Luận văn Giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_giao_ket_va_thuc_hien_hop_dong_dich_vu_phap_ly_tu_t.pdf
Nội dung text: Luận văn Giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐINH THÁI HOÀNG GIAO KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ PHÁP LÝ TỪ THỰC TIỄN TỈNH TÂY NINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội, năm 2018
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐINH THÁI HOÀNG GIAO KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ PHÁP LÝ TỪ THỰC TIỄN TỈNH TÂY NINH Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 8.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS BÙI ANH THỦY Hà Nội, năm 2018
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các trích dẫn trong luận văn dựa trên số liệu bảo đảm độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận văn Đinh Thái Hoàng
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG VÀ THỰC HIỆN DỊCH HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ PHÁP LÝ 6 1.1. Khái niệm và đặc điểm của dịch vụ pháp lý 6 1.1.1. Khái niệm về dịch vụ pháp lý 6 1.1.2. Đặc điểm của dịch vụ pháp lý 8 1.1.3. Phân loại dịch vụ pháp lý 9 1.2. Hợp đồng dịch vụ pháp lý 13 1.2.1. Khái niệm hợp đồng 13 1.2.2. Khái niệm hợp đồng dịch vụ pháp lý 14 1.2.3. Đặc điểm hợp đồng dịch vụ pháp lý 16 1.3. Giao kết hợp đồng dịch vụ pháp lý 17 1.3.1. Trình tự giao kết 17 1.3.2. Thời điểm giao kết, địa điểm giao kết hợp đồng 19 1.4. Thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý 20 1.4.1. Khái niệm 20 1.4.2. Thực hiện hợp đồng 20 1.4.3. Sửa đổi, bổ sung hợp đồng dịch vụ pháp lý 21 1.4.4. Chấm dứt hợp đồng dịch vụ pháp lý 21 Chương 2: THỰC TRẠNG GIAO KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ PHÁP LÝ TỪ THỰC TIỄN TỈNH TÂY NINH 25 2.1. Những đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Tây Ninh liên quan đến việc giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý 25 2.2. Thực tiễn giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý tại tỉnh Tây Ninh 27 2.2.1. Đối với dịch vụ pháp lý của luật sư 27 2.2.2. Đối với dịch vụ công chứng 44 2.2.3. Những ưu điểm, hạn chế và bất cập trong việc giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý 55
- Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIAO KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ PHÁP LÝ 64 3.1. Phương hướng chung nâng cao hiệu quả 64 3.2. Một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý 65 3.2.1. Đối với việc giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý của luật sư 66 3.2.2. Đối với việc giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý về công chứng 68 KẾT LUẬN 72 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT BLDS : Bộ luật Dân sự BLTTDS : Bộ luật tố tụng Dân sự BLTTHS : Bộ luật tố tụng Hình sự DVPL : Dịch vụ pháp lý DVPLK : Dịch vụ pháp lý khác ĐDNTT : Đại diện ngoài tố tụng HĐDVPL : Hợp đồng dịch vụ pháp lý LCC : Luật Công chứng LLS : Luật Luật sư LTTHC : Luật tố tụng hành chính SĐBS : Sửa đổi bổ sung TCHNCC : Tổ chức hành nghề công chứng TCHNLS : Tổ chức hành nghề luật sư TGTT : Tham gia tố tụng TVPL : Tư vấn pháp luật UBND : Ủy ban nhân dân
- DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1 Thống kê số lượng TCHNLS và luật sư qua các năm của tỉnh Tây Ninh 25 Bảng 2.2 Thống kê số lượng vụ, việc đã được Tòa án các cấp của tỉnh Tây Ninh giải quyết 26 Bảng 2.3 Số lượng TCHNCC và công chứng viên qua các năm của tỉnh Tây Ninh 27 Bảng 2.4 Thống kê số lượng vụ, việc luật sư đã thực hiện qua các năm tại tỉnh Tây Ninh 35 Bảng 2.5 Thống kê số lượng vụ việc TCHNCC đã thực hiện qua các năm tại tỉnh Tây Ninh 47
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nền kinh tế thị trường nước ta ngày càng được hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới. Sự liên kết về kinh tế và thương mại không chỉ diễn ra ở cấp độ song phương, đa phương mà đã có sự gắn kết toàn cầu. Với chủ trương đổi mới, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã đề ra đường lối, từng bước xây dựng và hoàn thiện thể chế, hoàn thiện pháp luật để phù hợp định hướng phát triển kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế. Kể từ khi đổi mới cho đến nay, các văn bản pháp luật với số lượng lớn đã được ban hành. Theo đó, các chủ thể tham gia vào nhiều giao dịch liên quan đến nhiều lĩnh vực không chỉ chịu sự điều chỉnh của pháp luật trong nước mà còn phải tuân thủ pháp luật quốc tế. Trong hoạt động của mình, việc các chủ thể không nắm bắt đầy đủ, không đồng bộ các quy định của pháp luật dẫn đến không ít các khó khăn, làm mất đi cơ hội hoặc bị những sai phạm thậm chí phải chịu những hậu quả pháp lý nặng nề. Do vậy, các tổ chức cá nhân rất cần sự an toàn về mặt pháp luật trong hoạt động của mình và ngày càng phát sinh nhu cầu có được sự trợ giúp pháp lý thường xuyên. Nhu cầu ấy của xã hội được đáp ứng thông qua các DVPL mà các chủ thể có đủ điều kiện được pháp luật cho phép cung ứng thông qua HĐDVPL. Liên quan đến DVPL và HĐDVPL đã có những công trình nghiên cứu ở lĩnh vực này ở các khía cạnh khác nhau. Việc giao kết và thực hiện HĐDVPL cũng đã được đề cập nhưng chưa được quan tâm một cách chi tiết. Tại tỉnh Tây Ninh, có nhiều tổ chức cung cấp DVPL nhưng việc giao kết và thực hiện HĐDVPL đã xảy ra nhiều bất cập, không thống nhất. Trong quá trình tiếp cận và thực hiện hoạt động nghề nghiệp tại địa phương, tác giả chưa tìm thấy công trình chuyên biệt nào về “Giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh”. Là người trực tiếp cung ứng và thực hiện một trong các loại hình DVPL, tác giả chọn đề tài này làm luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Về phương diện khoa học pháp lý, đã có một số công trình nghiên cứu đề cập tới các vấn đề, khía cạnh khác nhau của HĐDVPL, cụ thể như: 1
- - Luận án tiến sĩ “Hợp đồng dịch vụ pháp lý ở Việt Nam” của tác giả Hoàng Thị Vịnh, Hà Nội (2014) đã tiếp cận nghiên cứu pháp luật HĐDVPL dựa trên các nội dung cơ bản bao gồm: Các quy định về chủ thể, về nội dung, về thực hiện, về điều kiện có hiệu lực và tránh nhiệm do vi phạm HĐDVPL. Tác giả đã đưa ra những luận cứ logic để bước đầu xây dựng hệ thống lý luận về DVPL và thương mại DVPL cũng như thực tiễn về các quan hệ cung ứng DVPL, trên cơ sở đó luận án xây dựng hệ thống lý luận khoa học về pháp luật, đưa ra các luận cứ khoa học, tính tất yếu khách quan đối với việc thiết lập chế định pháp luật về HĐDVPL. Luận án cũng đánh giá mức độ phù hợp của pháp luật HĐDVPL với thực tiễn hoạt động DVPL đồng thời đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này. - Luận văn thạc sĩ luật học “Hợp đồng tư vấn pháp lý ở Việt Nam” Hà Nội (2015) của tác giả Nguyễn Mai Anh đã tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật về hợp đồng tư vấp pháp lý, xây dựng khái niệm về hợp đồng tư vấn pháp lý đối chiếu với thực tiễn và đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng tư vấn pháp lý. Xuất phát từ giới hạn về phạm vi nghiên cứu là tư vấn pháp lý là một loại hình DVPL của TCHNLS nên luận văn chưa nghiên cứu chung ở các loại hình DVPL về giao kết và thực hiện HĐDVPL. - Luận văn thạc sĩ luật học “Hợp đồng dịch vụ pháp lý giữa tổ chức hành nghề luật sư và doanh nghiệp từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” Hà Nội (2017) của tác giả Lê Bình Phương nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực trạng về HĐDVPL giữa TCHNLS và doanh nghiệp. Đề tài đã nghiên cứu sâu ở phạm vi chủ thể và pháp luật liên quan làm cơ sở để thực hiện đồng thời kiến nghị hoàn thiện pháp luật. Đề tài chưa nghiên cứu chi tiết về việc giao kết và thực hiện HĐDVPL giữa các bên. - Luận văn thạc sĩ luật học “Hợp đồng dịch vụ pháp lý trong hành nghề luật sư, một số vấn đề lý luận và thực tiễn” Hà Nội (2006) của tác giả Vũ Quỳnh Anh nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về HĐDVPL trong hành nghề luật sư và thực trạng áp dụng quy định pháp luật về loại hợp đồng này. Đây là đề tài khoa học có ý nghĩa về mặt lý luận và hoàn thiện pháp luật. Tuy nhiên, đề tài cũng chưa 2
- nghiên cứu cụ thể trong từng lĩnh vực thực hiện HĐDVPL để đưa ra những bất cập, hạn chế và tồn tại. - Luận văn thạc sĩ luật học “Pháp luật về dịch vụ luật sư ở Việt Nam hiện nay” Hà Nội (2015) của tác giả Trần Thị Bích Hạnh nghiên cứu DVPL của luật sư dưới góc độ một dịch vụ thương mại pháp lý, những vấn đề lý luận chung và pháp luật điều chỉnh về dịch vụ luật sư qua đó chỉ ra những điểm phù hợp, bất cập, hạn chế và định hướng, giải pháp để hoàn thiện pháp luật. Luận văn nghiên cứu pháp luật quy định chung nhất về dịch vụ luật sư có ý nghĩa để hoàn thiện pháp luật, tạo điều kiện để nâng cao hiệu quả dịch vụ luật sư. - Luận văn thạc sĩ luật học “Thực hiện pháp luật công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội” Hà Nội 2014 của tác giả Nguyễn Thanh Hà nghiên cứu và phân tích những tồn tại, bất cập của pháp luật công chứng và thực hiện pháp luật về công chứng để nâng cao hiệu quả hoạt động công chứng và đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này. Các đánh giá, phân tích và kiến nghị của luận chuyên sâu về công tác quản lý và thủ tục thực hiện dịch vụ công. Luận văn không nghiên cứu, phân tích đánh giá ở khía cạnh hợp đồng giữa TCHNCC và người yêu cầu công chứng. Nhìn chung, những công trình nêu trên đã nghiên cứu và tiếp cận DVPL và HĐDVPL ở các góc độ khác nhau, có công trình ở phạm vi khái quát tổng thể, có công trình phân tích chi tiết về DVPL với từng loại hình cụ thể. Tuy nhiên, chưa có công tình nào nghiên cứu chuyên sâu về việc giao kết và thực hiện HĐDVPL cũng như tương quan về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng trên cơ sở so sánh đối chiếu những vấn đề còn bất cập tồn tại từ thực tiễn hiện nay, đặc biệt là sự đối chiếu với các bộ luật, đạo luật mới, có sự điều chỉnh rất lớn, liên quan đến HĐDVPL như BLDS, BLTTDS, BLTTHS, BLTTHC. Đây chính là những vấn đề tác giả quan tâm nghiên cứu, phân tích, so sách và kiến nghị trong đề tài luận văn này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu 3
- Nhằm đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả về giao kết và thực hiện HĐDVPL đồng thời kiến nghị hoàn thiện pháp luật đối với loại hình hợp đồng này. 3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu - Tìm hiểu khái niệm, đặc điểm của việc giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý. - Tìm hiểu, phân tích và đánh giá thực trạng việc giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh. - Đưa ra phương hướng nhằm nâng cao hiệu quả về giao kết và thực hiện HĐDVPL. - Đưa ra một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về giao kết và thực hiện HĐDVPL. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy định pháp luật và thực trạng việc giao kết và thực hiện HĐDVPL từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu những vấn đề liên quan đến việc giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh có tính thương mại. Luận văn không nghiên cứu các nội dung liên quan khác không nhằm mục đích lợi nhuận. - Phạm vi nghiên cứu về thời gian được giới hạn từ năm 2012 đến năm 2017. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Cơ sở phương pháp luận xuyên suốt của luận văn là vận dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước về đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng như quan điểm cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế. 4
- 5.2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu đề tài bao gồm: Phương pháp tiếp cận, nghiên cứu tài liệu, thu thập thông tin, phương pháp phân tích, thống kê, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, hệ thống hóa, Các phương pháp này được sử dụng thích hợp, đan xen trong suốt quá trình thực hiện đề tài. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Thông qua việc nghiên cứu đề tài luận văn “Giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh”, tác giả muốn làm rõ, đưa ra những nhận định, đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành để thấy được những điểm bất cập, hạn chế trong việc áp dụng đối với việc giao kết và thực hiện HĐDVPL, từ đó đưa ra các giải pháp cần thiết, góp phần hoàn thiện những quy định của pháp luật về giao kết và thực hiện HĐDVPL, nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể khi tham gia giao kết và thực hiện HĐDVPL ở nước ta hiện nay. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về giao kết hợp đồng và thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý. Chương 2: Thực trạng giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh. Chương 3: Phương hướng và các giải pháp nâng cao hiệu quả giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý. 5
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG VÀ THỰC HIỆN DỊCH HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ PHÁP LÝ 1.1. Khái niệm và đặc điểm của dịch vụ pháp lý 1.1.1. Khái niệm về dịch vụ pháp lý 1.1.1.1. Khái niệm dịch vụ Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động cung ứng dịch vụ rất đa dạng, phong phú. Đó có thể là các dịch vụ sửa chữa hoặc các dịch vụ công cộng như cung ứng điện, nước, vệ sinh đô thị hoặc các dịch vụ hỗ trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh như ngân hàng, bảo hiểm, vận tải hoặc các dịch vụ mang tính nghề nghiệp chuyên môn cao như kiểm toán, tư vấn kiến trúc, bác sĩ, tư vấn pháp luật Tuy nhiên, hiện nay chưa có quy định pháp luật nào giải thích thế nào là dịch vụ mà chỉ được nêu khái quát chung ở một số văn bản pháp luật, chẳng hạn tại khoản 9 Điều 3, Luật Thương mại 2005 quy định “Cung ứng dịch vụ là hoạt động thương mại, theo đó một bên (sau đây gọi là bên cung ứng dịch vụ) có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ cho một bên khác và nhận thanh toán; bên sử dụng dịch vụ (sau đây gọi là khách hàng) có nghĩa vụ thanh toán cho bên cung ứng dịch vụ và sử dụng dịch vụ theo thỏa thuận”. Theo Từ điển Luật học của Viện Khoa học Pháp lý thì dịch vụ là: “Sản phẩm kinh tế gồm những công việc dưới dạng lao động thể lực, khả năng tổ chức, quản lí, kiến thức và kỹ năng chuyên môn nhằm phục vụ cho nhu cầu sản xuất kinh doanh hay sinh hoạt tiêu dùng của tổ chức, cá nhân.”[56, tr. 217] Dù là sản phẩm, hàng hóa hay dịch vụ thì cũng phải có mục đích mà con người hướng tới một cách tích cực và phải đều có sự kết tinh về sức lao động vào sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ đó. Để có một khái niệm ngắn gọn hơn, theo tác giả thì “Dịch vụ là một dạng hàng hóa vô hình mà bên cung ứng hay bên tiếp nhận cũng đều nhằm hướng đến những lợi ích nhất định” 1.1.1.2. Khái niệm dịch vụ pháp lý Dịch vụ pháp lý có đặc điểm khác biệt với các ngành dịch vụ thương mại khác đó là tính thương mại luôn gắn liền với pháp luật của một quốc gia hay thế 6
- giới nhằm đáp ứng nhu cầu của tổ chức, cá nhân nào đó. Hiện nay, trong các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam chưa có một quy định nào thể hiện thế nào là DVPL. Cụm từ “DVPL” được gắn với các cụm từ khác và được nằm rải rác trong các văn bản quy phạm pháp luật. DVPL được coi là một loại dịch vụ mang tính thương mại, người cung cấp DVPL nhằm mục đích thu lợi và được coi như một nghề. Người sử dụng DVPL được thỏa mãn những yêu cầu hiểu biết hay công việc cụ thể và phải trả phí (giá) dịch vụ cho người cung cấp. Theo Từ điển Luật học của Viện Khoa học Pháp lý thì DVPL là: “Loại hình dịch vụ do tổ chức, cá nhân có hiểu biết, có kiến thức và chuyên môn pháp luật được Nhà nước tổ chức hoặc cho phép hành nghề thực hiện, nhằm đáp ứng nhu cầu được biết, được tư vấn hoặc được giúp đỡ về mặt pháp lý của các tổ chức cá nhân trong xã hội” [56, tr. 218] Theo tác giả Hoàng Thị Vịnh (2014) thì đa số các nghiên cứu về DVPL tại Việt Nam đều tiếp cận DVPL dưới góc độ thương mại và cho đến nay chưa có một khái niệm hoàn chỉnh về DVPL. Quan điểm của tác giả Vịnh cho rằng: “DVPL là loại hình dịch vụ gắn liền với pháp luật do nhà nước hoặc các tổ chức hành nghề cung ứng DVPL thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu về pháp lý của tổ chức, cá nhân”.[57, tr.28] Tác giả nhận thấy hiện nay các DVPL luôn gắn liền với pháp luật, nếu nhà nước cung ứng DVPL thì sẽ thông qua các đơn vị mà mình thành lập chẳng hạn như Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước cung ứng DVPL miễn phí cho các đối tượng theo quy định của pháp luật hay các Phòng công chứng là một đơn vị sự nghiệp thuộc Sở Tư pháp mà không phải là cơ quan nhà nước có chức năng cung ứng dịch vụ liên quan đến công chứng. Các tổ chức tư cung ứng DVPL như TCHNLS, các Trung tâm trọng tài thương mại, các tổ chức Thừa phát lại hay các Trung tâm TVPL cũng mang tính tổ chức xã hội nghề nghiệp. Mặt khác, hiện nay theo quy định của LLS thì luật sư được hành nghề với tư cách cá nhân. Do vậy, tác giả tiếp cận DVPL như sau: “DVPL là loại hình dịch vụ gắn liền với pháp luật do tổ chức, cá nhân đáp ứng điều kiện hành nghề thực hiện cung ứng DVPL nhằm đáp ứng nhu cầu về pháp lý của các chủ thể khác”. 7
- 1.1.2. Đặc điểm của dịch vụ pháp lý Dịch vụ pháp lý là hoạt động rất đặc thù so với các loại dịch vụ thông thường khác, các đặc điểm nổi bật được thể hiện: 1.1.2.1. Dịch vụ pháp lý luôn gắn liền với pháp luật Dịch vụ pháp lý là loại hình dịch vụ có liên quan đến lĩnh vực pháp luật mà bên cung ứng dịch vụ thực hiện cho khách hàng một hoạt động cụ thể có liên quan đến pháp luật nhằm mục đích kiếm lời. Tuy nhiên cần phải nhấn mạnh thêm là ngoài mục đích tìm kiếm lợi nhuận thì đặc điểm nổi bật so với các dịch vụ khác là luôn gắn liền với pháp luật. 1.1.2.2. Cung cấp vụ pháp lý là hình thức kinh doanh có điều kiện Bên cung ứng DVPL phải là tổ chức hoặc cá nhân hành nghề phải có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật. Để được cung ứng DVPL trên thị trường và ký kết HĐDVPL thì chủ thể cung ứng phải đáp ứng điều kiện theo quy định và được phép có quyền cung ứng loại dịch vụ này. Nếu cung cấp DVPL với tư cách tổ chức thì chủ thể này phải được thành lập hợp pháp và có điều kiện là cá nhân thuộc tổ chức ấy đáp ứng theo quy định về điều kiện kinh doanh. Nếu hành nghề với tư cách cá nhân thì chủ thể này ngoài việc đáp ứng về chứng chỉ hành nghề thì còn phải thực hiện việc đăng ký theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, một đặc điểm nổi bật là khi đã đăng ký kinh doanh hay còn gọi là đăng ký hoạt động thì chủ thể cung ứng DVPL không được đăng ký thêm bất kỳ loại hình dịch vụ hay ngành nghề nào khác. 1.1.2.3. Dịch vụ pháp lý không định lượng cụ thể hóa được chất lượng dịch vụ Dịch vụ pháp lý mang những đặc điểm riêng biệt đó là những công việc phải thực hiện nhưng kết quả mang tính vô hình, khó tiêu chuẩn hóa, không thể phân chia. Việc không có thước đo về chất lượng DVPL mà chỉ là sự mẫn cán của người trực tiếp thực hiện DVPL dẫn đến mỗi tổ chức, cá nhân phải luôn phấn đấu để uy tín và thương hiệu của mình ngày càng được củng cố để khẳng định sự tận tâm, nhiệt huyết để đạt được hiệu quả công việc của bên cung cấp DVPL đối với khách hàng. 8
- 1.1.3. Phân loại dịch vụ pháp lý Có nhiều tiêu chí để phân loại DVPL nhưng chủ yếu được phân chia thành ba loại, bao gồm: Theo nhà cung cấp DVPL; theo loại chuyên gia thực hiện DVPL; theo nội dung DVPL. Trong phạm vi tiếp cận của luận văn với mục đích nghiên cứu những vấn đề liên quan đến giao kết và thực hiện HĐDVPL, người viết thực hiện phân loại DVPL theo chủ thể cung cấp dịch vụ. 1.1.3.1. Dịch vụ pháp lý của luật sư Hoạt động DVPL ở Việt Nam vào thời điểm trước năm 1987 là rất ít và chưa trở thành một nhu cầu của xã hội và cũng chưa được coi trọng là một loại hình dịch vụ có tiềm năng. Với đường lối đổi mới và phát triển kinh tế thị trường thì không chỉ kinh tế hàng hóa mà kinh doanh dịch vụ cũng được khuyến khích và phát triển trong đó có DVPL. Tại Điều 2 LLS năm 2006 thì “Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật này, thực hiện DVPL theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức”. Quy định này cho thấy nghề luật sư mang tính thương mại đó là thực hiện DVPL theo yêu cầu của các chủ thể khác. Tuy nhiên, nghề luật sư là một nghề đặc biệt mà các luật sư bằng kiến thức pháp luật của mình cùng với kỹ năng, kinh nghiệm độc lập thực hiện các hoạt động trong phạm vi hành nghề theo quy định của pháp luật và Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam nhằm mục đích bảo vệ công lý, bảo vệ quyền lợi hợp pháp một cách tốt nhất cho khách hàng. DVPL của luật sư cũng rất đa dạng và được phân chia thành các loại khác nhau. Theo Điều 4 LLS năm 2006 thì “DVPL của luật sư bao gồm TGTT, TVPL, ĐDNTT cho khách hàng và các DVPLK”. 1.1.3.2. Dịch vụ pháp lý của tổ chức hành nghề công chứng Đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội, ngày 27/02/1991, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ban hành hành NĐ số 45/HĐBT về tổ chức và hoạt động của công chứng nhà nước. Đây là văn bản pháp lý đầu tiên về lĩnh vực công chứng, theo đó tại Điều 1 văn bản này đã xác định: “Công chứng Nhà nước là việc chứng nhận tính xác thực các hợp đồng và giấy tờ theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ 9
- chức xã hội (sau đây gọi chung là các tổ chức), góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa; các hợp đồng và giấy tờ đã được công chứng có giá trị chứng cứ”. Như vậy, ngay từ điều đầu tiên và văn bản pháp lý đầu tiên về lĩnh vực công chứng đã xác định công chứng là để bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ thể tham gia giao dịch đồng thời là chứng cứ khi các hợp đồng giao dịch được công chứng trong các trường hợp có tranh chấp xảy ra. Đồng thời tại Điều 8, NĐ 45/HĐBT cũng quy định “Khi yêu cầu công chứng, công dân và các tổ chức phải nộp lệ phí công chứng”. Tại thời điểm này, mặc dù chỉ Nhà nước mới có thẩm quyền công chứng nhưng khi bất kỳ chủ thể nào yêu cầu công chứng cũng phải trả một khoản phí theo quy định. Vậy là mặc dù rất mới mẻ nhưng ngay từ đầu, nhà nước cũng đã xác định công chứng là một loại hình dịch vụ do mình cung cấp cho nhu cầu của xã hội. Ngày 18/6/1996, Chính phủ ban hành NĐ số 31/CP; ngày 08/12/2000, Chính phủ ban hành NĐ số 75/2000/NĐ-CP cũng đều là văn bản hoàn thiện pháp luật về công chứng và chứng thực trong từng thời kỳ cho phù hợp với nhu cầu của xã hội. Ngày 29/11/2006, Quốc hội khóa XI đã thông qua LCC số 82/2006/QH11. Đây là văn bản luật đầu tiên về công chứng cho phép thành lập Văn phòng công chứng hay còn gọi là công chứng tư tồn tại song song với Phòng công chứng. Quy định này thể hiện quan điểm công chứng là một dịch vụ. 1.1.3.3. Dịch vụ pháp lý của Trung tâm tư vấn pháp luật Ngày 24/12/1987, Bộ Tư pháp ban hành Thông tư số 1119/TTQLTPK về công tác DVPL đã quy định chỉ có cơ quan Nhà nước, tổ chức đoàn thể xã hội từ cấp huyện trở lên mới được phép tổ chức hoạt động DVPL, tư nhân không được phép lập cơ sở DVPL. Ngày 29/9/1995, Thủ tướng Chính phủ có Chỉ thị số 620- TTg về việc tăng cường quản lý hoạt động tư vấn pháp luật. Cùng với Thông tư số 1119/TTQLTPK của Bộ Tư pháp thì đây là hai văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực thi hành đến khi Chính phủ ban NĐ số 65/2003/NĐ-CP ngày 11/6/2006 để thay thế. Ngày 16/7/2008, Chính phủ ban hành NĐ số 77/2008/NĐ-CP “Về Tư vấn pháp luật” để thay thế NĐ 65/2003/NĐ-CP. Tại Điều 7 của NĐ này quy định: 10
- “Hoạt động TVPL quy định tại NĐ này mang tính chất xã hội, không nhằm mục đích thu lợi nhuận” và phạm vi hoạt động của Trung tâm TVPL cũng mở rộng hơn: “1. Trung tâm TVPL được thực hiện TVPL; được cử luật sư làm việc theo hợp đồng cho Trung tâm TGTT để bào chữa, đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức yêu cầu TVPL đối với vụ việc mà Trung tâm thực hiện TVPL; được thực hiện trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý. 2. Trung tâm TVPL được nhận và thực hiện vụ việc trong tất cả các lĩnh vực pháp luật” Như vậy, nếu xét ở mức độ tương quan thì Trung tâm tư vấn pháp luật được cung ứng DVPL tương đương như DVPL của luật sư. 1.1.3.4. Dịch vụ pháp lý của tổ chức hành nghề Thừa phát lại Thừa phát lại là thực hiện các công việc theo yêu cầu của khách hàng hoặc Tòa án trong phạm vi nhiệm vụ được pháp luật quy định. Mục đích của Thừa phát lại là nhằm phục vụ công lý, phục vụ hoạt động tư pháp nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân trong xã hội. Theo yêu cầu của công cuộc cải cách hành chính, cải cách tư pháp góp phần làm cho nền hành chính tư pháp theo sát và đáp ứng tốt hơn sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và dân chủ hóa đời sống xã hội, chế định Thừa phát lại được nghiên cứu để thực hiện, việc thí điểm chế định thừa phát lại có thể nói là một giải pháp mang tính đột phá nhằm chủ trương xã hội hóa một số hoạt động tư pháp đã được Đảng, Nhà nước đề ra trong những năm qua. Đặc biệt, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định rõ: “Nghiên cứu thực hiện và phát triển các loại hình dịch vụ từ phía nhà nước để tạo điều kiện cho các đương sự chủ động thu thập chứng cứ chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình” và “Nghiên cứu chế định thừa phát lại (thừa hành viên); trước mắt, có thể tổ chức thí điểm tại một số địa phương, sau vài năm, trên cơ sở tổng kết, đánh giá thực tiễn sẽ có bước đi tiếp theo”. Thể chế hóa chủ trương của Đảng, ngày 14/11/2008 Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 24/2008/QH12 về thi hành Luật Thi hành án dân sự, trong đó quy định việc thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại. Ngày 24/7/2009, Chính phủ đã 11
- ban hành NĐ số 61/2009/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh. Sau ba năm thực hiện với những kết quả tích cực đã đạt được, căn cứ vào Nghị quyết số 36/2012/QH13 của Quốc hội về việc tiếp tục thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại. Tại Điều 3 NĐ số 61/2009/NĐ-CP quy định công việc Thừa phát lại được làm: “Thực hiện việc tống đạt theo yêu cầu của Tòa án hoặc Cơ quan thi hành án dân sự; Lập vi bằng theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức; Xác minh điều kiện thi hành án theo yêu cầu của đương sự; Trực tiếp tổ chức thi hành án các bản án, quyết định của Tòa án theo yêu cầu của đương sự ”. Khi cung ứng dịch vụ pháp lý của mình cho khách hàng Thừa phát lại được thu phí theo thỏa thuận, tại khoản 1 Điều 7 NĐ số 61/2009/NĐ-CP quy định: “Chi phí thực hiện công việc của Thừa phát lại phải được ghi nhận trong hợp đồng giữa văn phòng Thừa phát lại và người yêu cầu”. 1.1.3.5. Dịch vụ pháp lý của trọng tài thương mại Trọng tài thương mại là một khái niệm đã xuất hiện từ lâu và ngày càng phổ biến trong đời sống kinh tế ở khắp nơi trên thế giới. Từ những năm 1990, Việt Nam phát triển kinh tế thị trường, mở rộng giao lưu thương mại với nhiều quốc gia trên thế giới, các doanh nghiệp Việt Nam có nhiều cơ hội giao dịch thương mại với các đối tác nước ngoài nên đã làm quen và sử dụng phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài nhiều hơn trước. Mặc dù vậy, với tốc độ phát triển như hiện nay của kinh tế thị trường, giới luật gia quốc tế và trong nước đều cho rằng giải quyết tranh chấp thương mại qua Trọng tài thương mại là một phương thức có nhiều ưu điểm, ngày càng ưa chuộng và phát triển. Tại Điều 3 Luật Trọng tài thương mại số 54/2010/QH12 quy đinh: “Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và được tiến hành theo quy định của Luật này”. Khi các bên thực hiện yêu cầu thì: “Phí trọng tài là khoản thu từ việc cung cấp dịch vụ giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài ” (Điều 34 Luật Trọng tài Thương mại 2010). Như vậy, DVPL của Trọng tài thương mại cũng là một loại hình DVPL. 12
- Tóm lại: Như đã trình bày ở Phần mở đầu, Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu những vấn đề liên quan đến việc giao kết và thực hiện HĐDVPL từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh có tính thương mại. Luận văn không nghiên cứu các nội dung liên quan khác không nhằm mục đích lợi nhuận nên DVPL của Trung tâm tư vấn pháp luật chỉ dừng lại ở phạm vi phân loại để phân biệt các loại DVPL. Mặt khác, tại địa bàn tỉnh Tây Ninh chưa có tổ chức hành nghề thừa phát lại cũng như Trung tâm trọng tài nên người viết tập trung nghiên cứu các DVPL mà địa phương đang thực hiện ở các phần sau bao gồm: DVPL của luật sư và DVPL của TCHNCC. 1.2. Hợp đồng dịch vụ pháp lý 1.2.1. Khái niệm hợp đồng 1.2.1.1. Khái niệm Để triển khai các hoạt động của mình, dù với mục đích kinh doanh hay sinh hoạt tiêu dùng, các tổ chức, cá nhân phải thường xuyên ký kết và thực hiện hợp đồng với nhau. Hợp đồng là thuật ngữ pháp lý được sử dụng để chỉ các giao dịch dân sự thông qua việc thỏa thuận để chuyển giao lợi ích giữa các cá nhân, tổ chức với nhau trong lĩnh vực luật tư mà trước đây thường được gọi là “văn tự”, “văn khế” “khế ước” hay “giao kèo” Năm 1989, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ra đời và đến năm 1991 thì Pháp lệnh hợp đồng dân sự được ban hành. Theo đó, về mặt pháp lý hợp đồng dân sự là một bộ phận các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình trao đổi các lợi ích giữa các chủ thể với nhau. Về mặt ý chí, hợp đồng dân sự là một loại giao dịch dân sự mà các bên tự do thỏa thuận với nhau làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ nhất định. Hợp đồng là một loại giao dịch dân sự làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia. Điều 388 BLDS năm 2005 quy định: “Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”; Điều 385 BLDS năm 2015 quy định: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Theo tác giả, định nghĩa hợp đồng theo BLDS năm 2015 là phù hợp, so với BLDS năm 2005 thì đã bỏ cụm từ “dân sự” sau “hợp đồng”. Tuy ngắn gọn nhưng định nghĩa này phản ánh đầy đủ các dấu hiệu pháp lý cơ bản của hợp đồng, thể hiện đúng đầy đủ bản chất của hợp đồng. 13
- 1.2.1.2. Phân loại hợp đồng Quan hệ hợp đồng trong thực tế rất đa dạng và phong phú, việc phân loại hợp đồng theo từng nhóm phải dựa vào những dấu hiệu đặc trưng, do vậy người ta có thể phân loại hợp đồng theo các tiêu chí khác nhau: - Căn cứ vào nội dung cụ thể: Có thể chia hợp đồng thành các loại riêng như: hợp đồng mua bán, hợp đồng trao đổi hàng hóa, hợp đồng tặng cho tài sản, hợp đồng gia công, hợp đồng dịch vụ Nếu liệt kê theo nội dung thì không thể cụ thể hết các loại hợp đồng theo từng lĩnh vực. - Căn cứ vào thời điểm phát sinh nghĩa vụ của các bên: Hợp đồng được chia thành hợp đồng ưng thuận và hợp đồng thực tế. - Căn cứ vào mối liên hệ về quyền và nghĩa vụ giữa các bên: Hợp đồng được chia thành hợp đồng song vụ và hợp đồng đơn vụ. - Căn cứ vào tính chất có đi có lại: Hợp đồng được chia thành hợp đồng có tính chất đền bù và hợp đồng không mang tính chất đền bù. - Căn cứ vào tính phụ thuộc lẫn nhau về hiệu lực của: Hợp đồng được chia thành hợp đồng chính và hợp đồng phụ. Ngoài những cách phân loại trên thì căn cứ vào hình thức của hợp đồng mà chia thành hợp đồng bằng lời nói, hợp đồng văn bản, hợp đồng có công chứng, chứng thực hoặc có thể chia thành hợp đồng có điều kiện, hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba, hợp đồng kinh tế, hợp đồng dân sự. 1.2.2. Khái niệm hợp đồng dịch vụ pháp lý 1.2.2.1. Hợp đồng dịch vụ Theo quy định tại Điều 513 BLDS năm 2015 quy định: “Hợp đồng dịch vụ là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cung ứng dịch vụ thực hiện công việc cho bên thuê dịch vụ, còn bên thuê dịch vụ trả tiền dịch vụ cho bên cung ứng dịch vụ”. Như vậy, BLDS năm 2015 đã thay cụm từ “bên sử dụng dịch vụ” cho cụm từ “bên thuê dịch vụ” của Điều 518 BLSD năm 2005. Tác giả cho rằng sự thay đổi này là phù hợp vì nó thể hiện sự tương quan về mục đích mà các bên hướng tới trong hợp đồng. Với khái niệm đã được quy định như trên thì HĐDV là một loại hợp đồng thông dụng, đối tượng của HĐDV phải là công việc có thể thực hiện được, không bị pháp luật cấm, không trái đạo đức xã hội. 14