cao, trình độ dân trí cao, dễ dàng tiếp thu những cái mới hơn so với người dân ở nông thôn đã xuất hiện những giá trị mới, cá nhân được tôn trọng hơn, bình đẳng nam nữ được quan tâm, quy mô gia đình thu nhỏ mà năng suất lao động cao, thu nhập tốt dễ dàng thúc đẩy nhu cầu của con người cao hơn, Khi các mối quan hệ trong gia đình như ông bà, cha mẹ, con cái, vợ chồng, anh chị em dần dần giảm đi, quan hệ cấu trúc trở nên lỏng lẻo [3] Tác giả có thể tập trung điểm này khi để lý giải cho những chiều cạnh tích cực và tiêu cực trong giao tiếp của những thành viên trong gia đình đô thị. Trong gia đình hiện đại, hay gia đình đô thị, có sự biến đổi về chức năng tâm lý, tình cảm do sự chuyển đổi từ đơn vị kinh tế sang đơn vị tình cảm. Song, việc 5
  15. thực hiện chức năng thoả mãn nhu cầu tâm lý – tình cảm của gia đình cũng đứng trước nhiều khó khăn. Những khác biệt về quan điểm và lối sống giữa CM-CC tạo nên những áp lực tinh thần rất lớn cho các thế hệ cùng sống chung dưới một mái nhà. Mâu thuẫn về quan điểm, lối sống chiếm tỷ lệ cao nhất trong các nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn giữa CM-CC, trong khi tỷ lệ mâu thuẫn trong các vấn đề khác thấp hơn như học tập, vui chơi, tình bạn, tình yêu, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm [34] Người ta đã nói đến một “lối sống” mới, gọi là lối sống “cúi mặt vào màn hình”, nghĩa là hai người ngồi đối diện nhau nhưng không nói chuyện với nhau mà chỉ chăm chăm vào màn hình điện thoại của mình. Đây là một lối sống gây ra hiểm họa cho hôn nhân, các cặp vợ chồng dần xa nhau lúc nào không hay. Thế giới ảo làm cho vợ/chồng không còn biết quan tâm tới đối phương, không còn biết nhận điện đâu là đời sống hiện thực, đâu là đời sống ảo. [31] Quan hệ CM-CC cũng trở nên lỏng lẽo hơn, con cái khi đã được phép sở hữu riêng một chiếc smartphone thì chúng dành thời gian cho nó hơn là quan tâm tới việc phải trao đổi thông tin với cha mẹ. Chúng còn coi đó là thế giới riêng tư, cha mẹ không có quyền xâm phạm. Và khi chúng chỉ cắm cúi vào điện thoại thì kết quả học tập có thể bị ảnh hưởng xấu [20]. Có thể thấy, smartphone có tác động khá là tiêu cực đến đời sống của gia đình. Tác giả sẽ xem xét ở trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này thì tác động của smartphone có chiều hướng tích cực nào không. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Nhận diện việc sử dụng ĐTTM và ảnh hưởng của nó tới hoạt động giao tiếp trong các gia đình đô thị hiện nay. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Giao tiếp trong gia đình đô thị dưới ảnh hưởng của việc sử dụng ĐTTM. 4.2. Khách thể nghiên cứu: Các gia đình khu vực đô thị có sử dụng ĐTTM tại Phường Phú Lợi, Tp. Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. 6
  16. 4.3. Phạm vi nghiên cứu: Giao tiếp trong gia đình bao gồm giao tiếp theo chiều dọc, tức là giao tiếp giữa các thế hệ với nhau (ông bà, cha mẹ với con cháu) và giao tiếp theo chiều ngang (vợ - chồng, anh chị em). Trong đề tài này, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu các gia đình hai thế hệ (gia đình hạt nhân [4, tr.31]) bao gồm CM-CC chưa hôn (11 - 18 tuổi). Bởi lẽ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì mô hình gia đình này rất phổ biến ở khu vực đô thị; Lứa tuổi 11-18 là nhóm tuổi đang học trung học cơ sở và trung học phổ phổ thông. Nhân cách đang được hoàn thiện và đang cố gắng khẳng định cái tôi, tìm kiếm hình mẫu lý tưởng để noi theo; Với khái niệm “giao tiếp trong gia đình”, đề tài sẽ tập trung vào loại hình giao tiếp giữa CM-CC. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận nghiên cứu Đề tài sử dụng các phương pháp luận và hướng tiếp cận của xã hội học. Các lý thuyết được áp dụng phù hợp cho từng nội dung nghiên cứu. Bên cạnh đó hướng tiếp cận tổng quát cũng mang lại cái nhìn khách quan cho vấn đề nghiên cứu. 5.2. Phương pháp nghiên cứu: 5.2.1 Phương pháp phân tích những tài liệu có sẵn: giúp tìm hiểu các vấn đề đang quan tâm, nghiên cứu. Từ đó xây dựng nên tổng quan các vấn đề có liên quan đến những ảnh hưởng của ĐTTM đến giao tiếp trong gia đình đô thị. Với phương pháp này, đề tài chủ yếu đi tìm các kết quả và kết luận của các tác giả trước đây về các vấn đề liên quan, từ đó có những hiểu biết sơ bộ về việc sử dụng ĐTTM cũng như những ảnh hưởng của nó. 5.2.2. Phương pháp thu thập dữ liệu định tính: Phỏng vấn sâu một số học sinh và phụ huynh nhằm tìm hiểu thêm về thói quen sử dụng ĐTTM và suy nghĩ về những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của ĐTTM tới giao tiếp trong gia đình. Việc phỏng vấn sâu phần tìm hiểu một số ý kiến khách quan cho đề tài nghiên cứu. Đề tài đã tiến hành phỏng vấn sâu 05 học sinh và 10 phụ huynh để tìm hiểu các ý kiến, các bình luận của họ về những vấn đề của đề tài nghiên cứu. 7
  17. 5.2.3. Phương pháp thu thập dữ liệu định lượng: Phương pháp thu thập dữ liệu định lượng thông qua phỏng vấn bằng bảng hỏi. Bảng câu hỏi được xây dựng xung quanh các vấn đề: Thực trạng sử dụng ĐTTM, thực trạng giao tiếp trong gia đình đô thị và những ảnh hưởng của ĐTTM đến giao tiếp trong gia đình đô thị. Đề tài đã tiến hành phỏng vấn 182 phụ huynh và học sinh. Cách chọn mẫu Ban đầu, dựa trên tổng số hộ dân của địa bàn nghiên cứu (Phường Phú Lợi), tác giả dự định chọn mẫu ngẫu nhiên, nhưng do trong quá trình khảo sát, nhiều hộ không đáp ứng được yêu cầu của đề tài với các tiêu chí là: - Gia đình có người sử dụng ĐTTM; - Con cái thuộc độ tuổi 11-18 (học sinh cấp 2 hoặc cấp 3) Nên tác giả đã chọn mẫu theo chủ đích, phỏng vấn bằng bảng hỏi đối với 61 phụ huynh là nữ, 61 phụ huynh là nam và 60 học sinh (trong đó có 30 học cấp 2 và 30 học sinh cấp 3). 6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận: Lối sống, một trong những chủ đề mà hiện nay các nhà nghiên cứu đang rất quan tâm. Dưới tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, kinh tế xã hội biến đổi, các giá trị mới xuất hiện, con người lựa chọn những giá trị phù hợp với mình và hiện thực hoá chúng trong cuộc sống hàng ngày với nhiều phương thức khác nhau, tạo nên những lối sống khác nhau [19,Tr. 275). Trong phạm vi của đề tài này, tác giả tập trung nghiên cứu về giao tiếp của gia đình đô thị nhằm góp một mảnh ghép vào bức tranh nghiên cứu lối sống của con người đô thị dưới ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông số hiện đại ngày nay. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn: Gia đình là tế bào của xã hội, tất cả những sự biến đổi trong gia đình điều có ảnh hưởng đến cấu trúc chung của xã hội. Sự phát triển của xã hội là dựa trên nền tảng của sự phát triển gia đình. Trong mỗi gia đình, lối sống được truyền tải từ thế 8
  18. hệ này sang thế hệ khác, các thông tin được truyền tải và sự gắn kết của các thành viên trong gia đình đều thông qua giao tiếp. Sự giao tiếp thành công hay không phụ thuộc vào cách thức giao tiếp. Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ mang đến cái nhìn bao quát về cách thức giao tiếp của gia đình đô thị hiện nay và những biến đổi trong hoạt động giao tiếp dưới tác động của ĐTTM như là kết quả của tiến bộ khoa học kỹ thuật trong hoạt động truyền thông và giao tiếp hiện đại. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài các Phần mở đầu, Phần Kết luận và Khuyến nghị, nội dung luận văn gồm có 3 chương: - Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn: Phần này tổng quan tình hình nghiên cứu ở trong nước và ngoài nước về thực trạng sử dụng ĐTTM và những ảnh hưởng của nó; phân tích các lý thuyết áp dụng; các khái niệm liên quan đến đề tài nghiên cứu, cùng mô hình khung phân tích, câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu. - Chương 2: Thực trạng giao tiếp trong gia đình đô thị hiện nay: Phân tích thực trạng giao tiếp giữa CM-CC trong gia đình đô thị hiện nay về các nội dung giáo dục, tình cảm và nghỉ ngơi, giải trí. Xem xét mức độ và những cách thức giao tiếp. - Chương 3: Thực trạng sử dụng và ảnh hưởng của ĐTTM đến giao tiếp của gia đình đô thị: Phân tích thời gian sử dụng, các ứng dụng thường dùng và mục đích sử dụng ĐTTM; phân tích ảnh hưởng của ĐTTM đến giao tiếp giữa CM-CC khi trao đổi về nội dung giáo dục, chia sẻ tình cảm và thảo luận về việc nghỉ ngơi, giải trí chung. 9
  19. PHẦN NỘI DUNG Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1.1. Cơ sở lý luận: Luận văn sử dụng các lý thuyết xã hội học gia đình, lý thuyết về truyền thông (quyết định luận kỹ thuật) và lý thuyết lối sống đô thị như là cơ sở lý luận trong phân tích nội dung nghiên cứu về giao tiếp trong gia đình đô thị dưới ảnh hưởng của ĐTTM (smartphone) bao gồm việc phân tích thực trạng giao tiếp trong gia đình đô thị hiện nay, thực trạng sử dụng ĐTTM và ảnh hưởng của ĐTTM tới giao tiếp trong gia đình đô thị. - Lý thuyết Xã hội học gia đình Gia đình hiện đại chỉ còn lại hai chức năng là chức năng sinh con đẻ cái để nói dõi và chức năng gắn bó với nhau về tình cảm trong số 7 chức năng của thời kỳ tiền công nghiệp (nhà xã hội Mỹ William F. Ogburn (1938)). Chức năng gắn bó với nhau về tình cảm là đảm bảo sự cân bằng tâm lý, thoả mãn nhu cầu tình cảm cho các thành viên gia đình, giúp thành viên gia đình luôn có sự cân bằng về tâm lý, tình cảm, nhằm củng cố độ bền vững của hôn nhân và gia đình, sự ổn định của xã hội [32, tr.39]. Đề tài xem xét mức độ thoả mãn tình cảm của các thành viên trong gia đình đô thị hiện nay. Đặc biệt là khi có sự xuất hiện của ĐTTM thì chức năng này được thực hiện như thế nào. - Lý thuyết về truyền thông Lý thuyết quyết định luận kỹ thuật: Kỹ thuật là sự nối dài của các giác quan và hệ thống thần kinh của con người, vì thế những thay đổi về kỹ thuật có thể dẫn tới những cách thức tri giác và nhận thức mới (McLuhan) [26, tr.271]. Trong phạm vi đề tài, ĐTTM chính là phương tiện hữu hiệu “nối dài các giác quan” cho các thành viên trong gia đình (CM-CC) để có thể trao đổi với nhau khi không thể gặp mặt trực tiếp. Những chia sẻ thông qua internet cũng làm cho các thành viên trong gia đình có thể thay đổi cách tiếp nhận thông tin so với giao tiếp trực tiếp. 10
  20. - Lý thuyết Lối sống Đô thị Đô thị như một lối sống (Louis Wirth): Các khuôn mẫu của văn hoá và cấu trúc xã hội, đặc trưng của các đô thị là khác căn bản với văn hoá của các cộng đồng nông thôn. Trong khi nông thôn còn thường xuyên hỏi thăm nhau, làng xóm xem nhau như họ hàng thì ở đô thị người dân sống tách biệt kiểu “đèn nhà ai nấy sáng”. Người dân đô thị dễ dàng tiếp cận cái mới và tạo ra những phương thức sản xuất cũng như nếp sống mới mà ở nông thôn chưa từng có [19, tr.129]. Một trong những cái mới mà người dân đô thị tiếp nhận chính là sử dụng smartphone và xem nó như vật “bất khả ly thân” để hỗ trợ người sở hữu trong công việc, học tập cũng như giải trí và giao tiếp với bạn bè, người thân. 1.1.1. Các khái niệm then chốt - Giao tiếp: hay còn gọi là truyền thông, là quá trình truyền đạt, tiếp nhận và trao đổi thông tin nhằm thiết lập các mối liên hệ giữa con người với con người. Một trong những các phân loại giao tiếp là giao tiếp trực tiếp và giao tiếp gián tiếp (qua trung gian người khác hoặc qua một phương tiện kỹ thuật nào đó)[26, tr.2]. Trong phạm vi đề tài, khi nói đến giao tiếp gián tiếp nghĩa là giao tiếp thông qua ĐTTM. - Gia đình đô thị: Gia đình: là một hình thức tổ chức đời sống cộng đồng của con người, một thiết chề văn hóa – xã hội đặc thù, được hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở của quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng và giáo dục giữa các thành viên. Đô thị: là điểm dân cư có tối thiểu 40.000 người trở lên, trong đó ít nhất ít nhất 60% dân cư không làm nông nghiệp. Gia đình đô thị trong phạm vi đề tài bao gồm các thành viên là cha mẹ, con cái sống ở khu vực đô thị - ĐTTM: hay tiếng Anh gọi là Smartphone, một thiết bị kết hợp giữa điện thoại di động và các tính năng của một thiết bị hỗ trợ cá nhân kỹ thuật số (PDA). Tức là với một chiếc điện thoại bạn vừa có thể nghe, gọi, nhắn tin 11