Luận văn Giao kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ và vấn đề vô hiệu của hợp đồng
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Giao kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ và vấn đề vô hiệu của hợp đồng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_giao_ket_hop_dong_bao_hiem_nhan_tho_va_van_de_vo_hi.pdf
Nội dung text: Luận văn Giao kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ và vấn đề vô hiệu của hợp đồng
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ PHƢƠNG THẢO GIAO KẾT HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM NHÂN THỌ VÀ VẤN ĐỀ VÔ HIỆU CỦA HỢP ĐỒNG Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS Nguyễn Thị Lan Hƣơng Hà Nội - 2012
- MỤC LỤC LUẬN VĂN DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT II PHẦN MỞ ĐẦU 1 CHƢƠNG 1 KHÁI QUÁT VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM NHÂN THỌ 6 1.1. Một số vấn đề cơ bản về Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ 6 1.1.1. Khái niệm bảo hiểm nhân thọ 6 1.1.2. Các loại hình bảo hiểm nhân thọ 8 1.1.3. Giao dịch bảo hiểm nhân thọ 12 1.1.4. Đặc trưng cơ bản của Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ 12 1.1.5. Hình thức hợp đồng bảo hiểm nhân thọ 16 1.1.6. Nội dung hợp đồng BHNT 18 1.2. Một số vấn đề cơ bản về Giao dịch dân sự vô hiệu 19 1.2.1. Khái niệm giao dịch dân sự vô hiệu 19 1.2.2. Phân loại giao dịch dân sự vô hiệu 24 1.2.3. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu 34 1.3. Cơ sở pháp lý về Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ và hợp đồng bảo hiểm nhân thọ vô hiệu 35 CHƢƠNG 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM NHÂN THỌ VÀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM NHÂN THỌ VÔ HIỆU 37 2.1. Giao kết Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ 37 2.1.1. Nguyên tắc giao kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ 37 2.1.2. Chủ thể trong giao kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ 43 2.1.3. Quy trình giao kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ 52 2.1.4. Hậu quả pháp lý của việc giao kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ 69 2.1.5. Bảo vệ quyền lợi của Bên mua bảo hiểm, Người được bảo hiểm và Người thụ hưởng 77 2.1.6. Kiểm soát giao dịch trục lợi bảo hiểm 80 2.2. Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ vô hiệu và vấn đề hạn chế tình trạng hợp đồng bảo hiểm nhân thọ vô hiệu từ góc độ giao kết hợp đồng 84 2.2.1. Quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm 84 2.2.2. Một số trường hợp hợp đồng BHNT vô hiệu khác 92 2.2.3. Thẩm quyền tuyên bố hợp đồng BHNT vô hiệu 100 2.2.4. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng BHNT vô hiệu 100 CHƢƠNG 3 ĐỊNH HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 102 3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật 102 3.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật kinh doanh bảo hiểm 104 3.2.1. Về giao kết hợp đồng BHNT 104 3.2.2. Về hợp đồng BHNT vô hiệu 112 PHẦN KẾT LUẬN 117 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO A I
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 1. “BHNT” Bảo hiểm nhân thọ 1. “BMBH” Bên mua bảo hiểm 2. “DNBH” Doanh nghiệp bảo hiểm 2. “NĐBH” Người được bảo hiểm 3. “LKDBH 2000” Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 của Việt Nam được ban hành vào ngày 9/12/2000 4. “LKDBH 2010” Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm của Việt Nam được ban hành vào ngày 24/11/2010 II
- PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Bảo hiểm là một phương thức hữu hiệu để đối phó với rủi ro trong cuộc sống; hoạt động bảo hiểm vừa có ý nghĩa kinh tế, vừa có ý nghĩa xã hội. Riêng đối với BHNT, do (i) vừa mang tính tiết kiệm vừa mang tính rủi ro (ii) đồng thời đáp ứng được nhiều mục đích khác nhau của nên ngày càng có nhiều người quan tâm và mong muốn tham gia loại hình bảo hiểm này. Thị trường BHNT Việt Nam, mặc dù không còn trong giai đoạn tăng trưởng phi mã của những ngày đầu tiên nhưng là một thị trường còn nhiều tiềm năng do tỷ lệ dân số trẻ cao hàng đầu thế giới, hơn 54% nằm trong độ tuổi dưới 30 và thu nhập bình quân đầu người ngày càng được nâng cao. Số lượng các giao dịch BHNT sẽ ngày càng gia tăng. Cho đến nay, trên thị trường BHNT Việt Nam đã có 600 sản phẩm BHNT khác nhau với khoảng 15 nhà cung cấp nội và ngoại. Hơn nữa, xu hướng của những năm gần đây là: số lượng các hợp đồng có số tiền bảo hiểm lớn, thời hạn dài hơn đang thay thế các loại sản phẩm có thời hạn ngắn, số tiền bảo hiểm thấp. Giai đoạn giao kết hợp đồng là giai đoạn đầu tiên, có ý nghĩa vô cùng quan trọng và ảnh hưởng đến giá trị pháp lý của hợp đồng. Giai đoạn giao kết hợp đồng BHNT chịu tác động bởi một số đặc điểm của loại hợp đồng này, cụ thể như sau: - Hợp đồng bảo hiểm là hợp đồng gia nhập với điều khoản sản phẩm được soạn sẵn. Hơn thế nữa, ngoài hình thức trực tiếp và đấu thầu, các doanh nghiệp bảo hiểm thường xuyên bán bảo hiểm thông qua hình thức đại lý bảo hiểm hoặc/ và môi giới bảo hiểm. Việc giao kết hợp đồng thông qua trung gian không đơn giản như hình thức giao kết trực tiếp và làm phát sinh nhiều vấn đề liên quan đến hiệu lực pháp lý của hợp đồng. - Trong khi đó, hợp đồng BHNT là loại hợp đồng đa dạng và phức tạp hơn so với các loại hợp đồng bảo hiểm thương mại khác. Tính đa dạng và phức tạp thể hiện ở ngay ở các sản phẩm của nó. Mỗi sản phẩm có nhiều loại hợp đồng khác nhau dựa theo thời gian; mỗi hợp đồng lại có các điều kiện khác nhau như tuổi người được 1
- bảo hiểm, số tiền bảo hiểm, phương thức đóng phí . Quá trình xác định phí BHNT khá phức tạp do sự tác động của tổng hợp nhiều yếu tố trong đó có những yếu tố phải giả định (tỷ lệ chết, tỷ lệ huỷ hỏ hợp đồng, tỷ lệ lạm phát, lãi suất đầu tư ). Chính vì thế, điều khoản của hợp đồng BHNT không đơn giản và dễ hiểu đối với nhiều người. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình đàm phán, giao kết hợp đồng BHNT. Việc giao kết hợp đồng BHNT và hậu quả hợp đồng BHNT vô hiệu có mối liên hệ đặc biệt với nhau. Việc giao kết hợp đồng BHNT hoặc (i) làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên hoặc (ii) hoặc khiến hợp đồng vô hiệu ngay từ khi giao kết. Sự vô hiệu được xác định ngay từ thời điểm xác lập hợp đồng, kể cả trường hợp hợp đồng đã và đang được thực hiện. Một hợp đồng bảo hiểm bị vô hiệu thực chất là hợp đồng không được pháp luật thừa nhận do đã có sự vi phạm pháp luật trong việc ký kết hợp đồng. Hậu quả pháp lý của HĐBH vô hiệu là không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên kể từ thời điểm xác lập (thời điểm giao kết). Trên thực tế, vẫn còn tồn tại phổ biến một số tình trạng như sau trong giai đoạn giao kết hợp đồng BHNT: + Đại lý bán sản phẩm vi phạm các nguyên tắc đàm phán và giao kết: (i) không tư vấn, giải thích đầy đủ các thông tin về sản phẩm BHNT cho Bên mua bảo hiểm hoặc (ii) tác động đến Bên mua bảo hiểm cung cấp sai lệch hoặc không cung cấp các thông tin cần thiết cho doanh nghiệp bảo hiểm; + Doanh nghiệp bảo hiểm không có khả năng và biện pháp quản lý, giám sát hiệu quả quá trình khai thác và giao kết hợp đồng; do đó thụ động trước những phản ứng từ phía khách hàng và đại lý về hoàn cảnh giao kết hợp đồng. Doanh nghiệp bảo hiểm phải đối mặt với những rủi ro bất đắc dĩ do chưa kiểm soát hiệu quả chất lượng hoạt động của đại lý: (i) về tài chính: hoàn lại cho Bên mua bảo hiểm tổng số phí đã nộp do hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu trong khi Doanh nghiệp bảo hiểm đã đánh giá rủi ro, phát hành hợp đồng và chi trả hoa hồng, (ii) về danh tiếng: khi báo 2
- chí đăng tải những thông tin không chính xác do khách hàng cung cấp về hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp bảo hiểm; + Bên mua bảo hiểm không có cơ hội hoặc không sử dụng quyền xem xét và cân nhắc việc tiếp tục duy trì hoặc huỷ hỏ hợp đồng trong một thời gian nhất định sau khi hợp đồng được phát hành và đã phát sinh hiệu lực. + Do vi phạm các nguyên tắc giao kết nên một số hợp đồng BHNT bị vô hiệu. Như vậy mọi nỗ lực giao kết hợp đồng BHNT của các bên đã không có kết quả, DNBH gánh chịu thiệt hại tài chính về các khoản hoa hồng đã thanh toán cho đại lý, chi phí đánh giá rủi ro, phát hành và quản lý hợp đồng; BMBH đối diện với việc đầu tư không hiệu quả, mất đi khoản lãi có thể có nếu đầu tư sang lĩnh vực khác và toàn bộ công sức khi tham gia giao kết và thực hiện hợp đồng. Do đó, tác giả chọn đề tài “Giao kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ và Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ vô hiệu ở Việt Nam” để nghiên cứu. Luận văn sẽ nghiên cứu một cách có hệ thống và đầy đủ những quy định pháp luật có tính lý luận, khuôn mẫu về giai đoạn giao kết hợp đồng và hợp đồng BHNT vô hiệu. Qua đó, tác giả đánh giá hiệu lực pháp lý của từng bước cũng như cả giai đoạn giao kết hợp đồng BHNT đối với hiệu lực pháp lý của hợp đồng. Ngoài ra, tác giả sẽ phân tích các trường hợp hợp đồng BHNT vô hiệu; từ đó đưa ra những biện pháp nhằm hạn chế tình trạng hợp đồng BHNT vô hiệu ngay từ khi giao kết hợp đồng. Trên cơ sở đó, luận văn hướng tới các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng BHNT và quy định hợp đồng BHNT vô hiệu. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Hoạt động kinh doanh BHNT trên thế giới đã có lịch sử mấy trăm năm và đã trở thành một nhu cầu thiết yếu của người dân ở những nước phát triển. BHNT đã được đưa vào giảng dạy tại các trường đại học. Ngoài ra, các DNBH cũng phối hợp với các viện nghiên cứu phát hành nhiều tài liệu tham khảo về nghiệp vụ này nhằm mục đích tiếp cận, nâng cao nhận thức và nhu cầu về loại hình bảo hiểm này trong công chúng. Công trình nghiên cứu quốc tế về bảo hiểm nhan thọ cơ bản nhất và có hệ thống nhất là Bộ tài liệu đào tạo cho các thành viên Viện Quản lý BHNT Hoa Kỳ 3
- (LOMA) và Bộ tài liệu của Trung tâm phát triển văn hóa BHNT Tokyo Nhật Bản (OLICD). So với bề dày lịch sử hàng trăm năm của thị trường BHNT thế giới, thị trường BHNT tại Việt Nam (ra đời trên cơ sở Quyết định số 281/BTC-TCNH ngày 20/3/1996) là một thị trường non trẻ và nhiều hứa hẹn. Ở Việt Nam cũng không có nhiều công trình nghiên cứu về hợp đồng BHNT. Năm 2001, Nhà xuất bản Thống kê cho tái bản lần thứ nhất cuốn “Một số điều cần biết về pháp lý trong kinh doanh bảo hiểm” của GS. TS Trương Mộc Lâm và Lưu Hiểu Khánh. Cuốn sách này đã bước đầu đề cập đến những nguyên tắc pháp lý trong kinh doanh BHNT. Ngoài ra, trong những năm gần đây đã có một số luận văn thạc sỹ, một số giáo trình và bài viết nghiên cứu về BHNT. Như vậy, nhìn chung khoa học pháp lý nước ta hiện nay chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu về BHNT nói chung và giao kết hợp đồng BHNT, vấn đề hợp đồng BHNT vô hiệu nói riêng. Các tài liệu dùng để tham khảo đến nay chủ yếu là tài liệu của nước ngoài. 3. Nhiệm vụ và mục tiêu của đề tài - Tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và các vấn đề pháp lý để đặt ra tiêu chuẩn khách quan cho pháp luật về giao kết hợp đồng BHNT và hợp đồng BHNT vô hiệu; - Phát hiện và phân tích những khiếm khuyết của pháp luật về giao kết hợp đồng BHNT và hợp đồng BHNT vô hiệu ở Việt Nam hiện nay - Trên cơ sở đó, đưa ra các định hướng phù hợp để góp phần hoàn thiện chế định giao kết hợp đồng BHNT và hợp đồng BHNT vô hiệu tại Việt Nam hiện nay. 4. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Với xu hướng phát triển ngày càng sôi động của thị trường BHNT Việt Nam, việc nghiên cứu một cách có hệ thống về vấn đề này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn. Đề tài mang ý nghĩa lý luận cho việc xây dựng đầy đủ những quy phạm pháp luật đặc thù về giao kết hợp đồng BHNT, hợp đồng BHNT vô hiệu phù hợp với tri thức nhân loại về giao kết hợp đồng và hợp đồng vô hiệu. Những kiến nghị của đề tài hy vọng sẽ đem lại những kết quả thiết thực cho việc hoàn thiện các quy 4
- định pháp luật và góp phần bảo đảm thực hiện các quyền và lợi ích hợp pháp của Doanh nghiệp bảo hiểm và Bên mua bảo hiểm, xây dựng một thị trường BHNT lành mạnh và phát triển tại Việt Nam. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Tác giả sẽ sử dụng phương pháp phân tích, so sánh, đánh giá để nghiên cứu các quy định pháp luật về giao kết hợp đồng nói chung, từ đó làm rõ các yếu tố của giai đoạn giao kết hợp đồng BHNT; các trường hợp hợp đồng BHNT vô hiệu, chỉ ra những bất cập của các quy phạm pháp lý của Việt Nam và hướng tới các đề xuất liên quan. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 03 chương: Chƣơng 1: Khái quát về Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ và Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ vô hiệu Chƣơng 2: Thực trạng pháp luật về giao kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ và hợp đồng bảo hiểm nhân thọ vô hiệu ở Việt Nam Chƣơng 3: Định hướng hoàn thiện pháp luật và một số kiến nghị 5
- CHƢƠNG 1 KHÁI QUÁT VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM NHÂN THỌ VÀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM NHÂN THỌ VÔ HIỆU 1.1. Một số vấn đề cơ bản về Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ 1.1.1. Khái niệm bảo hiểm nhân thọ Năm 1639, E.Halley, người Anh đã lập ra Bảng thống kê tử vong đầu tiên. Sau đó, năm 1659 Lý thuyết xác suất của B.Pascal và Quy luật về số đông của J.Bernoulli vào thế kỷ XVIII đã đặt cơ sở về lý thuyết tính toán khoa học cho BHNT áp dụng cho đến sau này. Trong những năm 50 của thế kỷ XVIII, T.Simpon đã dựa vào Bảng thống kê tử vong do E.Halley lập ra để thành lập Bảng tỷ lệ phí BHNT. Như vậy, BHNT được hình thành từ rất sớm. Hiện nay, các công ty BHNT đã có mặt ở hầu khắp các quốc gia trên toàn cầu với các sản phẩm đa dạng và hoàn hảo hơn. Người ta đã thống kê được ở các nước phát triển, số người dân tham gia hợp đồng BHNT là rất lớn. Tại Nhật Bản và Mỹ, cứ 10 người dân thì có 9 người mua BHNT, còn ở Singapore cứ 10 người thì có 5 người mua BHNT. Ngay như ở Inđônêsia, cũng có tới 10% dân số có hợp đồng BHNT [13, tr.28]. Năm 1964, công ty bảo hiểm Bảo Việt được thành lập; năm 1989, đổi tên thành Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam - là doanh nghiệp Nhà nước độc quyền kinh doanh bảo hiểm trong thời gian này. Tháng 8/1996, một sự kiện đánh dấu bước phát triển của ngành BHNT tại Việt Nam, đó là việc Công ty bảo hiểm Bảo Việt phát hành hợp đồng BHNT đầu tiên. Tuy nhiên trong giai đoạn này, bảo hiểm Việt Nam hoàn toàn mang tính bao cấp, chỉ có 5 nghiệp vụ bảo hiểm và không có nghiệp vụ BHNT. Đến tháng 12/1993, Nghị định 100/CP về kinh doanh bảo hiểm của Chính phủ được ban hành đã đánh dấu một bước ngoặt trong quá trình phát triển hoạt động kinh doanh bảo hiểm ở nước ta, cơ bản chấm dứt thế độc quyền trong kinh doanh bảo hiểm của Bảo Việt. Tại điều 7 Nghị định 100/CP đã quy định về nghiệp vụ BHNT. Nhưng phải đến tháng 3/1996, hoạt động kinh doanh bảo hiểm mới thực sự được triển khai khi Quyết định 281/BTC-TCNH của Bộ trưởng Bộ Tài 6
- chính cho phép Bảo Việt được kinh doanh thí điểm BHNT với các nghiệp vụ BHNT 5 năm, 10 năm và bảo hiểm trẻ em. Quyết định số 175/2003/QĐ-TTG ngày 29/8/2003 phê duyệt chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam từ năm 2003 đến năm 2010 với mục tiêu “Phát triển thị trường bảo hiểm toàn diện, an toàn và lành mạnh nhằm đáp ứng nhu cầu bảo hiểm cơ bản của nền kinh tế và dân cư; bảo đảm cho các tổ chức, cá nhân được thụ hưởng những sản phẩm bảo hiểm đạt tiêu chuẩn quốc tế; thu hút các nguồn lực trong nước và nước ngoài cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội; nâng cao năng lực tài chính, kinh doanh của các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh bảo hiểm, đáp ứng yêu cầu cạnh tranh và hội nhập quốc tế”. Tinh thần của Quyết định trên thể hiện định hướng phát triển rõ ràng ngành bảo hiểm tại của Chính phủ Việt Nam. Trải qua hơn 14 năm hoạt động, BHNT ở nước ta đã phát triển nhanh chóng, thu hút sự quan tâm của nhiều tầng lớp dân cư, khẳng định vai trò quan trọng của mình đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Nếu như chỉ có một công ty BHNT hoạt động từ năm 1996 đến 1999 (Tổng công ty BHNT Việt Nam - Bảo Việt) thì đến nay đã có thêm 14 DNBH nhân thọ hoạt động tại thị trường Việt Nam. Sự xuất hiện của nhiều doanh nghiệp bảo hiểm có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam trong giai đoạn gần đây thể hiện thị trường Việt Nam tuy là một thị trường mới nhưng với dân số khoảng 80 triệu người với tỷ lệ dân cư trẻ rất cao thì Việt Nam được đánh giá là một thị trường BHNT tiềm năng, đầy hứa hẹn trong tương lai. BHNT là loại hình bảo hiểm trong đó DNBH trả tiền khi phát sinh sự kiện tử vong của NĐBH [36]. Trên phương diện pháp lý, BHNT là một loại bảo hiểm, trong đó để nhận được phí bảo hiểm của BMBH thông qua hợp đồng bảo hiểm, DNBH cam kết sẽ trả cho một hoặc nhiều người thụ hưởng một số tiền nhất định hoặc những khoản trợ cấp nhất định trong trường hợp NĐBH tử vong hoặc NĐBH sống đến một thời điểm đã được xác định rõ trong hợp đồng. Trên phương diện kỹ thuật, BHNT là một loại nghiệp vụ bao hàm những cam kết mà việc thực hiện những cam kết này phụ thuộc vào tuổi thọ của con người. 7
- Theo Giáo trình Bảo hiểm của Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, BHNT là sự cam kết giữa người bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm, mà trong đó người bảo hiểm sẽ trả cho người tham gia hoặc người thụ hưởng một số tiền nhất định khi có những sự kiện đã định trước xảy ra (NĐBH tử vong hoặc sống đến một thời điểm nhất định), còn người tham gia bảo hiểm phải nộp phí bảo hiểm đầy đủ, đúng hạn. Nói cách khác, BHNT là quá trình bảo hiểm các rủi ro có liên quan đến tính mạng, cuộc sống và tuổi thọ của con người [27]. Dù được định nghĩa bằng nhiều cách thức khác nhau, BHNT có một số đặc điểm cơ bản cần được lưu ý là: - BHNT là một loại bảo hiểm thương mại, kinh doanh thu lợi nhuận, khác với chế độ bảo hiểm xã hội hoặc bảo trợ xã hội khác của Nhà nước. - BHNT là loại hình bảo hiểm vô hình. Vì vậy, DNBH phải quan tâm đến việc giải thích cho khách hàng hiểu rõ về sản phẩm và có nghĩa vụ tuân thủ các cam kết theo hợp đồng. - BHNT là loại hình bảo hiểm duy nhất cho phép bảo hiểm cho cả hai trường hợp trái ngược nhau là sống và chết. Vì thế, trong mọi trường hợp, DNBH phải trả tiền bảo hiểm. Đặc điểm này để phân biệt BHNT với bảo hiểm phi nhân thọ - là loại hình bảo hiểm chỉ bồi thường khi có sự kiện rủi ro xảy ra. - BHNT chịu sự tác động tổng hợp nhiều nhân tố, vì thế quá trình định phí khá phức tạp. Đặc điểm này cũng cho thấy sự khác biệt của BHNT so với bảo hiểm phi nhân thọ. Các yếu tố cần xem xét khi định phí BHNT là: độ tuổi, giới tính của NĐBH, tuổi thọ bình quân của con người, số tiền bảo hiểm, thời hạn tham gia, phương thức thanh toán, lãi suất đầu tư, tỷ lệ lạm phát và thiểu phát của đồng tiền, chi phí khai thác, chi phí quản lý hợp đồng. Trong khi đó, để định giá một tài sản – đối tượng của bảo hiểm phi nhân thọ, người ta chỉ cần biết đến những khoản chi phí thực tế, chi phí đầu vào, được hạch toán một cách chi tiết, đầy đủ như chi phí nguyên vật liệu, lao động sống, khấu hao tài sản cố định [28]. 1.1.2. Các loại hình bảo hiểm nhân thọ - Các loại hình bảo hiểm nhân thọ cá nhân 8
- LKDBH 2000 quy định 05 nghiệp vụ BHNT bao gồm: bảo hiểm trọn đời, bảo hiểm sinh kỳ, bảo hiểm tử kỳ, bảo hiểm hỗn hợp, bảo hiểm trả tiền định kỳ. + Bảo hiểm sinh kỳ: Theo Khoản 13 Điều 3 LKDBH 2000, bảo hiểm sinh kỳ là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp NĐBH sống đến một thời hạn nhất định, theo đó DNBH phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng, nếu NĐBH vẫn sống đến thời hạn được thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm. Đặc điểm của loại hình sản phẩm này là: số tiền bảo hiểm được trả vào ngày đáo hạn hợp đồng khi NĐBH vẫn còn sống, thời hạn bảo hiểm được xác định, loại hình bảo hiểm mang tính tiết kiệm thuần túy, phí bảo hiểm có thể nộp một lần hoặc nộp định kỳ trong một thời hạn nhất định ngắn hơn hoặc bằng thời hạn bảo hiểm của hợp đồng, có thể chia lãi hoặc không chia lãi, có thể được trả giá trị giải ước khi không có điều kiện tiếp tục tham gia bảo hiểm. Mục đích của sản phẩm là bảo đảm thu nhập sau khi về hưu hay tuổi cao, bảo đảm mức sống trong những năm tháng còn lại của cuộc đời. + Bảo hiểm tử kỳ: Theo Viện quản lý BHNT Hoa Kỳ (LOMA), bảo hiểm tử kỳ là nghiệp vụ bảo hiểm cung cấp quyền lợi bảo hiểm tử vong nếu NĐBH chết trong một thời hạn được xác định trước [36]. Theo Khoản 14 Điều 3 LKDBH 2000, “bảo hiểm tử kỳ là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp NĐBH chết trong một thời hạn nhất định, theo đó DNBH phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng, nếu NĐBH chết trong thời hạn được thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm”. Như vậy, có thể nhận thấy nghiệp vụ bảo hiểm tử kỳ có mục đích là cung cấp sự bảo vệ trước rủi ro trong thời hạn xác định, có yếu tố bảo hiểm mà không có yếu tố tiết kiệm, thời hạn hợp đồng được xác định rõ ngay khi giao kết, DNBH có thể không phải trả tiền bảo hiểm trong trường hợp NĐBH sống đến thời điểm hợp đồng đáo hạn. Các sản phẩm phổ biến dưới dạng này là: bảo hiểm sinh mạng có thời hạn, bảo hiểm sinh mạng có hoàn phí, bảo hiểm tử kỳ có số tiền bảo hiểm giảm dần, bảo hiểm tử kỳ có số tiền bảo hiểm tăng dần. + Bảo hiểm hỗn hợp: Viện quản lý BHNT Hoa Kỳ (LOMA) định nghĩa bảo hiểm hỗn hợp là nghiệp vụ bảo hiểm trong đó quyền lợi bảo hiểm được thanh toán khi NĐBH chết hoặc vào ngày đáo hạn hợp đồng nếu NĐBH vẫn còn sống [36]. 9
- Theo Khoản 15 Điều 3 LKDBH 2000, “bảo hiểm hỗn hợp là nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp bảo hiểm sinh kỳ và bảo hiểm tử kỳ”. Mục đích của loại hình bảo hiểm này là kết hợp giữa việc đề phòng rủi ro và giúp khách hàng tích lũy để thực hiện các kế hoạch tài chính. Các đặc điểm nổi bật của bảo hiểm hỗn hợp là vừa có tính bảo hiểm vừa có tính tiết kiệm, thời hạn bảo hiểm được xác định trước, công ty bảo hiểm phải thanh toán quyền lợi bảo hiểm cho khách hàng. Loại hình bảo hiểm này thường được thể hiện thành các sản phẩm phổ biến như bảo hiểm hỗn hợp có thời hạn, bảo hiểm hỗn hợp có số tiền bảo hiểm tăng dần, bảo hiểm hỗn hợp trả tiền định kỳ. + Bảo hiểm trọn đời: Viện Quản lý BHNT Hoa Kỳ (LOMA) định nghĩa bảo hiểm trọn đời là nghiệp vụ bảo hiểm cung cấp sự bảo vệ suốt cuộc đời của NĐBH và có yếu tố tiết kiệm [36]. Theo Khoản 16 Điều 3 LKDBH 2000, “bảo hiểm trọn đời là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp NĐBH chết vào bất kỳ thời điểm nào trong suốt cuộc đời của người đó”. Các đặc điểm mổi bật của bảo hiểm trọn đời là: vừa có tính bảo hiểm vừa có tính tiết kiệm, thời hạn bảo hiểm không được xác định trước, thời hạn bảo hiểm chấm dứt khi NĐBH tử vong, DNBH phải thanh toán quyền lợi bảo hiểm cho khách hàng. Mục đích của loại hình bảo hiểm này là bảo hiểm kết hợp tiết kiệm, sản phẩm này không chỉ giúp khách hàng trang trải các chi phí hậu sự mà còn góp phần làm tăng giá trị tài sản khách hàng để lại cho người thân khi qua đời. + Bảo hiểm trả tiền định kỳ (niên kim nhân thọ) Theo Khoản 17 Điều 3 LKDBH 2000, “bảo hiểm trả tiền định kỳ là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp NĐBH sống đến một thời hạn nhất định; sau thời hạn đó DNBH phải trả tiền bảo hiểm định kỳ cho người thụ hưởng theo thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm”. Các đặc điểm nổi bật của sản phẩm này là: quyền lợi bảo hiểm được thanh toán thành nhiều lần theo định kỳ và phương thức nhất định; thời hạn bảo hiểm không xác định trước, hợp đồng bảo hiểm chấp dứt khi NĐBH chết hoặc NĐBH đã nhận hết quyền lợi bảo hiểm; DNBH chắc chắn phải trả tiền cho khách hàng. Loại hình bảo hiểm này thường được thể hiện thành các sản phẩm phổ biến 10
- như niên kim trả ngay, niên kim hoãn trả, niêm kim biến đổi và niên kim thu nhập trọn đời trong thời hạn được đảm bảo. Sản phẩm này chủ yếu nhằm mục đích an sinh xã hội, bảo hiểm hưu trí cho người cao tuổi. Đây chính là hình thức bảo hiểm xã hội tự nguyện, cung cấp khoản “lương hưu” theo sự lựa chọn của chính người nhận. - Loại hình bảo hiểm nhóm: loại hình này có đặc điểm cơ bản là thay vì bảo hiểm cho một cá nhân thì bảo hiểm cho cả nhóm người lao động. Loại hình này được thiết kế dưới hình thức một loạt sản phẩm tương tự như sản phẩm bảo hiểm cá nhân nhưng bảo hiểm cho một nhóm người. Các bên trong hợp đồng bảo hiểm là DNBH và BMBH (NĐBH không phải là một bên trong hợp đồng). Các hợp đồng bảo hiểm nhóm được nhận sự áp dụng các nguyên tắc nghiệp vụ khác biệt đối với các hợp đồng cá nhân từ giai đoạn đàm phán, giao kết hợp đồng, đánh giá rủi ro đến giải quyết quyền lợi bảo hiểm. - Các sản phẩm bảo hiểm bổ trợ: các sản phẩm này rất đa dạng, trong đó nổi bật là sản phẩm chết và thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn, bảo hiểm chi phí phẫu thuật, bảo hiểm chi phí nằm viện, bảo hiểm bệnh hiểm nghèo, bảo hiểm miễn nộp phí Các sản phẩm này không được mua độc lập mà được bán kèm với các hợp đồng bảo hiểm chính, giúp khách hàng bổ sung và mở rộng quyền lợi bảo hiểm khi tham gia BHNT. LKDBH 2000 quy định 02 loại hình bảo hiểm bao gồm 05 nghiệp vụ BHNT (bảo hiểm trọn đời, bảo hiểm sinh kỳ, bảo hiểm tử kỳ, bảo hiểm hỗn hợp, bảo hiểm trả tiền định kỳ) và 11 nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ. Trên thực tế hoạt động kinh doanh bảo hiểm phát triển nhanh, có một số loại hình bảo hiểm mới ra đời mà chưa được pháp luật kinh doanh bảo hiểm Việt nam ghi nhận. Ngày 19/1/2008, trên thị trường bảo hiểm Việt Nam đã phát sinh loại hình bảo hiểm liên kết đầu tư với sự ra đời của sản phẩm Prulink của Công ty BHNT Prudential Việt Nam. Cùng với bảo hiểm liên kết đầu tư, loại hình bảo hiểm hưu trí cũng đã được ghi nhận là một trong 07 nghiệp vụ BHNT đang được LKDBH 2010 ghi nhận. Cách phân loại trên là sự công nhận loại hình bảo hiểm liên kết đầu tư và bảo hiểm hưu trí trên thị trường 11
- BHNT Việt Nam, đồng thời tạo điều kiện phát triển hai loại hình bảo hiểm này. Riêng đối với bảo hiểm hưu trí – đó là một kênh huy động vốn và phục vụ tốt cho nhu cầu của dân cư; phân biệt với bảo hiểm xã hội và bào hiểm y tế bắt buộc. Bên cạnh đó, theo quy định của LKDBH 2000, bảo hiểm sức khỏe và bảo hiểm tai nạn con người là các nghiệp vụ bảo hiểm thuộc bảo hiểm phi nhân thọ. Nhưng theo thông lệ quốc tế thì loại hình này được xếp trong loại hình bảo hiểm sức khỏe. Vì thế, LKDBH 2010 đã kết hợp quy định chi tiết các nghiệp vụ bảo hiểm của LKDBH 2000 với việc phân loại thành 03 nhóm gồm BHNT, bảo hiểm phi nhân thọ và bảo hiểm sức khỏe. Việc phân nhóm nghiệp vụ bảo hiểm của LKDBH 2010 có tác dụng tạo điều kiện thuận lợi để nhóm nghiệp vụ bảo hiểm chăm sóc sức khỏe phát triển. Hiện tại, việc triển khai nhóm nghiệp vụ này ở các DNBH nhân thọ phải theo cách coi đó là các sản phẩm bán kèm hợp đồng BHNT. 1.1.3. Giao dịch bảo hiểm nhân thọ Viện Quản lý BHNT Hoa Kỳ (LOMA) định nghĩa hợp đồng BHNT là loại hợp đồng bảo hiểm mà theo đó, nhà bảo hiểm hứa thanh toán quyền lợi bảo hiểm cho trường hợp NĐBH chết [38]. Tuy nhiên định nghĩa này chưa có tính khái quát. Vì BHNT là loại hình bảo hiểm rất đa dạng, nhà bảo hiểm có thể chấp nhận nhiều rủi ro khác liên quan đến đời sống của con người như thương tật, tai nạn, bệnh hiểm nghèo và phẫu thuật. Theo Điều 12 LKDBH 2000 thì khái niệm hợp đồng BHNT được ghi nhận như sau: “Hợp đồng bảo hiểm là sự thoả thuận giữa BMBH và DNBH, theo đó BMBH phải đóng phí bảo hiểm, DNBH phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho NĐBH khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”. Điều 31 LKDBH 2000 cũng quy định rõ đối tượng của hợp đồng bảo hiểm con người là tuổi thọ, tính mạng, sức khỏe và tai nạn con người. 1.1.4. Đặc trưng cơ bản của Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ * Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là hợp đồng không chính tắc (informal contract) 12
- Hợp đồng chính tắc (formal contract) là hợp đồng có hiệu lực vì các bên tham gia tuân thủ một số nguyên tắc về hình thức thỏa thuận như đã lập thành văn bản, có dấu hoặc một hình thức tương đương. Trong khi đó, hợp đồng BHNT là hợp đồng không chính tắc. Hợp đồng không chính tắc là loại hợp đồng có hiệu lực thi hành vì các bên tham gia hợp đồng thống nhất được về nội dung thỏa thuận, chứ không phải là hình thức thỏa thuận. Hợp đồng không chính tắc có thể được lập thành văn bản hoặc bằng miệng. Việc ghi nhận một thỏa thuận dưới dạng văn bản chỉ đơn thuần là tạo bằng chứng, còn hợp đồng không chính tắc bằng miệng vẫn có hiệu lực thi hành. Tuy nhiên, pháp luật các nước đều quy định hợp đồng bảo hiểm phải được lập thành văn bản. Điều 14/LKDBH năm 2000 ghi rõ: “Hợp đồng bảo hiểm phải được lập thành văn bản. Bằng chứng giao kết hợp đồng bảo hiểm là giấy chứng nhận bảo hiểm, đơn bảo hiểm, điện báo, telex, fax và các hình thức khác do pháp luật quy định”. Sở dĩ các hợp đồng BHNT đều được lập thành văn bản vì các lý do chủ yếu sau: - Việc lập hợp đồng bằng văn bản giúp tránh được sự hiểu lầm về các điều khoản giữa các bên với nhau. Các hợp đồng BHNT phải có các điều khoản ghi nhận điều kiện bảo hiểm, quyền và nghĩa vụ của các bên. Nếu không có hình thức văn bản, các tranh chấp pháp lý về điều khoản hợp đồng có thể sẽ phát sinh. - Hợp đồng bằng văn bản giúp cho việc lưu trữ thỏa thuận đã cam kết một cách lâu dài. Các hợp đồng BHNT thường có hiệu lực trong nhiều năm. Việc ghi nhớ lời hứa bằng miệng của một người trong nhiều năm là rất khó, kể cả trong những trường hợp đáng tin cậy nhất. Tuy nhiên trên thực tế, có một số DNBH đã và đang quảng cáo, bán BHNT thông qua internet và cho phép người mua có thể yêu cầu tham gia bảo hiểm qua mạng, chứ không cần phải yêu cầu bằng văn bản. * Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là hợp đồng song vụ Như chúng ta đã biết, các hợp đồng BHNT thường có 2 bên tham gia ký kết – BMBH và DNBH. Hợp đồng giữa hai bên có thể là hợp đồng đa vụ/ song phương 13
- hoặc đơn vụ/ đơn phương. Nếu cả hai bên đều đưa ra những lời hứa thực hiện cam kết thì hợp đồng họ tham gia là hợp đồng đa vụ (song phương). Ngược lại, nếu hợp đồng chỉ có những lời hứa thực hiện của một bên thì đó là hợp đồng đơn vụ (đơn phương). Giả sử bạn ký kết hợp đồng với công ty Aquatics để công ty này xây một bể bơi cho bạn theo mức giá hai bên thỏa thuận. Như vậy, công ty này đã cam kết hoàn thành việc xây dựng bể bơi cho bạn theo mức giá đó và bạn cũng phải cam kết thanh toán số tiền theo thỏa thuận. Hợp đồng này là hợp đồng đa vụ - cả bạn và công ty Aquatics đều đưa ra những cam kết có hiệu lực. Theo Viện quản lý BHNT Hoa Kỳ, các hợp đồng BHNT là các hợp đồng đơn vụ [36], DNBH cam kết bảo hiểm trên cơ sở mức phí đã đưa ra. Khi phí bảo hiểm được BMBH thanh toán, DNBH phải thực hiện cam kết của mình. Trong khi đó, BMBH không cam kết đóng phí bảo hiểm và pháp luật cũng không buộc BMBH phải đóng phí bảo hiểm. BMBH có quyền dừng đóng phí và hủy hợp đồng bất kỳ lúc nào. Bởi vì chỉ có DNBH bị buộc phải thực hiện cam kết nên hợp đồng BHNT là hợp đồng đơn vụ. Tuy nhiên, thiết nghĩ, BMBH cũng có nghĩa vụ khi giao kết và thực hiện hợp đồng BHNT, đó là nghĩa vụ (i) cung cấp thông tin trung thực về BMBH và NĐBH; (ii) đóng phí bảo hiểm theo đúng cam kết. Đối ứng với các nghĩa vụ nói trên của BMBH, DNBH có nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm nếu rủi ro xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm. Như vậy, hợp đồng BHNT phải là hợp đồng song vụ. * Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là hợp đồng may rủi Hợp đồng nói chung có thể phân loại theo hợp đồng ngang giá hoặc hợp đồng may rủi. Hợp đồng ngang giá là loại hợp đồng trong đó các bên quy định trước giá trị sẽ trao đổi; các bên thường trao đổi hàng hóa, dịch vụ mà họ nghĩ có giá trị tương đương nhau. Ở ví dụ trước, hợp đồng xây dựng bể bơi với công ty Aquatics là hợp đồng ngang giá. Khi hợp đồng được ký kết, dịch vụ cung cấp và chi phí thanh toán cho dịch vụ đã được xác định rõ. Về bản chất, bể bơi và chi phí thanh 14