Luận văn Giao tiếp của người nghỉ hưu ở Hà Nội

pdf 161 trang vuhoa 25/08/2022 9120
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Giao tiếp của người nghỉ hưu ở Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_giao_tiep_cua_nguoi_nghi_huu_o_ha_noi.pdf

Nội dung text: Luận văn Giao tiếp của người nghỉ hưu ở Hà Nội

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN BÙI THỊ VÂN ANH GIAO TIẾP CỦA NGƯỜI NGHỈ HƯU Ở HÀ NỘI Chuyên ngành: Tâm lý học Mã số: 60. 3180 LUẬN VĂN THẠC SỸ TÂM LÝ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS Vũ Dũng HÀ NỘI: 2008
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN BÙI THỊ VÂN ANH GIAO TIẾP CỦA NGƯỜI NGHỈ HƯU Ở HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SỸ TÂM LÝ HỌC HÀ NỘI: 2008
  3. MỤC LỤC Trang DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT 1 MỞ ĐẦU 4 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 4 1.1. Tổng quan về lịch sử vấn đề nghiên cứu 4 1.1.1. Nghiên cứu về giao tiếp 4 1.1.1.1. Nghiên cứu về giao tiếp ở nước ngoài 8 1.1.1.2. Nghiên cứu về giao tiếp ở Việt Nam 10 1.1.2. Nghiên cứu về giao tiếp của người nghỉ hưu 10 1.2.1. Nghiên cứu về giao tiếp của người nghỉ hưu ở nước ngoài 13 1.2.2. Những nghiên cứu về giao tiếp của người nghỉ hưu ở Việt Nam 16 1.2. Một số vấn đề lý luận về giao tiếp 16 1.2.1. Khái niệm giao tiếp 24 1.3. Khái niệm giao tiếp của người nghỉ hưu 24 1.3.1. Người nghỉ hưu 28 1.3.2. Khái niệm giao tiếp của người nghỉ hưu 39 CHƯƠNG 2: TIẾN TRÌNH THỰC HIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP 39 NGHIÊN CỨU 2.1. Nghiên cứu lý luận 39 2.1.1. Mục đích nghiên cứu lý luận 39 2.1.2. Nội dung nghiên cứu lý luận 39 2.1.3. Phương pháp nghiên cứu lý luận 39 2.2. Nghiên cứu thực tiễn 39 2.2.1. Giai đoạn thiết kế bảng hỏi 40 2.2.2. Giai đoạn khảo sát thử 41 2.2.3. Giai đoạn điều tra chính thức 42 2.2.4. Cách tính toán điểm số của trắc nghiệm và bảng hỏi 46
  4. 2.2.5. Các phương pháp phân tích kết quả 47 CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN 52 3.1. Nhu cầu và mục đích giao tiếp của người nghỉ hưu 52 3.1.1. Nhu cầu giao tiếp 52 3.1.2. Mục đích giao tiếp 53 3.2. Đối tượng giao tiếp 56 3.2.1. Giao tiếp cá nhân 56 3.2.2. Giao tiếp nhóm 60 3.2.3. Người thường chia sẻ những chuyện quan trọng trong cuộc sống 66 3.3. Nội dung giao tiếp 69 3.3.1. Nội dung giao tiếp xã hội 69 3.3.2. Nội dung giao tiếp gia đình 72 3.3.3. Những vấn đề khó trao đổi trong giao tiếp và cảm giác cô đơn 75 3.4. Hình thức, địa điểm giao tiếp 77 3.5. Thời gian giao tiếp 89 3.5.1. Thời gian giao tiếp xã hội 89 3.5.2. Thời gian giao tiếp gia đình 90 3.5.3 Thời điểm giao tiếp 93 3.6. Ảnh hưởng của giao tiếp đến đời sống của người nghỉ hưu 94 3.6.1. Cảm nhận của NNH khi giao tiếp với người khác 94 3.6.2. Cảm nhận của NNH về cuộc sống hiện tại 96 3.6.3. Giao tiếp gia đình vvà ảnh hưởng của nó tới cuộc sống của NNH 101 3.6.4. Ảnh hưởng của giao tiếp xã hội tới cuộc sống của NNH 103 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 114 1. Kết luận 114 2. Kiến nghị 116 TÀI LIỆU THAM KHẢO 119 PHỤ LỤC 121
  5. DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN Chữ viết tắt Xin đọc là GĐ Gia đình XH Xã hội ĐTB Điểm trung bình ĐLC Độ lệch chuẩn
  6. DANH MỤC CÁC BẢNG Trang Bảng 2.1: Mô tả mẫu nghiên cứu 44 Bảng 3.1: Nhu cầu giao tiếp của người nghỉ hưu (NNH) 52 Bảng 3.2: Mục đích giao tiếp của NNH 53 Bảng 3.3: Đối tượng giao tiếp hàng ngày của NNH 56 Bảng 3.4: Các tổ chức, nhóm, hội ở địa phương mà NNH tham gia 60 Bảng 3.5: Mục đích khi tham gia trong các tổ chức, nhóm, hội 62 Bảng 3.6: Số lượng bạn thân 63 Bảng 3.7: Điều kiện để lựa chọn bạn tâm sự hàng ngày 64 Bảng 3.8: Những người thường chia sẻ những chuyện quan trọng 66 Bảng 3.9: Nội dung giao tiếp xã hội của NNH 69 Bảng 3.10: Nội dung giao tiếp gia đình của NNH 72 Bảng 3.11: Hình thức, địa điểm giao tiếp của NNH 77 Bảng 3.12: Các hoạt động khác của NNH 80 Bảng 3.13: Các hoạt động yêu thích của NNH 82 Bảng 3.14: Thời gian giao tiếp xã hội hàng ngày của NNH 89 Bảng 3.15: Thời gian giao tiếp hàng ngày của NNH với con cái 92 Bảng 3.16: Thời điểm giao tiếp xã hội của NNH 93 Bảng 3.17: Thời điểm giao tiếp với người thân của NNH 93 Bảng 3.18: Cảm nhận của NNH khi giao tiếp với người khác 94 Bảng 3.19 : Đánh giá của NNH về mức độ cần thiết của bạn bè 103 Bảng 3.20 : Đánh giá của NNH về hoạt động 105 của các tổ chức xã hội dành cho NNH
  7. MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI. Giao tiếp là một điều kiện tất yếu không thể thiếu được trong hoạt động của con người. Cùng với hoạt động giao tiếp đã trở thành một phương thức tồn tại của xã hội loài người. Các Mác đã chỉ ra rằng: "Sự phát triển của mỗi cá nhân được quy định bởi sự phát triển của tất cả các cá nhân khác mà nó giao lưu một cách trực tiếp và gián tiếp với họ" [22; 183]. Với vai trò quan trọng như vậy, giao tiếp luôn được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Mỗi tác giả nghiên cứu đều gắn liền với một lĩnh vực cụ thể như: Giao tiếp sư phạm, giao tiếp trong quản lý, giao tiếp trong kinh doanh Song, trong quá trình nghiên cứu về giao tiếp, các tác giả ít quan tâm nghiên cứu sâu về giao tiếp của người nghỉ hưu. Trong đời sống văn hoá cổ truyền Việt Nam, tuổi tác và kinh nghiệm có vai trò đặc biệt quan trọng. Nắm giữ vốn văn hoá của dân tộc, bảo lưu và truyền bá chúng là những người cao tuổi nói chung. Tính chất truyền miệng, bất thành văn đã tạo nên một vị thế đáng kính nể của người cao tuổi trong đời sống văn hoá cổ truyền. Người nghỉ hưu là một bộ phận đặc biệt trong những người cao tuổi. Đó là lớp người đã có nhiều cống hiến cho xã hội, tích luỹ được nhiều kinh nghiệm trong cuộc sống. Lớp người cao tuổi ấy thường có độ nhạy cảm cao với những đụng độ trong cuộc sống, đặc biệt là thuộc các khía cạnh tinh tế trong ứng xử xã hội động chạm đến đời sống tinh thần. Họ dễ bị tổn thương và bị khuấy động đối với những ứng xử mà với mỗi nhóm xã hội khác có thể không có ảnh hưởng gì. Do sự thay đổi căn bản lối sống và hoạt động, thay đổi vị trí, vai trò xã hội và môi trường sống nên người nghỉ hưu phải đối mặt với nhiều vấn đề trong cuộc sống nói chung và trong giao tiếp nói riêng. Những vấn đề này nếu không được quan tâm, giải quyết ổn thoả sẽ tác động xấu đến tâm lý, sức khoẻ của họ và có thể gây những ảnh hưởng tiêu cực đối với cuộc sống của những người thân trong gia đình họ. Gia đình và xã hội phải có trách nhiệm chăm lo cả về vật chất và tinh thần cho người nghỉ hưu. Chính vì vậy, việc đi sâu nghiên cứu những đặc trưng giao tiếp của người nghỉ hưu có ý nghĩa to lớn về mặt thực tiễn cũng như lý luận. 1
  8. Ở Việt Nam trước đây, do nhiều nguyên nhân như chiến tranh, đói nghèo trong một thời gian dài, vấn đề người cao tuổi cũng như người nghỉ hưu ít được chú ý tới. Những năm gần đây, vấn đề này đã bắt đầu được quan tâm, chú ý. Nội dung chủ yếu nhằm chăm sóc sức khoẻ thể chất cũng như tinh thần cho người cao tuổi, giúp người cao tuổi tìm thấy niềm vui cuộc sống trong quãng đời còn lại. Một số các cơ quan đã phối hợp mở các cuộc điều tra xã hội học về người cao tuổi, người nghỉ hưu hoặc tổ chức các cuộc hội thảo khoa học bàn về các vấn đề của người cao tuổi Nhìn chung các nghiên cứu về người nghỉ hưu chỉ được đề cập đan xen trong các nghiên cứu về người cao tuổi hoặc nếu có thì mới đề cập đến độ tuổi thích hợp để nghỉ hưu, các chế độ xã hội đối với người nghỉ hưu, còn thiếu những công trình tiếp cận người nghỉ hưu từ góc độ tâm lý nói chung và giao tiếp nói riêng. Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn hướng nghiên cứu này. 2. ĐỐI TƢỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU 2.1.ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU Giao tiếp của người nghỉ hưu trên địa bàn thành phố Hà Nội. 2.2. KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU - Những người đã nghỉ hưu hiện đang sống ở Hà Nội (225 người) - Người thân của người nghỉ hưu (vợ, chồng, con cái: 6 người) 3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Tìm hiểu thực trạng giao tiếp của người nghỉ hưu ở Hà Nội, trên cơ sở đó đề xuất một số kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động giao tiếp của người nghỉ hưu. 4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU. 3.1. Xác định những vấn đề lý luận cơ bản về giao tiếp của người nghỉ hưu: Khái niệm; các hình thức giao tiếp; chức năng; vai trò của giao tiếp. 3.2. Nghiên cứu thực trạng giao tiếp của người nghỉ hưu ở Hà Nội. 3.3. Đề xuất một số kiến nghị góp phần nâng cao đời sống tinh thần của người nghỉ hưu. 5. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC. 2
  9. 5.1. Người nghỉ hưu có nhu cầu giao tiếp cao, đối tượng giao tiếp hẹp và nội dung giao tiếp thiên về những vấn đề sức khoẻ và cuộc sống sinh hoạt hàng ngày. 5.2. Giao tiếp của người nghỉ hưu bị ảnh hưởng nhiều hơn của các yếu tố: Giới tính, độ tuổi, thời gian nghỉ hưu và cương vị công tác trước khi nghỉ hưu 6. GIỚI HẠN NGHIÊN CỨU. 6.1. Giới hạn nội dung nghiên cứu. Đề cương chỉ tập trung tìm hiểu về giao tiếp của những người đã nghỉ hưu. 6.2. Giới hạn phạm vi nghiên cứu: Do người nghỉ hưu chủ yếu làm việc và sống ở nội thành nên chúng tôi giới hạn phạm vi nghiên cứu trong nội thành của thành phố Hà Nội. 7. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. 7.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu. 7.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi 7.3. Phương pháp chuyên gia 7.4. Phương pháp trắc nghiệm. 7.5. Phương pháp phỏng vấn sâu 7.6. Phương pháp nghiên cứu chân dung 7.7. Phương pháp phân tích kết quả hoạt động 7.8. Phương pháp thống kê toán học. 3
  10. CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 1.1. TỔNG QUAN LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1.1. Nghiên cứu về giao tiếp 1.1.1.1. Nghiên cứu giao tiếp ở nước ngoài Giao tiếp là vấn đề được nhiều tác giả nghiên cứu trong khoa học nói chung và tâm lý học nói riêng. Trên bình diện triết học, từ thời cổ đại, nhà triết học Sôcơrat (470 - 399tr. CN) và Platôn (428 - 347 Tr. CN) đã coi đối thoại như là sự giao tiếp trí tuệ, phản ánh các mối quan hệ giữa con người với con người. Đây là tư tưởng đầu tiên, đơn giản về giao tiếp. - Thế kỷ XIX có nhiều nhà triết học đề cập đến vấn đề giao tiếp như Hegel (1770 - 1831); Feuerbach (1804 - 1872); Karl Marx (1818 - 1883). - Feuerbach đã viết: "Bản chất của con người chỉ thể hiện trong giao tiếp, trong sự thống nhất giữa con người với con người, dựa trên tính hiện thực của sự khác biệt giữa tôi và bạn" [ theo 5; 16]. - Trong "Bản thảo kinh tế triết học" 1884, Karl Marx đã có tư tưởng về nhu cầu xã hội giữa con người và con người. Trong hoạt động xã hội và tiêu dùng xã hội, con người phải giao lưu thực sự với người khác. Karl Marx đã thấy được nhu cầu giao tiếp giữa con người với con người trong xã hội có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của mỗi con người. Ông cho rằng: Thông qua giao tiếp với người khác mà con người có thái độ với bản thân mình, với người khác và giao tiếp với người khác là chiếc gương để mỗi người tự soi mình. Karl Marx đã dùng khái niệm "giao tiếp vật chất" để chỉ mối "quan hệ sản xuất thực tiễn của con người. Ông đã chỉ ra rằng sản xuất vật chất và tái sản xuất loài người buộc con người phải giao tiếp với nhau. Con người chỉ trở thành người khi nó có quan hệ hiện thực với người khác [theo 5; 16]. Trong một thời gian dài, giao tiếp chưa được nghiên cứu dưới góc độ khoa học tâm lí. Chỉ đến thế kỉ XX, giao tiếp mới được các nhà tâm lí học thật sự 4
  11. quan tâm. Hiện nay, có thể phân những công trình nghiên cứu giao tiếp thành hai dòng: nghiên cứu lí luận giao tiếp và nghiên cứu giao tiếp ứng dụng. Nhóm các nhà nghiên cứu giao tiếp ứng dụng nghiên cứu áp dụng tâm lí học giao tiếp vào trong các thể loại giao tiếp cụ thể trong các nhóm xã hội cụ thể. Các nghiên cứu lí luận giao tiếp có thể được phân theo hai hướng chính. Hướng thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về giao tiếp như: bản chất, cấu trúc giao tiếp, cơ chế giao tiếp .Hướng thứ hai, nghiên cứu giao tiếp trong các chuyên ngành tâm lý học.Trong hướng thứ nhất có thể quy vào ba quan điểm. Quan điểm thứ nhất coi giao tiếp là một loại hình của hoạt động, quan điểm thứ hai coi giao tiếp là một phạm trù độc lập với hoạt động, quan điểm thứ ba coi giao tiếp là quá trình truyền thông có điều khiển. Hướng thứ nhất: 1.1.1.1.1. Quan điểm coi giao tiếp là một dạng, một loại hình của hoạt động. Quan điểm này do A. N. Leonchev khởi xướng vào thập kỉ 30 của thế kỉ XX. Ông định nghĩa: “giao tiếp là một hệ thống những quá trình có mục đích, có động cơ bảo đảm sự tương tác giữa người này với người khác trong hoạt động tập thể, thực hiện các quan hệ xã hội và nhân cách, các hoạt động tâm lí và sử dụng những phương tiện đặc thù, trước hết là ngôn ngữ” [ 8; 345]. Theo A. N. Leonchev, giao tiếp là một dạng của hoạt động. Một dạng đặc biệt của hoạt động có đối tượng, có thể là phương thức và điều kiện của hoạt động có đối tượng, vì có cấu trúc và đầy đủ các đặc điểm cơ bản của hoạt động như tính chủ thể, tính đối tượng, tính mục đích và vận hành theo nguyên tắc gián tiếp. A.N. Leonchiev cho rằng hoạt động giao tiếp là hoạt động xã hội [8, 364] và được chia thành hai kiểu cơ bản: giao tiếp định hướng - đối tượng và giao tiếp "thuần tuý"[8, 356 -357]. Hoạt động giao tiếp “thuần tuý” phân thành hoạt động giao tiếp định hướng xã hội và hoạt động giao tiếp định hướng nhân cách. Trong hoạt động giao tiếp định hướng nhân cách có hai kiểu: hoạt động giao tiếp nói và hoạt động giao tiếp hình thức. 5
  12. Do không chỉ ra được định nghĩa chung cho chủ thể và khách thể của hoạt động giao tiếp [ 8; 364] ông đã đưa ra định nghĩa riêng cho chủ thể và đối tượng cho từng loại của hoạt động giao tiếp [ 8; 360 - 361]. Trong hoạt động giao tiếp định hướng - đối tượng, chủ thể và đối tượng của giao tiếp vẫn được giữ nguyên như trong các loại hình hoạt động khác. Trong hoạt động giao tiếp định hướng xã hội, đối tượng của hoạt động giao tiếp không phải là một con người hay một số người cụ thể mà là một tương tác còn chủ thể của hoạt động giao tiếp là cộng đồng (tập thể hay một nhóm người) [ 8; 354 - 355, 358 - 359]. Trong hoạt động giao tiếp định hướng nhân cách, chủ thể của hoạt động giao tiếp nói, tức là giao tiếp có liên quan với một tương tác có đối tượng nào đó - cũng như chủ thể của hoạt động giao tiếp định hướng xã hội - là nhóm (nhóm người) và đối tượng của hoạt động giao tiếp nói này là tương tác; chủ thể của hoạt động giao tiếp hình thức là một trong những người tham gia giao tiếp trong cương vị "thủ lĩnh" và đối tượng của kiểu giao tiếp hình thức này là quan hệ qua lại tâm lí giữa người này với người khác [8; 360 - 361]. Như vậy, theo quan điểm của A. N. Leonchev, không có tiêu chí chung trong việc xác định chủ thể và khách thể cho hoạt động giao tiếp mà phải phân loại hoạt động giao tiếp để xác định chủ thể và khách thể cụ thể cho từng trường hợp. 1.1.1.1.2. Quan điểm coi giao tiếp là phạm trù độc lập với phạm trù hoạt động. Đến thập kỉ 70 của thế kỉ XX, Lomov khởi xướng quan điểm coi giao tiếp là một phạm trù độc lập với hoạt động. Theo Lomov, giao tiếp là một quá trình đa chiều đồng chủ thể. Hoạt động và giao tiếp khác nhau về ý nghĩa xã hội của chúng. Bất kì một hoạt động nào cũng hướng đến cải tạo khách thể. Còn giao tiếp bảo đảm tổ chức mọi người cho hoạt động chung, bảo đảm sự liên hệ qua lại của mọi người. Giao tiếp và hoạt động tuy "khác nhau về chất" nhưng "gắn bó mật thiết với nhau"[16; 378]. "Chúng chuyển tiếp và chuyển hoá từ mặt này vào mặt kia" [16; 382]. "Giao tiếp có thể đóng vai trò là tiền đề, điều kiện, là yếu tố bên ngoài và bên trong của hoạt động và ngược lại" [16; 383]. Một trong những đặc trưng của giao tiếp là 6
  13. truyền thông tin. Nhưng sự truyền thông tin này là sự trao đổi các phản ánh tâm lí "tư liệu được truyền cho người khác vẫn còn lưu lại ở người đã truyền thông tin" [16; 391]. Theo Lomov, kết quả giao tiếp " liên quan đến tất cả các cá nhân tham gia giao tiếp nhưng ở những cá nhân khác nhau chúng có thể khác nhau về số lượng và chất lượng" [16; 378]. "Đôi khi thậm chí chỉ một thời gian giao tiếp ngắn ngủi với người này hoặc người khác (hoặc nhóm người) có ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lí cá nhân (chẳng hạn ảnh hưởng đến động cơ) nhiều hơn rất nhiều so với sự thực hiện lâu dài một hoạt động có đối tượng nào đó của người đó ". [16;382]. Như vậy, khi coi giao tiếp là phạm trù đồng đẳng với hoạt động, Lomov đã khắc phục được những lúng túng của các nhà tâm lí trường phái hoạt động trong việc xác định vai trò, đối tượng, động cơ, chiều hướng tác động và kết quả của giao tiếp như một loại hình hoạt động. Đồng thời, ông cũng mở ra được lĩnh vực nghiên cứu mới cho giao tiếp. Đó là tương tác liên nhân cách (tương tác đồng chủ thể) thông qua giao tiếp. Tuy nhiên, hạn chế của Lomov là ông không đánh giá đúng mức vai trò của các yếu tố văn hoá và tâm lí cá nhân 1.1.1.1.3. Quan điểm coi giao tiếp là quá trình truyền thông tin. - Hướng nghiên cứu giao tiếp theo mô hình điều khiển học lý luận thông tin, do Moles đưa ra vào năm 1971 dựa trên công trình nghiên cứu của Wiener (1947) về “Hệ thống phức hợp tự kiểm soát và giao tiếp ở động vật, máy móc”. Moles cho rằng giao tiếp đơn thuần là quá trình truyền thông tin. Theo ông thông tin không chỉ bao gồm ngôn ngữ nói và viết mà còn cả các mã và tín hiệu; giao tiếp là một quá trình phát và nhận tin; trao đổi thông tin có thể diễn ra trực tiếp hoặc gián tiếp. Cách xem xét giao tiếp này đã xem nhẹ yếu tố tích cực nhất trong giao tiếp đó là yếu tố con người với các yếu tố tâm lý cá nhân, văn hoá, xã hội, với tư cách là chủ thể giao tiếp – khách thể giao tiếp và mối liên hệ hai chiều, những tác động ảnh hưởng lẫn nhau trong giao tiếp giữa hai bên. Hướng thứ hai: nghiên cứu giao tiếp trong các chuyên ngành tâm lý học - Những chuyên khảo trong lĩnh vực này đi sâu nghiên cứu giao tiếp dưới góc độ chuyên ngành mà không quan tâm nhiều đến việc xác định định nghĩa 7
  14. thống nhất cho giao tiếp.Từ thập niên 70 của thế kỷ XX các nhà tâm lý học chuyên ngành đã nghiên cứu hai thể loại giao tiếp là giao tiếp ngôn ngữ và giao tiếp phi ngôn ngữ. - Các hướng nghiên cứu giao tiếp ngôn ngữ như: giao tiếp trong tâm lý học xã hội, giao tiếp trong tâm lý học quản lý, giao tiếp, giao tiếp sư phạm - Hướng nghiên cứu trong giao tiếp phi ngôn ngữ như nghiên cứu bản chất của giao tiếp phi ngôn ngữ; giao tiếp phi ngôn ngữ trong những nền văn hoá khác nhau, giao tiếp phi ngôn ngữ trong nghệ thuật - Tóm lại: Các quan điểm nghiên cứu trên đều có những lĩnh vực áp dụng riêng của mình. Trong luận văn này chúng tôi nghiên cứu về giao tiếp của người nghỉ hưu, phần lớn những trong quan hệ giao tiếp của NNH các đối tác đóng vai trò tương đối bình đẳng. Vì vậy, chúng tôi chọn quan điểm coi giao tiếp là một phạm trù đồng đẳng với phạm trù hoạt động của Lômôv làm quan điểm chỉ đạo. 1.1.1.2. Những nghiên cứu về giao tiếp ở Việt Nam. - Ở Việt Nam việc nghiên cứu giao tiếp cũng phát triển mạnh vào hai thập niên 80, 90 của thế kỷ XX. Càng về cuối thế kỷ, những công trình nghiên cứu về giao tiếp càng có ý nghĩa thực tiễn và mang tính ứng dụng rõ rệt, đặc biệt là đối với khoa học giáo dục. - Cuối năm 1981, Hội nghị khoa học “Hoạt động và giao tiếp” được Ban Tâm lý học thuộc Viện Triết học của Uỷ Ban Khoa học tổ chức. Hội nghị đã đề cập đến các vấn đề: Quan hệ giữa hoạt động và giao tiếp; vai trò, vị trí, ý nghĩa của giao tiếp trong sự hình thành tâm lý ý thức; hoạt động giao tiếp trong dạy học và giáo dục. - Lý luận về giao tiếp có nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu như: "Các Mác và phạm trù giao tiếp" của Đỗ Long, "Bàn về phạm trù giao tiếp" (1981) của Bùi Văn Huệ, "Giao tiếp, tâm lý, nhân cách" (1981), "Giao tiếp và sự phát triển nhân cách của trẻ" (1981) và "Nhập môn khoa học giao tiếp" (2006) của Trần Trọng Thủy. - Những nghiên cứu giao tiếp được đưa vào giáo trình tâm lý học của trường đại học, như: "Đặc điểm giao tiếp sư phạm" của Trần Trọng Thủy (1985) 8
  15. "Giao tiếp và ứng xử sư phạm" của Ngô Công Hoàn (1992) và "Giao tiếp sư phạm" của Ngô Công Hoàn - Hoàng Anh (1999). - Bên cạnh những công trình nghiên cứu lý luận chung về giao tiếp, nhiều tác giả đi sâu nghiên cứu về kỹ năng giao tiếp trong một số lĩnh vực hoạt động, nghề nghiệp như giao tiếp trong quản lý, giao tiếp trong kinh doanh, du lịch và kỹ năng giao tiếp sư phạm Các công trình nghiên cứu này chủ yếu tập trung phân tích các khía cạnh khác nhau của phạm trù giao tiếp và ảnh hưởng của chúng tới sự hình thành và phát triển nhân cách ở học sinh các lứa tuổi khác nhau, trong đó có sự tìm hiểu mối quan hệ qua lại giữa hoạt động chủ đạo và giao tiếp trong mỗi giai đoạn đó. Vấn đề giao tiếp còn được đề cập nghiên cứu trong một số luận án Tiến sỹ: - Nghiên cứu của Lê Xuân Hồng về "Một số đặc điểm giao tiếp của trẻ mẫu giáo trong nhóm chơi không cùng độ tuổi". Lê Xuân Hồng đã phát hiện ra sự khác biệt của đặc điểm giao tiếp của trẻ mẫu giáo trong nhóm chơi không cùng độ tuổi. Theo ông, tần số giao tiếp của trẻ trong nhóm chơi không cùng độ tuổi tăng rõ rệt. Nội dung giao tiếp cũng phong phú hơn theo độ tuổi và điều này là cần thiết cho sự phát triển tâm lý của trẻ. - Nghiên cứu của Nguyễn Liên Châu về "Một số đặc điểm giao tiếp của Hiệu trường trường Tiểu học". Theo Nguyễn Liên Châu đặc điểm giao tiếp được thể hiện trong nhu cầu giao tiếp, mục đích giao tiếp, nhận thức trong giao tiếp, các phẩm chất nhân cách trong giao tiếp, phong cách giao tiếp, kỹ năng giao tiếp, nội dung giao tiếp, hình thức giao tiếp, hiệu quả giao tiếp, trong đó nội dung giao tiếp là đặc điểm cơ bản nhất. - Nghiên cứu của Nguyễn Thị Thanh Hà về “ Giao tiếp của bác sỹ quân y với người bệnh trong khám chữa bệnh”. Theo Nguyễn Thị Thanh Hà giao tiếp này chịu ảnh hưởng của nghề nghiệp khá rõ rệt. Các thành tố có bản tạo nên giao tiếp tích cực của bác sỹ là: nhu cầu, động cơ, nhận thức, cảm xúc, tình cảm và ý chí. Môi trường là điều kiện bên ngoài để tạo nên tính tích cực giao tiếp của bác sỹ. Có thể thấy, các nghiên cứu trên đã đề cập đến các đặc điểm của giao tiếp ở các đối tượng, nghề nghiệp khác nhau. 9
  16. 1.1.2. Nghiên cứu về giao tiếp của ngƣời nghỉ hƣu 1.1.2.1. Nghiên cứu về giao tiếp của người nghỉ hưu ở nước ngoài - Ở nước ngoài các vấn đề về người tuổi nói chung, người nghỉ hưu nói riêng rất được quan tâm nghiên cứu. Các nghiên cứu ở các nước Âu, Mỹ trước đây cho thấy, vai trò của người cao tuổi trong gia đình và xã hội bị giảm sút nghiêm trọng. Thêm vào đó, do tuổi già sức yếu, năng lực hoạt động vật chất và tinh thần không còn năng động như trước nữa nên người cao tuổi luôn cảm thấy đời sống thiếu thốn, nhất là về mặt tinh thần. Xã hội công nghiệp hoá, hiện đại hoá đang làm mất đi chức năng vốn có của người cao tuổi, khiến cho họ không còn vai trò gì. Vì thế, khi kết thúc nhiệm vụ xã hội bằng việc nghỉ hưu, người cao tuổi luôn rơi vào tình trạng hụt hẫng và giảm sút nghiêm trọng về mặt tinh thần. Các nghiên cứu về người nghỉ hưu gần đây chủ yếu quan tâm vấn đề sức khoẻ, các trải nghiệm tâm lý của người nghỉ hưu, sự thích ứng với cuộc sống sau khi nghỉ hưu, việc sử dụng thời gian rảnh rỗi, các phúc lợi xã hội đối với người nghỉ hưu . Vấn đề giao tiếp của người nghỉ hưu hầu như chưa được nghiên cứu một cách riêng rẽ, nó thường được đề cập đan xen trong các nghiên cứu về người nghỉ hưu và người già. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu về người nghỉ hưu: - Herman J. Loether (1967) trong cuốn "Các vấn đề của tuổi già" có đề cập đến tình trạng khó xử của việc nghỉ hưu, việc điều chỉnh sau nghỉ hưu, những yếu tố liên quan đến việc điều chỉnh thành công sau nghỉ hưu và ý nghĩa của công việc đối với người nghỉ hưu. Trong đó chủ yếu đề cập đến ý nghĩa của công việc đối với người nghỉ hưu và các nhân tố có ảnh hưởng đến sự thích ứng với cuộc sống khi nghỉ hưu của họ [25]. 10
  17. - H.W. Opaschwski và U.Neubauert ( 1984) đã nghiên cứu 450 người đã về hưu (58 – 60 tuổi) và thấy có 3 phong cách sử dụng thời gian nhàn rỗi như sau: + Kiểu " thời gian tự do và hoạt động tích cực" (29%) + Kiểu " nghỉ ngơi và tĩnh dưỡng" (33%) + Kiểu " các vấn đề mâu thuẫn, xung đột'' (38%). - Theo W.Saup và Ph.Mayring, khác với những công trình nghiên cứu về tuổi già của những năm 50, 60 thế kỷ trước một số công trình ở Mỹ (E.Palmore et al, 1985) ở Châu Âu (ví dụ: C.Attias - Donfut, 1988; E.Bruckner và K.U.Mayer, 1987) cho thấy rằng trải nghiệm của những người về hưu là “tích cực” chứ không phải “tiêu cực”. - Nghiên cứu liên văn hoá của E.Olcay Imamoglu và các cộng sự ở trường Đại học Công nghệ Trung Đông (1993) về đặc điểm tâm lý của người nghỉ hưu, đánh giá của người nghỉ hưu về cuộc sống hiện tại của họ trong các mối quan hệ của bản thân, thái độ đối với tuổi già và cảm giác cô đơn. Khách thể nghiên cứu là 502 người Thụy Điển tuổi từ 60 đến 71 và 448 người Thổ Nhĩ Kỹ tuổi từ 55 đến 71. Kết quả nghiên cứu cho thấy người nghỉ hưu Thổ Nhĩ Kỳ, đặc biệt là nữ giới có quan hệ xã hội rộng hơn và có sự ảnh hưởng, tác động lẫn nhau hơn người Thụy Điển. Người Thổ Nhĩ Kỳ có thái độ tiêu cực hơn về tuổi già, cảm giác cô đơn của họ cũng cao hơn. Sự hài lòng với cuộc sống thấp hơn. Ý thức về bản thân ở người Thổ thấp hơn người Thụy Điển. Ở mỗi nước thì phụ nữ có cảm giác tiêu cực về tuổi già cao hơn nam giới. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng thái độ tích cực về tuổi già có mối liên quan với cảm giác cô đơn và hình ảnh về bản thân. Sự khác biệt về giới ở Thổ Nhĩ kỳ rõ rệt hơn. [ 24]. - Nghiên cứu năm 2006 của trường Đại học Chicago trên 3000 người nghỉ hưu ở Mỹ đã đưa ra kết quả như sau: + Nhìn nhận về tương lai:Phần lớn người nghỉ hưu ở Mỹ đều nhìn tương lai của họ với sự lạc quan (79,3%). Hầu hết (92,9%) đều hài lòng với những việc làm mà họ đang làm hiện tại. Nhiều người (68,9%) có tham gia hoạt động sôi nổi. Có đến 1/3 số người đựoc hỏi rất ít hoạt động (30,9%). 11
  18. + Về mức sống: 45,2% cho rằng mức sống vẫn như cũ; 33,8% mức sống được cải thiện; 12,9% cho biết mức sống có bị giảm đi. + Nghiên cứu cũng cho thấy, top 13 điều được coi là quan trọng nhất đối với người nghỉ hưu: Hoạt động với gia đình:90,7%; hoạt động với bạn bè: 82,9%; đọc sách: 81%; giải trí, luyện tập, rèn luyện: 75%; du lịch: 73,7%; nâng cao kiến thức, kỹ năng: 73,3%; làm công việc nhà: 65,6%; quan tâm sức sức khoẻ: 64%; dịch vụ cộng đồng: 63,7%; các sở thích: 62,8%; hoạt động cộng đồng, tôn giáo: 58,9%; nghệ thuật: 58,1%; chăm sóc các cháu: 57%. +Về giao tiếp của người nghỉ hưu: giao tiếp nhiều lần trong 1 ngày: 22,3%; giao tiếp 1 lần 1 ngày: 18,7%; vài lần 1 tuần: 44,3%; 1 lần 1 tuần: 9,2%; ít hơn 1 lần, 1 tuần: 5,6%. +Nghiên cứu cũng cho thấy, con đường tốt nhất để đến với người nghỉ hưu là: thông tin qua thư từ: 73,5%; hỏi bạn bè hoặc đồng nghiệp cũ: 67,5%; qua báo chí: 51,9%; thông tin qua thư điện tử hoặc internet: 47,1%; hỏi hàng xóm: 44,4%. - Nghiên cứu của Christine Price thuộc trường đại học Ohio, Mỹ (2006) “ Những yếu tố nghề nghiệp tác động trực tiếp đến phụ nữ khi nghỉ hưu” được tiến hành trên 30 phụ nữ nghỉ hưu ở Mỹ, một nửa trong số này thuộc nhóm làm việc chuyên nghiệp trước khi nghỉ hưu, một nửa làm việc không chuyên nghiệp. Kết quả nghiên cứu cho thấy người nghỉ hưu (NNH) ở cả hai nhóm phần lớn dành thời gian rảnh rỗi của họ vào các hoạt động tình nguyện và gia đình họ. Có sự khác nhau cơ bản giữa những NNH thuộc nhóm chuyên nghiệp và những NNH thuộc nhóm không chuyên nghiệp. Những NNH thuộc nhóm chuyên nghiệp có cảm giác mất đi một phần công việc của họ khi nghỉ hưu, vị trí xã hội bị giảm, tình bạn với các đồng nghiệp cũ cũng bị mất đi mặc dù họ vẫn giữ liên lạc với đồng nghiệp. Trong khi đó những NNH thuộc nhóm nghề nghiệp không chuyên nghiệp lại có cảm giác bớt căng thẳng khi nghỉ hưu, họ cảm thấy mình quan trọng và có trách nhiệm hơn trong công việc tình nguyện khi nghỉ hưu, họ không có cảm giác mất mát. Họ vẫn tiếp tục tình bạn với đồng nghiệp khi nghỉ 12
  19. hưu. Gia đình đều có ảnh hưởng quan trọng đến cả hai nhóm. Tuy nhiên ảnh hưởng của gia đình đến hai nhóm lại khác nhau. Trong khi những NNH thuộc nhóm không chuyên nghiệp dành nhiều thời gian chăm sóc các cháu, gia đình thì những NNH thuộc nhóm nghề nghiệp chuyên nghiệp lại ít thích hợp hơn với trách nhiệm gia đình, họ quan tâm hơn tới việc sử dụng trợ cấp lương hưu và chăm sóc sức khoẻ. Những người nghỉ hưu thuộc nhóm chuyên nghiệp bị lôi cuốn bởi các hoạt động cộng đồng có liên quan tới công việc trước đây họ đã làm thành thạo nhiều hơn nhóm không chuyên nghiệp (ví dụ giáo viên, bác sỹ ). - Jan Stewart và cộng sự ở trường Đại học Deakin (Úc) đang tiến hành nghiên cứu khoảng 150 người nghỉ hưu ở Úc, tuổi đời từ 50 đến 85 về tâm trạng của họ khi nghỉ hưu, các hoạt động yêu thích khi nghỉ hưu, việc sử dụng thời gian rảnh rỗi khi nghỉ hưu và các hỗ trợ xã hội của người nghỉ hưu. - Viện Xã hội học Mỹ kết hợp với Đại học Michigan (Mỹ) hàng năm đều có nghiên cứu tổng thể về người nghỉ hưu ở Mỹ về các vấn đề: sức khoẻ; nhà ở, mức sống, cấu trúc gia đình, công việc đang làm hiện nay, cảm giác hài lòng với cuộc sống hiện tại Và rất nhiều nghiên cứu khác, về các vấn đề khác nhau trong cuộc sống của người nghỉ hưu. 1.1.2.2. Những nghiên cứu về giao tiếp của người nghỉ hưu ở Việt Nam Ở Việt Nam, một thời gian dài do chiến tranh, đói nghèo, vấn đề người cao tuổi nói chung và người nghỉ hưu nói riêng ít được chú ý tới. Do thực tế đòi hỏi, thời gian gần đây, nhiều tổ chức xã hội, nhiều nhà khoa học đã lưu tâm đi vào nghiên cứu vấn đề người cao tuổi và người nghỉ hưu Mặc dù những nghiên cứu này chưa có tính hệ thống, song đó là cơ sở rất có giá trị cho việc đẩy mạnh nghiên cứu về người nghỉ hưu ở nước ta. Có thể kể ra một số công trình có nghiên cứu về người nghỉ hưu: - Nghiên cứu của Phạm Khuê và Nguyễn Đức Hinh, Nguyễn Khắc Viện năm 1984: “The years of retirement in Vietnam” đã phản ánh tình hình sức 13
  20. khoẻ, tâm lý của người nghỉ hưu ở Việt Nam những năm 80. Vấn đề luyện tập thể thao để nâng cao sức khoẻ cho người nghỉ hưu. - Viện xã hội học thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam với đề tài: “Người cao tuổi và an sinh xã hội” thực hiện trong hai năm 1991 đến 1992 đã nghiên cứu khá công phu về đời sống của người già ở nông thôn và thành thị nước ta từ góc độ xã hội học và hệ thống an sinh xã hội đối với người già (chủ yếu đi sâu vào lĩnh vực an sinh xã hội). Trong đó có đề cập đến những vấn đề đặt ra trong cuộc sống hàng ngày của người hưu trí như: tình hình nghề nghiệp; thu nhập, đời sống, sức khoẻ; tình hình nhà ở; vấn đề tham gia công tác xã hội sau nghỉ hưu của người nghỉ hưu; hệ thống an sinh xã hội đối với người nghỉ hưu, tâm trạng và nguyện vọng của người nghỉ hưu; một số phân tích qua về giao tiếp gia đình và xã hội của người nghỉ hưu. Một số nghiên cứu về người nghỉ hưu như: + Nghiên cứu của Đỗ Thịnh: “ Tuổi già, hưu trí và mất sức” cho thấy, đời sống tinh thần của người nghỉ hưu sau khi nghỉ hưu giảm sút so với trước. Người nghỉ hưu có đời sống khá khó khăn do lương hưu thấp. Để sống được khá hơn, họ phải tìm kiếm thu nhập bổ sung. + Nghiên cứu của Phùng Tố Hạnh: “ Giao tiếp xã hội và gia đình ở người cao tuổi” cho thấy giao tiếp của người nghỉ hưu chủ yếu tập trung vào các mối quan hệ gia đình và bè bạn – những nhóm phi chính thức hơn là những nhóm chính thức (các tổ chức xã hội). Việc tham gia vào các tỏ chức xã hội của người già có xu hướng giảm, các hình thức hoạt động nghèo nàn.Nghiên cứu cũng cho thấy, ở nơi nào có sự hỗ trợ của chính quyền địa phương thì ở đó số người già tham gia vào các tổ chức xã hội sẽ tăng. + Nghiên cứu của Mạc Văn Tiến: “ Đời sống người già trong hệ thống an sinh xã hội” từ kết quả khảo sát với 250 người nghỉ hưu ở Hà Nội và 100 người nghỉ hưu ở nông thôn Hà Bắc cho thấy, 40% số người nghỉ hưu được hỏi cho rằng cuộc sống tinh thần sau khi nghỉ hưu kém đi nhiều. Cũng như các cụ hưu trí thành thị, trong đời sống của các cụ già ở nông thôn, thu nhập thấp và sức khoẻ yếu là vấn đề đáng quan tâm hơn cả. Cùng với sự biến động về kinh tế, xã hội nói chung, ở nông thôn cũng đã xuất hiện những xu hướng các cụ già, đặc biệt là 14