Luận văn Giáo dục pháp luật từ thực tiễn tỉnh Cà Mau

pdf 87 trang vuhoa 24/08/2022 9740
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Giáo dục pháp luật từ thực tiễn tỉnh Cà Mau", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_giao_duc_phap_luat_tu_thuc_tien_tinh_ca_mau.pdf

Nội dung text: Luận văn Giáo dục pháp luật từ thực tiễn tỉnh Cà Mau

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN VĂN HIÊN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TỪ THỰC TIỄN TỈNH CÀ MAU LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2017
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN VĂN HIÊN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TỪ THỰC TIỄN TỈNH CÀ MAU Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 60.38.01.02 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN MINH ĐOAN HÀ NỘI - 2017
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu trích dẫn trong luận văn dựa trên số liệu bảo đảm độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả NGUYỄN VĂN HIÊN
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT 7 1.1. Khái niệm, đặc điểm của giáo dục pháp luật 7 1.2. Các thành tố của giáo dục pháp luật 18 1.3. Vai trò của giáo dục pháp luật 25 Chương 2: THỰC TIỄN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT Ở TỈNH CÀ MAU HIỆN NAY 31 2.1. Các điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa - xã hội có ảnh hưởng đến giáo dục pháp luật ở tỉnh Cà Mau hiện nay 31 2.2. Những kết quả đạt được trong giáo dục pháp luật ở tỉnh Cà Mau 36 2.3. Hạn chế, tồn tại trong giáo dục pháp luật ở tỉnh Cà Mau 49 Chương 3: NHU CẦU, GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TỪ THỰC TIỄN Ở TỈNH CÀ MAU HIỆN NAY 57 3.1. Nhu cầu nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật từ thực tiễn ở tỉnh Cà Mau hiện nay 57 3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật từ thực tiễn ở tỉnh Cà Mau hiện nay 62 KẾT LUẬN 75 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 77
  5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ĐBSCL : Đồng bằng song Cửu Long GDPL : Giáo dục pháp luật HĐND : Hội đồng nhân dân HĐPH : Hội đồng phối hợp MTTQ : Mặt trận tổ quốc PBGDPL : Phổ biến, giáo dục pháp luật QPPL : Quy phạm pháp luật UBND : Ủy ban nhân dân XHCN : Xã hội chủ nghĩa
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong công cuộc đổi mới của đất nước ta hiện nay, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật giữ một vai trò vô cùng quan trọng. Mỗi cán bộ, mỗi người dân có nắm vững kiến thức pháp luật thì mới phát huy được tinh thần làm chủ của bản thân, góp phần quản lý xã hội bằng pháp luật. Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V đến nay, Đảng ta đã liên tục khẳng định vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Quan điểm coi trọng công tác giáo dục pháp luật được thể hiện nhất quán và ngày càng rõ nét. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII khẳng định: “Triển khai mạnh mẽ công tác tuyên truyền và giáo dục pháp luật, huy động các đoàn thể chính trị, xã hội, nghề nghiệp, các phương tiện thông tin đại chúng tham gia vào đợt vận động thiết lập trật tự kỷ cương và các hoạt động thường xuyên xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật trong các cơ quan nhà nước và trong xã hội” [13, tr. 241]. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX tiếp tục khẳng định việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật phải đi đôi với công tác tuyên truyền và giáo dục pháp luật đó là: "Đổi mới và hoàn thiện quy trình xây dựng luật, ban hành và thực thi pháp luật, trong đó chú trọng việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật một cách nghiêm minh" [14, tr. 239]. Thể chế hóa quan điểm do Đảng đề ra, nhiều văn bản pháp luật về giáo dục pháp luật đã được Nhà nước ban hành triển khai thực hiện. Trên cơ sở đó, thời gian qua công tác giáo dục pháp luật trong đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân đã đạt được nhiều kết quả đáng kể, góp phần nâng cao trình độ hiểu biết về pháp luật, nâng cao văn hóa pháp lí trong cán bộ và nhân dân, bước đầu tạo dựng ổn định trong lối sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật ở các đối tượng cụ thể. Tuy nhiên, cho đến nay, so với nhu cầu thực tiễn, công tác giáo dục pháp luật vẫn còn nhiều bất cập và hạn chế; đặc biệt là công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật cho từng đối tượng cụ thể. 1
  7. Trong những năm qua, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, đời sống vật chất cũng như ý thức pháp luật của cán bộ và nhân dân nói chung, cán bộ và nhân dân trên địa bàn tỉnh Cà Mau nói riêng được nâng lên rõ rệt. Tuy nhiên, công tác giáo dục pháp luật trong cán bộ và nhân dân của tỉnh Cà Mau vẫn còn nhiều hạn chế, chưa ngang tầm. Do đặc thù của vùng sông nước, phương tiện, giao thông đi lại còn nhiều khó khăn; dân cư sống không tập trung; trình độ dân trí không đồng đều; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân còn nhiều khó khăn, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số Từ đó công tác phổ biến, giáo dục pháp luật thời gian qua có lúc, có nơi đạt hiệu quả thấp. Bên cạnh đó, phần lớn nhân dân làm nghề lao động phổ thông, theo thời vụ nên việc cập nhật, tìm hiểu pháp luật không thường xuyên nhưng trong quá trình hoàn thiện pháp luật ở nước ta hiện nay nhiều văn bản pháp luật mới được ban hành, nhiều văn bản luật, dưới luật phải sửa đổi bổ sung từ đó đã gây thêm khó khăn trong việc tìm hiểu, nghiên cứu pháp luật của cán bộ và nhân dân trong tỉnh. Qua tìm hiểu từ thực tiển trên địa bàn tỉnh Cà Mau hiện nay vẫn chưa có Chương trình, đề án nào nghiên cứu làm rõ những vấn đề đã và đang đặt ra hiện nay nhằm nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật trong thực tiễn. Với những lý do trên, việc nghiên cứu "Giáo dục pháp luật từ thực tiễn tỉnh Cà Mau" là vấn đề cần thiết có ý nghĩa lý luận và thực tiễn thiết thực. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong giai đoạn hiện nay, giáo dục pháp luật là vấn đề hết sức quan trọng. Việc nghiên cứu về giáo dục pháp luật dưới góc độ khoa học pháp lý được các nhà khoa học Việt Nam rất quan tâm. Cho đến nay có nhiều công trình nghiên cứu về giáo dục pháp luật của tập thể, cá nhân đã được công bố. Qua tìm hiểu các công trình đã được công bố trong nước và nước ngoài cho thấy, mặc dù giáo dục pháp luật được đề cập dưới nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau, song về cơ bản bao gồm các nhóm vấn đề sau: Nhóm 1: Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về giáo dục pháp luật, gồm khái niệm, mục đích, đối tượng, nội dung, hình thức của giáo dục pháp luật, như: 2
  8. -„Giáo dục ý thức pháp luật để tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và xây dựng con người mới‟, Phùng Văn Tửu, Tạp chí Giáo dục lý luận, số 4/1985. -„Giáo dục ý thức pháp luật‟, Nguyễn Trọng Bích, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 4/1989. -„Cơ sở khoa học của việc xây dựng ý thức pháp luật và lối sống theo pháp luật‟, Đề tài khoa học cấp nhà nước, mã số KX.07-17, Viện Nhà nước và pháp luật - Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn chủ trì. -„Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo dục pháp luật trong công cuộc đổi mới‟, Đề tài khoa học cấp Bộ năm 1994, mã số 92-98-223-ĐT, của Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp. -„Bàn về giáo dục pháp luật‟, Trần Ngọc Đường và Dương Thanh Mai, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995. -„Xã hội hóa công tác phổ biến giáo dục pháp luật trong tình hình mới‟, Hồ Việt Hiệp, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 9/2000. *Nhóm 2: Nghiên cứu giáo dục pháp luật đối với các đối tượng cụ thể nhằm lý giải những đặc thù và tìm kiếm các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật cho từng đối tượng, gồm: -„Giáo dục pháp luật cho nhân dân‟, Nguyễn Ngọc Minh, Tạp chí Cộng sản, số 10, 1983. -„Nâng cao ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ quản lý hành chính ở nước ta hiện nay‟, Luận án Phó tiến sĩ của Lê Đình Khiên, 1993. -“Giáo dục pháp luật trong các trường trung học chuyên nghiệp và dạy nghề ở nước ta hiện nay‟, Luận án Phó tiến sĩ của Đinh Xuân Thảo, 1996. -„Giáo dục pháp luật qua hoạt động tư pháp ở Việt Nam‟, Luận án Phó tiến sĩ của Dương Thị Thanh Mai, 1996. -„Giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc Khơme Nam Bộ‟, Luận văn thạc sĩ Luật học của Lê Văn Bền, 1998. -„Bộ đội Biên phòng với việc giáo dục pháp luật cho đồng bào khu vực biên giới ở Việt Nam hiện nay‟, Luận văn thạc sĩ Luật học của Phạm Văn Trưởng, 1998. 3
  9. -„Đổi mới giáo dục pháp luật trong hệ thống các trường chính trị ở nước ta hiện nay‟, Đề tài khoa học cấp Bộ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2000. -„Giáo dục pháp luật trong các trường sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay‟, Luận văn thạc sĩ Luật học của Phạm Trung Nghĩa, 2000. -„Thực trạng và phương hướng đổi mới giáo dục pháp luật hệ đào tạo trung học chính trị ở nước ta hiện nay‟, Luận văn thạc sĩ Luật học của Đặng Ngọc Hoàng, 2000. -„Giáo dục pháp luật cho nhân dân các dân tộc ít người ở tỉnh Đắk Lắk - thực trạng và giải pháp‟, Luận văn thạc sĩ Luật học của Phạm Hàn Lâm, 2001. *Nhóm 3: Nghiên cứu giáo dục pháp luật trong mối quan hệ với các nội dung khác: -„Ý thức pháp luật và giáo dục pháp luật ở Việt Nam‟, Luận án phó tiến sĩ Luật học của Nguyễn Đình Lộc, 1987. -„Giáo dục ý thức pháp luật với việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa‟, Luận án phó tiến sĩ Luật học của Trần Ngọc Đường, 1988. Nhìn chung các công trình nghiên cứu khoa học của tập thể, cá nhân, các bài viết của các tác giả từ trước đến nay về giáo dục pháp luật đã đóng góp rất nhiều các vấn đề cơ bản cả về vấn đề lý luận và thực tiễn dưới nhiều góc độ khác nhau về giáo dục pháp luật. Tuy nhiên, có thể nói rằng, cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống về giáo dục pháp luật từ thực tiễn tỉnh Cà Mau. Vì vậy, đây là đề tài đầu tiên nghiên cứu có hệ thống vấn đề giáo dục pháp luật từ thực tiễn tỉnh Cà Mau. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích Trên cơ sở phân tích lý luận và đánh giá thực trạng giáo dục pháp luật ở tỉnh Cà Mau, đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật cho các nhóm đối tượng ở tỉnh Cà Mau hiện nay, mà trọng tâm đối tượng là cán bộ và nhân dân nói chung. 3.2 Nhiệm vụ 4
  10. Để thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau: -Trên cơ sở phân tích một số vấn đề lý luận chung về giáo dục pháp luật, luận văn phân tích rõ đặc điểm và vai trò giáo dục pháp luật đối với một số đối tượng cụ thể, trong đó cán bộ và nhân dân nói chung. - Nghiên cứu, đánh giá thực trạng, phân tích nguyên nhân thực trạng của công tác giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh thời gian qua. - Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật cho cán bộ và nhân dân trên địa bàn tỉnh Cà Mau hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật cho cán bộ và nhân dân trên địa bàn tỉnh Cà Mau - Luận văn giới hạn thời gian nghiên cứu từ năm 2003 đến nay, tức là kể từ khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 13/2003/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật từ 2003 đến 2007. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn là chuyên khảo đầu tiên nghiên cứu có hệ thống và tương đối toàn diện về giáo dục pháp luật, nêu và làm rõ thêm khái niệm và đặc điểm, vai trò của giáo dục pháp luật cho một số đối tượng cụ thể. Vì vậy, luận văn có những đóng góp khoa học cụ thể sau: Luận văn đề xuất phương hướng và giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật cho cán bộ và nhân dân nói chung trên địa bàn tỉnh Cà Mau. Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác -Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, về giáo dục pháp luật nói chung. Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng với các phương pháp: lịch sử - cụ thể, phân tích, tổng hợp, kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khác: thống kê, so sánh, điều tra xã hội học 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 5
  11. Kết quả nghiên cứu góp phần bổ sung, hoàn thiện thêm những vấn đề lý luận về giáo dục pháp luật, làm rõ tính đặc thù của công tác giáo dục pháp luật đối với cán bộ và nhân dân trên địa bàn tỉnh Cà Mau. Luận văn phân tích, đánh giá một cách khá toàn diện về thực trạng giáo dục pháp luật tại địa phương. Trên cơ sở đó phát hiện những điểm chưa hợp lý, những hạn chế, tồn tại vướng mắc để đề xuất phương hướng và những giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục pháp luật trên phạm vi cả nước và tại địa phương. Các giải pháp đề xuất trong luận văn góp phần hoàn thiện chính sách pháp luật về giáo dục pháp luật cho đối tượng là cán bộ và nhân nói chung, không ngừng nâng cao nhận thức và trách nhiệm chỉ đạo tổ chức hoạt động thực tiễn của các cơ quan Đảng và Nhà nước trong việc giáo dục pháp luật. Đồng thời, với các phương hướng, giải pháp mà luận văn đặt ra còn có giá trị tham khảo đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh trong thời gian tới. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có kết cấu gồm 3 chương, cụ thể như sau: Chương 1. Cơ sở lý luận về giáo dục pháp luật Chương 2. Thực tiễn giáo dục pháp luật ở tỉnh Cà Mau hiện nay Chương 3. Nhu cầu, giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật từ thực tiễn ở tỉnh Cà Mau hiện nay 6
  12. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT 1.1. Khái niệm, đặc điểm của giáo dục pháp luật 1.1.1. Khái niệm giáo dục pháp luật Hiện nay ở nước ta, khái niệm giáo dục pháp luật vẫn còn nhiều quan điểm, cách hiểu khác nhau, có thể khái quát các quan điểm chính, như sau: Quan điểm cho rằng pháp luật là các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung và mọi người đều có nghĩa vụ phải tuân thủ pháp luật, vì vậy không cần phải nêu ra vấn đề giáo dục pháp luật, bản thân pháp luật sẽ thực hiện chức năng của mình bằng các quy định về quyền và nghĩa vụ, về các chế tài đối với những người tham gia vào các quan hệ xã hội do pháp luật điều chỉnh, điều cần thiết phải làm là công bố và phổ biến các văn bản pháp luật để các chủ thể nắm được và thực hiện. Quan điểm coi giáo dục pháp luật là bộ phận của giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức. Điều đó có nghĩa là chỉ cần tiến hành giáo dục chính trị tư tưởng đạo đức là mọi chủ thể trong xã hội đã có ý thức pháp luật cao, có sự tự giác, tôn trọng và tuân thủ pháp luật. Sự đồng nhất này đã dẫn đến việc xem nhẹ công tác giáo dục pháp luật, đã có thời gian dài ở nước ta không thực hiện chương trình giáo dục pháp luật riêng biệt mà gắn kết vào chương trình giáo dục đạo đức, chính trị. Việc đào tạo chuyên ngành luật chưa được Nhà nước chú ý, mãi đến cuối những năm 70 Nhà nước mới thành lập các cơ sở đào tạo luật gia ở trình độ đại học và đến năm 1987- 1988 việc giáo dục pháp luật mới được bắt đầu đưa vào chương trình giáo dục ở bậc phổ thông. Quan điểm coi giáo dục pháp luật đồng nghĩa với việc tuyên truyền, giới thiệu, giải thích, phổ biến các văn bản pháp luật, giáo dục pháp luật thực chất chỉ là các đợt tuyên truyền, cổ động khi có văn bản pháp luật mới ban hành như: Hiến pháp; các Bộ luật, các Luật v.v Quan điểm cho rằng giáo dục pháp luật đồng nghĩa với việc dạy và học pháp luật trong các nhà trường. Với quan điểm này cho thấy việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật ở ngoài xã hội là không phải giáo dục pháp luật. 7
  13. Các quan điểm nêu trên đều còn phiến diện, chưa thấy được tính đặc thù, sự tác động của hoạt động giáo dục pháp luật lên các chủ thể nên chưa có quan niệm đầy đủ và đúng đắn về giáo dục pháp luật, chưa thấy được vai trò, giá trị xã hội của giáo dục pháp luật. Ở đây, khái niệm pháp luật không chỉ là văn bản quy phạm pháp luật, là mô hình được các nhà Lập pháp nghiên cứu và thông qua, mà phải được thể hiện trong cuộc sống. Pháp luật chỉ thực sự đi vào cuộc sống thông qua cơ chế điều chỉnh bao gồm các giai đoạn: Ban hành, tuyền truyền giáo dục, tổ chức thực hiện, kiểm tra giám sát, trong cơ chế đó yếu tố con người là cơ bản. Khi tham gia vào các quan hệ pháp luật, con người phải lựa chọn hình thức, cách xử sự để thể hiện qua hành vi. Đây là một quá trình tâm lý phức tạp, phụ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan và khách quan. Ở giai đoạn này, quy phạm pháp luật có khả năng tác động lên ý thức của cá nhân. Do đó, việc phổ biến văn bản pháp luật mới chỉ là điều kiện cần nhưng chưa đủ để cá nhân hành động phù hợp theo yêu cầu của pháp luật. Điều kiện đủ ở đây là cá nhân phải có ý thức pháp luật đúng đắn. Ý thức đó có thể hình thành dưới sự tác động liên tục, thường xuyên của các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan (hoạt động giáo dục pháp luật) dẫn đến hành vi hợp pháp của cá nhân. Vì vậy, khi công bố luật mới còn phải tuyên truyền, giáo dục thường xuyên, lâu dài mới đảm bảo rằng luật đó được thực thi trong cuộc sống. Khái niệm giáo dục pháp luật cần xuất phát từ khái niệm giáo dục của khoa học sư phạm, trong khoa học sư phạm giáo dục được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, giáo dục là quá trình ảnh hưởng của những điều kiện khách quan như chế độ xã hội, môi trường sống, trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, phong tục tập quán v.v và sự tác động của nhân tố chủ quan như sự tác động có ý thức có mục đích có kế hoạch và định hướng của con người lên việc hình thành những phẩm chất, kỹ năng nhất định của đối tượng giáo dục. Theo nghĩa hẹp, giáo dục là hoạt động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch của chủ thể giáo dục tác động lên khách thể giáo dục nhằm đạt được các mục tiêu nhất định như: truyền bá những kinh nghiệm trong sản xuất, trong đấu tranh; những 8
  14. tri thức về tự nhiên, xã hội và tư duy để khách thể (đối tượng) có đủ khả năng để tham gia vào đời sống xã hội. Giáo dục pháp luật trong thực tiễn hiện nay theo quan niệm chung của nhiều nhà khoa học đều tán thành theo nghĩa hẹp của giáo dục, đó là: giáo dục là hoạt động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch của chủ thể giáo dục tác động lên khách thể giáo dục, nhằm đạt được các mục tiêu nhất định như: Truyền bá những kinh nghiệm trong sản xuất, trong đấu tranh; những tri thức về tự nhiên, xã hội và tư duy để khách thể (hay đối tượng) có đủ khả năng tham gia vào đời sống xã hội. Trong thực tiễn, tuy thừa nhận ảnh hưởng của các điều kiện khách quan là to lớn đối với việc hình thành ý thức cá nhân con người, các nhà khoa học sư phạm vẫn nhấn mạnh yếu tố chủ quan như là yếu tố tác động hàng đầu, cực kỳ quan trọng, thậm chí mang tính chất quyết định trong giáo dục. Khái niệm giáo dục pháp luật theo nghĩa hẹp có ý nghĩa trong việc phân biệt phạm trù giáo dục pháp luật với phạm trù ý thức pháp luật. Hai phạm trù này có quan hệ mật thiết với nhau nhưng không phải là một. Hoạt động giáo dục pháp luật là sự tác động của nhân tố chủ quan mà trước hết là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định thành một hệ thống của nhiều chủ thể, còn sự hình thành ý thức pháp luật là sản phẩm của cả điều kiện khách quan lẫn sự tác động có định hướng của nhân tố chủ quan. Giáo dục pháp luật là nhân tố tác động đối với sự hình thành ý thức pháp luật, còn thực tiễn pháp luật là nhân tố ảnh hưởng. Sự phân biệt hai phạm trù này có ý nghĩa quan trọng là tạo ra khả năng giải quyết những vấn đề thực tiễn của hoạt động giáo dục pháp luật. Từ nghĩa hẹp của khái niệm giáo dục trong khoa học sư phạm để xây dựng khái niệm giáo dục pháp luật, cho ta thấy rõ hơn mối quan hệ giữa cái riêng, cái đặc thù của giáo dục pháp luật với cái chung, cái phổ biến của giáo dục. Giáo dục pháp luật vừa mang những đặc điểm chung của giáo dục, sử dụng các hình thức, phương pháp của giáo dục nói chung, vừa thể hiện những nét đặc thù riêng có của mình trong mối liên hệ chặt chẽ với các loại hình giáo dục khác như giáo dục chính trị, 9
  15. giáo dục đạo đức. Tính đặc thù của giáo dục pháp luật thể hiện ở cả mục đích, nội dung và ở cả hình thức, phương pháp. Tính đặc thù của giáo dục pháp luật khác với các dạng giáo dục khác ở chỗ: Giáo dục pháp luật có mục đích riêng của mình, đó là hoạt động nhằm hình thành tri thức, tình cảm và thói quen xử sự phù hợp với quy định của pháp luật. Giáo dục pháp luật có nội dung riêng, đó là sự tác động định hướng với nội dung cơ bản là chuyển tải tri thức của nhân loại nói chung, của một nhà nước nói riêng về hai hiện tượng nhà nước và pháp luật, trong đó pháp luật thực định hiện hành của nhà nước là bộ phận vô cùng quan trọng. Xét trên các yếu tố chủ thể, khách thể, đối tượng, hình thức và phương pháp giáo dục cũng có thể chỉ ra các nét đặc thù của giáo dục pháp luật. Chẳng hạn, giáo dục pháp luật so với các dạng giáo dục khác đó là quá trình tác động liên tục thường xuyên, lâu dài chứ không phải là sự tác động một lần của chủ thể lên đối tượng giáo dục. Vì thế, giáo dục pháp luật trở thành sợi chỉ đỏ xuyên qua gia đình, nhà trường, các tập thể lao động, các tổ chức Đảng, Nhà nước, các đoàn thể xã hội. Nhân tố con người với hành vi hành động hợp pháp đóng vai trò chủ đạo trong quá trình tác động qua lại giữa người giáo dục (chủ thể) với người được giáo dục (đối tượng). Người được giáo dục là người chịu sự tác động có tổ chức, có định hướng các thông tin pháp luật. Vì thế hiểu biết trình độ, đặc biệt là đặc điểm nhân thân của người được giáo dục pháp luật là đòi hỏi hàng đầu đối với người giáo dục. Đồng thời người giáo dục cần phải nắm vững tri thức pháp luật, biết cách chuyển tải nó, hơn nữa phải là tấm gương, là hình mẫu trong việc tuân theo pháp luật, bởi vì trong giáo dục pháp luật thì nguyên tắc làm gương, làm mẫu có ảnh hưởng rất lớn đối với người được giáo dục. Tóm lại, giáo dục pháp luật là quá trình tác động có tổ chức, có mục đích và thường xuyên tới nhận thức của con người nhằm trang bị cho mỗi người trình độ pháp lí nhất định để từ đó có ý thức đúng đắn về pháp luật, tôn trọng và tự giác xử sự theo yêu cầu của pháp luật. 10
  16. 1.1.2. Đặc điểm của giáo dục pháp luật 1.1.2.1. Đặc điểm về đối tượng và chủ thể giáo dục pháp luật Quá trình giáo dục pháp luật thực chất là quan hệ xã hội, giữa một bên là người giáo dục pháp luật (chủ thể giáo dục pháp luật) và một bên là người được giáo dục pháp luật (đối tượng giáo dục pháp luật). Mối quan hệ này có sự tác động qua lại lẫn nhau, giữa các bên tham gia. Việc xác định chủ thể giáo dục pháp luật và đối tượng giáo dục pháp luật có ý nghĩa quan trọng trong lý luận và thực tiễn của hoạt động giáo dục pháp luật. Trên cơ sở mối quan hệ, sự tác động qua lại lẫn nhau giữa chủ thể giáo dục pháp luật và đối tượng giáo dục pháp luật tạo cho chủ thể xác định được các nội dung, hình thức, phương pháp phù hợp để tiếp cận với đối tượng giáo dục pháp luật một cách có hiệu quả nhất. Tuy nhiên, điều quan trọng là các chủ thể và đối tượng giáo dục pháp luật phải biết vị trí của mình trong từng giai đoạn lịch sử hoặc trong từng loại công việc: khi là chủ thể, khi là đối tượng GDPL bởi quy luật của tự nhiên và xã hội liên tục được vận động và phát triển. Dưới góc độ giáo dục học thì đối tượng giáo dục là những cá nhân hoặc tập thể học sinh, người học. Trong lĩnh vực giáo dục pháp luật, đối tượng giáo dục pháp luật là các cá nhân công dân hay các nhóm, cộng đồng công dân tiếp nhận trực tiếp hoặc gián tiếp tác động của các hoạt động giáo dục pháp luật do các chủ thể giáo dục tiến hành nhằm đạt được các mục đích đặt ra. Mỗi nhóm đối tượng giáo dục pháp luật được chủ thể tác động bằng hình thức phương pháp khác nhau, điều này phụ thuộc vào đặc điểm tâm lý, nghề nghiệp, lứa tuổi, giới tính, nhu cầu và khả năng nhận thức của từng loại đối tượng. Trong giai đoạn hiện nay, ngoài đối tượng chung là mọi công dân cần ưu tiên nghiên cứu một số đối tượng là cán bộ, công chức, viên chức nhà nước, học sinh, sinh viên, các tầng lớp nhân dân lao động, đặc biệt là nhân dân các dân tộc ít người, vùng sâu vùng xa Chủ thể giáo dục pháp luật có thể hiểu là tất cả những người mà theo chức năng, nhiệm vụ hay trách nhiệm xã hội phải tham gia vào việc thực hiện các mục đích giáo dục pháp luật. Các nhà nghiên cứu lý luận và thực tiễn đã xác định có hai 11
  17. loại chủ thể giáo dục pháp luật: chủ thể chuyên nghiệp và chủ thể không chuyên nghiệp. Chủ thể chuyên nghiệp được hiểu là người có chức năng, nhiệm vụ chủ yếu, trực tiếp, thường xuyên thực hiện nhiệm vụ giáo dục pháp luật. Đó là các giáo viên giảng dạy pháp luật trong các nhà trường, các báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật, các biên tập viên, phát thanh viên, ban biên tập các tạp chí, sách báo có liên quan đến giáo dục pháp luật, các cá nhân, tổ chức quản lý về công tác giáo dục pháp luật, các cá nhân, tổ chức thực hiện công tác bảo vệ pháp luật, tổ chức trợ giúp pháp lý cán bộ làm công tác nghiên cứu, chỉ đạo hoạt động giáo dục pháp luật chủ thể chuyên nghiệp, là lực lượng nòng cốt trong công tác giáo dục pháp luật. Chủ thể không chuyên nghiệp là những người mà tuy chức năng chính không phải là giáo dục pháp luật nhưng một trong các nhiệm vụ của họ là bằng hoặc thông qua các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ để thực hiện các mục đích giáo dục pháp luật. Họ làm việc ở nhiều lĩnh vực, cơ quan khác nhau như các đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, các cán bộ cơ quan hành pháp, tư pháp, các luật gia, luật sư, công chứng viên chủ thể không chuyên nghiệp tuy không giữ vị trí nòng cốt nhưng có vai trò rất quan trọng. Nhờ những chủ thể không chuyên nghiệp nên công tác giáo dục pháp luật được triển khai rộng rãi đến mọi tầng lớp nhân dân, mọi đối tượng. Điều đó tạo được sức mạnh tổng hợp và đồng bộ cho công tác giáo dục pháp luật. Ở Việt Nam, trong những năm qua cũng đã hình thành một đội ngũ đông đảo những chủ thể chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp tham gia vào công tác phổ biến giáo dục pháp luật. Các chủ thể này đã có cố gắng rất nhiều để đóng góp vào việc thực hiện các nội dung, mục đích giáo dục pháp luật trong từng thời kỳ. Tuy nhiên, để công tác giáo dục pháp luật đạt hiệu quả thì đòi hỏi chủ thể giáo dục pháp luật phải là người có kiến thức pháp luật, nắm vững chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, có phẩm chất chính trị vững vàng, tư cách đạo đức tốt có tinh thần trách nhiệm và khả năng hoàn thành công việc được giao. 12
  18. Vì vậy, ngoài chủ thể chuyên nghiệp, cần thu hút đội ngũ những người là sư cả, trưởng ấp, khóm, tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của họ trong việc phổ biến, giáo dục pháp luật là rất cần thiết, có hiệu quả. Nếu các thành phần này nắm chắc pháp luật, sẽ thúc đẩy hiệu quả việc phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp, loại trừ những hủ tục lạc hậu, thông qua họ tác động tới trình độ nhận thức pháp luật của từng người dân, dẫn dắt họ, giúp họ hiểu và từng bước thực hiện pháp luật, thực hiện các quy ước của ấp, khóm, xây dựng đời sống văn hóa mới Để có thể thu hút được đội ngũ này vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật thì đòi hỏi các cơ quan chức năng cần có những chính sách, chế độ và biện pháp nâng cao năng lực cho họ - đó là: Tổ chức bồi dưỡng, trang bị kiến thức pháp luật cần thiết, tạo điều kiện cho đội ngũ những người là sư cả, người có uy tín, trưởng ấp, khóm tiếp cận, cập nhật những văn bản, những thông tin pháp lí cần thiết như: Sử dụng tủ sách pháp luật ở cơ sở, tổ chức các lớp bồi dưỡng, đào tạo ngắn hạn để có thể nâng cao hiểu biết của họ về pháp luật, có chế độ, chính sách quan tâm ưu đãi, coi trọng và sử dụng đội ngũ sư cả, trưởng ấp, khóm, phát huy vai trò của họ, những người tiêu biểu có uy tín lớn trong cộng đồng. 1.1.2.2. Đặc điểm về nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục pháp luật * Đặc điểm về nội dung giáo dục pháp luật Nội dung giáo dục pháp luật là yếu tố quan trọng của quá trình giáo dục pháp luật. Xác định đúng nội dung giáo dục pháp luật là đảm bảo cần thiết để giáo dục pháp luật có hiệu quả. Nội dung giáo dục pháp luật được xác định dựa trên cơ sở mục đích của giáo dục pháp luật là hình thành ở đối tượng giáo dục hệ thống tri thức pháp luật, tình cảm, lòng tin và thói quen hành động phù hợp với yêu cầu của pháp luật. Do đó, nội dung của giáo dục pháp luật nói chung bao gồm việc cung cấp một cách thường xuyên, có hệ thống các loại thông tin về pháp luật và thực tiễn thi hành, bảo vệ pháp luật. Đó là một phạm vi rộng bao gồm các kiến thức pháp luật cơ bản như lý luận khoa học về pháp luật, các ngành luật, các văn bản pháp luật thực định, các thông tin về việc thực hiện pháp luật, về điều tra, xét xử các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, các thông tin hướng dẫn hành vi pháp luật cụ thể của công dân như 13
  19. thực hiện quyền và nghĩa vụ theo pháp luật, các quy định và thủ tục để bảo vệ lợi ích của Nhà nước và xã hội, các quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và công dân. Tuy nhiên, mức độ về nội dung giáo dục pháp luật phải được xác định cho từng nhóm đối tượng cụ thể thì mới có hiệu quả thiết thực trong việc giáo dục pháp luật. - Mức độ tối thiểu về nội dung giáo dục pháp luật cho mọi công dân Các nội dung tối thiểu có thể là những thông tin về một số quyền và nghĩa vụ pháp lý cơ bản của công dân và việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó. Bởi lẽ, sống trong một xã hội được quản lý bằng pháp luật thì mỗi công dân phải có những hiểu biết tối thiểu về pháp luật và có kỹ năng tối thiểu để sử dụng pháp luật nhằm thực hiện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của mình. - Mức độ giáo dục pháp luật theo nhu cầu ngành nghề. Trong xã hội có rất nhiều ngành nghề khác nhau ở các lĩnh vực kinh tế, kỹ thuật, văn hóa - xã hội khác nhau. Ngoài kiến thức pháp luật cơ bản thường gặp trong thực tiễn, nội dung giáo dục pháp luật theo ngành nghề còn bao gồm một số văn bản luật có liên quan trực tiếp đến lĩnh vực hoạt động cụ thể. Bởi vậy, những người hoạt động trong các lĩnh vực đó cần phải có hiểu biết và kỹ năng sử dụng pháp luật ở mức cao hơn, mang tính định hướng nghề nghiệp rõ hơn. - Mức độ giáo dục pháp luật chuyên ngành cho những người hành nghề pháp luật. Đây là mức độ cao nhất của nội dung giáo dục pháp luật nhằm mục đích đào tạo những người, những tổ chức chuyên hành nghề pháp luật. Như vậy, từ việc xác định phạm vi và mức độ về nội dung giáo dục pháp luật đặt ra yêu cầu phải nghiên cứu đặc điểm đặc thù của từng loại đối tượng cụ thể, áp dụng hợp lý các hình thức, phương pháp giáo dục của các chủ thể khác nhau để đảm bảo được toàn bộ nội dung giáo dục với phạm vi, cấp độ khác nhau, với từng loại đối tượng khác nhau. Có thể thấy, giáo dục pháp luật có những nét đặc trưng sau: 14