Luận văn Giải quyết việc làm theo pháp luật lao động Việt Nam và thực tiễn thực hiện tại Thành phố Đà Nẵng

pdf 78 trang vuhoa 25/08/2022 11241
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Giải quyết việc làm theo pháp luật lao động Việt Nam và thực tiễn thực hiện tại Thành phố Đà Nẵng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_giai_quyet_viec_lam_theo_phap_luat_lao_dong_viet_na.pdf

Nội dung text: Luận văn Giải quyết việc làm theo pháp luật lao động Việt Nam và thực tiễn thực hiện tại Thành phố Đà Nẵng

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHÙNG THỊ HOÀI THƢƠNG GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM THEO PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số : 60 38 01 07 ĐÀ NẴNG - 2015
  2. LỜI CẢM ƠN Hoàn thành được luận văn này tôi đã nhận được rất nhiều sự động viên, giúp đỡ của rất nhiều cá nhân và tập thể. Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến giáo viên hướng dẫn – Tiến sĩ Nguyễn Am Hiểu, người đã đã tận tình hướng dẫn tôi trong quá trình thực hiện luận văn. Xin cùng bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các quý thầy cô giáo, người đã đem lại cho tôi những kiến thức bổ trợ, vô cùng có ích trong những năm học vừa qua. Cũng xin gửi lời cám ơn chân thành tới Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo, Khoa Sau đại học, Khoa Luật trường Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong quá trình học tập và viết luận văn này. Hà Nội, tháng 12 năm 2015 Học viên Phùng Thị Hoài Thương 2
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. NGƢỜI CAM ĐOAN 3
  4. MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT PHẦN MỞ ĐẦU Chƣơng 1. Khái niệm chung về giải quyết việc làm và pháp luật về giải quyết việc làm . . 11 1.1. Khái niệm chung về giải quyết việc làm 11 1.1.1. Quan niệm về việc làm và giải quyết việc làm . .11 1.1.2. Vai trò của giải quyết việc làm . 16 1.2. Pháp luật về giải quyết việc làm . 19 1.2.1. Nguyên tắc cơ bản của pháp luật về giải quyết việc làm 19 1.2.2. Nội dung cơ bản của pháp luật về giải quyết việc làm 22 Chƣơng 2. Thực trạng pháp luật về giải quyết việc làm và thực tiễn giải quyết việc làm tại thành phố Đà Nẵng 28 2.1. Pháp luật về giải quyết việc làm từ năm 1945 đến nay .28 2.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1954 28 2.1.2. Giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1985 .30 2.1.3. Giai đoạn từ năm 1985 đến năm 1993 .33 2.1.4. Giai đoạn từ năm 1994 đến năm 2012 34 2.1.5. Giai đoạn từ năm 2013 đến nay 36 2.2. Thực trạng pháp luật về giải quyết việc làm 36 2.2.1. Về trách nhiệm của các bên trong giải quyết việc làm 36 2.2.2. Giải quyết việc làm cho lao động đặc thù .43 2.2.3. Tổ chức dịch vụ việc làm 47 2.2.4. Quỹ giải quyết việc làm .48 2.3. Thực tiễn giải quyết việc làm tại thành phố Đà Nẵng 53 2.2.1. Điều kiện tự nhiên – xã hội . 53 2.2.2. Thực tiễn giải quyết việc làm tại Thành phố Đà Nẵng .57 Chƣơng 3. Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của giải quyết việc làm ở Việt Nam và Thành phố Đà Nẵng 63 4
  5. 3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về giải quyết việc làm ở Việt Nam 63 3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về việc làm và giải quyết việc làm phải đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. . 63 3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về việc làm và giải quyết việc làm phải phù hợp với xu thế chung toàn cầu và hội nhập quốc tế .64 3.2. Giải pháp hoàn thiện các quy định về giải quyết việc làm trong của pháp luật lao động Việt Nam 65 3.2.1. Xây dựng, ban hành và sửa đổi, bổ sung một số quy định pháp luật về giải quyết việc làm . 65 3.2.2. Hoàn thiện khung pháp luật về việc làm .65 3.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết việc làm tại thành phố Đà Nẵng 66 3.3.1. Tăng cường các yếu tố đẩy mạnh phát triển kinh tế tạo việc làm mới. 66 3.3.2 Đẩy mạnh đào tạo nghề, phát triển nguồn nhân lực 67 3.3.3. Phát triển nguồn vốn, phát huy hiệu quả sử dụng vốn cho vay giải quyết việc làm, giảm nghèo 68 3.3.4. Đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài 69 3.3.5. Hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao động 69 3.3.6. Nâng cao hiệu quả các Trung tâm dịch vụ việc 70 3.3.7. Tổ chức thực hiện . . 70 KẾT LUẬN 75 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 76 5
  6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLLĐ Bộ luật lao động TTDVVL Trung tâm dịch vụ việc làm XKLĐ Xuất khẩu lao động QGQVL Quỹ giải quyết việc làm GDP Tổng sản phẩm nội địa ILO Tổ chức lao động quốc tế WTO Tổ chức Thương mại Thế giới ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á AFTA Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN 6
  7. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hoạt động kiếm sống là hoạt động quan trọng nhất của thế giới động vật nói chung và của con người nói riêng. Tuy nhiên, đối với con người kiếm sống không chỉ là hoạt động đơn thuần giúp con người thích ứng với thiên nhiên, với điều kiện sống mà qua đó còn cải tạo con người, biến con người từ sinh vật hoang dã thành sinh vật xã hội có ý thức, tham gia vào các quan hệ xã hội. Hoạt động kiếm sống của con người được gọi chung là việc làm hoặc thực hiện việc làm. Trong nền kinh tế thị trường, việc làm và thất nghiệp là vấn đề mang tính tính chất toàn cầu, vấn đề này không loại trừ một quốc gia nào dù đó là nước đang phát triển hay nước có nền kinh tế phát triển. Giải quyết việc làm, chống thất nghiệp luôn là vấn đề nan giải. Với ý nghĩa của việc làm, Đảng và nhà nước ta đã đề ra quan điểm đảm bảo việc làm cho người dân là mục tiêu xã hội hàng đầu. Giải quyết việc làm, đảm bảo cho mọi người có khả năng lao động, có nhu cầu làm việc đều có cơ hội có việc làm là trách nhiệm của các cấp, các ngành và của toàn xã hội. Đặc biệt trong bối cảnh suy thoái kinh tế ở Việt Nam hiện nay thì vấn đề việc làm và giải quyết việc làm lại càng trở nên cấp thiết hơn. Thành phố Đà Nẵng là một trong những vùng kinh tế trọng điểm của nước ta nói chung và của khu vực Miền trung nói riêng. Đây là nơi có nhiều điều kiện tự nhiên thuận lợi, lực lượng lao động dồi dào. Trong những năm gần đây, sự quy hoạch đất đai tốt đã tạo nên một thành phố Đà Nẵng trẻ, đầy tiềm năng, đã thu hút đông đảo người dân ở các tỉnh lân cận đến sống và làm việc. Do đó, vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động trên địa bàn thành phố là hết sức quan trọng, góp phần không nhỏ cho sự phát triển bền vững của một Thành phố được coi là trung tâm của miền trung. Chính vì thế tôi chọn đề tài “Giải quyết việc làm theo pháp luật lao động Việt Nam và thực tiễn thực hiện tại thành phố Đà Nẵng” làm luận văn Thạc sỹ luật học của mình với mong muốn góp phần hoàn 7
  8. thiện pháp luật về việc làm và giải quyết việc làm ở Việt Nam nói chung và thực tiễn giải quyết việc làm ở Thành phố Đà Nẵng nói riêng. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Lao động và việc làm có vai trò rất quan trọng, cho nên đề tài về lĩnh vực này luôn tạo sức hút mạnh mẽ cho các nhà nghiên cứu, những chuyên gia kinh tế pháp lý tiến hành nghiên cứu, tìm hiểu và đưa ra nhiều đề tài khoa học có giá trị. Cho đến nay, đã có nhiều bài viết, nhiều đề tài, công trình nghiên cứu khoa học về vấn đề này. Dưới góc độ kinh tế - xã hội có thể kể tới một số bài viết trên các tạp chí như: “Giải quyết việc làm trong thời kỳ hội nhập” của tác giả Nguyễn Thị Kim Ngân (Tạp chí Cộng sản số 23 năm 2007), “Giải quyết việc làm cho lao động Việt Nam: Nghịch lý thiếu, thừa” của tác giả Lan Ngọc (Báo Lao động số 291 ngày 16/12/2008), “Pháp luật lao động trong quá trình toàn cầu hóa” của tác giả Phạm Trọng Nghĩa (Tạp chí nghiên cứu Lập pháp số 11 năm 2008), “Việc làm trong hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta” của tác giả Nguyễn Tiệp (Tạp chí Lao động – Xã hội số 394 năm 2010), “Cho thuê lại lao động và những yêu cầu đặt ra đối với việc điều chỉnh pháp luật lao động Việt Nam” của tác giả Lê Thị Hoài Thu (Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 28 năm 2012). Bên cạnh đó là các đề tài khoa học: “Đánh giá việc thực hiện chiến lược việc làm giai đoạn 2001-2005 và xây dựng chiến lược việc làm trong kỳ đại hội X” của Viện Khoa học Lao động xã hội năm 2004, “Nghiên cứu, đánh giá tác động về lao động, việc làm và xã hội sau khi Việt Nam gia nhập WTO và đề xuất những giải pháp” của Cục Việc làm năm 2008, “Pháp luật lao động về việc làm – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Nguyễn Thắng Lợi năm 2010, “Pháp luật về quan hệ lao động Việt Nam – Thực trạng và phương pháp hoàn thiện” của ĐHQGHN do PGS.TS Lê Thị Hoài Thu chủ trì. Một số công trình nghiên cứu dưới góc độ pháp lý như: Luận văn Thạc sỹ luật học: “Việc làm và quy định của pháp luật về việc làm ở Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Nguyễn Văn Quynh (2003), “Pháp luật 8
  9. lao động về việc làm và giải quyết việc làm ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập” của tác giả Đinh Thị Nga Phượng (năm 2011), “Những vấn đề pháp lý cơ bản về việc làm và giải quyết việc làm trong bối cảnh suy thoái kinh tế ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Lâm Thị Thu Huyền (2011). Ngoài ra, một số chuyên đề tốt nghiệp như: “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách giải quyết việc làm cho người lao động trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng” của Đặng Phước Tuấn (2005),“Giải quyết việc làm cho người lao động thông qua trung tâm dịch vụ việc làm ở Thành phố Đà Nẵng” của Huỳnh Thị Thu Hiền (2007). Các công trình nên trên đã đề cập một cách toàn diện các quy định pháp luật về việc làm và giải quyết việc làm trên cả bình diện lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, để có cái nhìn đa chiều và góp thêm tiếng nói nhằm hoàn thiện pháp luật giải quyết việc làm trong giai đoạn hiện nay là việc làm hết sức cần thiết, đặc biệt thực tiễn giải quyết việc làm tại Thành phố Đà Nẵng để góp phần làm sáng tỏ thêm kho tàng lý luận về giải quyết việc làm ở nước ta trong điều kiện hội nhập nền kinh tế thế giới. 3. Mục đích của việc nghiên cứu đề tài Luận văn nghiên cứu với mục đích: - Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về việc làm, giải quyết việc làm; phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về giải quyết việc làm. - Phân tích và đánh giá thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về giải quyết việc làm tại Thành phố Đà Nẵng. - Đề xuất các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật lao động về giải quyết việc làm và một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết việc làm tại Thành phố Đà Nẵng 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng và 9
  10. Nhà nước ta về phát triển kinh tế - xã hội, về vấn đề việc làm và giải quyết việc làm. Trong quá trình nghiên cứu các tác giả sẽ vận dụng các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để phân tích làm sáng tỏ các nội dung nghiên cứu. Ngoài ra, luận văn sử dụng các phương pháp chủ yếu như: phương pháp phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh, thống kê, điều tra làm cơ sở cho quá trình nghiêm cứu. 5. Ý nghĩa luận văn và thực tiễn của luận văn Với kết quả nghiên cứu nêu trên, luận văn là nguồn tài liệu tham khảo cho sinh viên các trường đại học chuyên luật và không chuyên luật cũng như cán bộ nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách khi nghiên cứu về lĩnh vực này. Bên cạnh đó, các cá nhân quan tâm, tìm hiểu pháp luật về giải quyết việc làm, về thực tiễn thực hiện các chính sách giải quyết việc làm tại Thành phố Đà Nẵng cũng có thể tham khảo. Về mặt thực tiễn, luận văn góp phần thiết thực trong việc giải quyết hiệu quả vấn đề việc làm trong phạm vi cả nước nói chung và tại thành phố Đà Nẵng nói riêng. 6. Kết cấu của luận văn Kết cấu của luận văn được xây dựng phù hợp với mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu. Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm có ba chương: Chương 1: Khái quát chung về giải quyết việc làm và pháp luật về giải quyết việc làm. Chương 2: Thực trạng pháp luật về giải quyết việc làm và thực tiễn giải quyết việc làm tại Thành phố Đà Nẵng. Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiểu quả giải quyết việc làm ở Việt Nam và thực tiễn tại Thành phố Đà Nẵng. 10
  11. Chương 1: Khái quát chung về giải quyết việc làm và pháp luật về giải quyết việc làm 1.1. Khái quát chung về giải quyết việc làm 1.1.1. Quan niệm việc làm và giải quyết việc làm 1.1.1.1. Quan niệm việc làm Việc làm có thể coi là sự tham gia của một cá thể vào tập hợp các hoạt động có liên quan đến việc sản xuất ra một sản phầm hay dịch vụ nào đó mà người khác có của cải và mong muốn mua được nó. Việc làm được coi là một trong những vấn đề sống còn của toàn xã hội. Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm. Có thể nhìn nhận việc làm ở hai góc độ khác nhau: dưới góc độ kinh tế - xã hội và dưới góc độ pháp lý. - Dưới góc độ kinh tế - xã hội: Với mỗi quốc gia, việc làm là phản ánh quan trọng về thực trạng phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia đó, nó luôn là vấn đề được xã hội quan tâm hàng đầu không chỉ ở riêng một quốc gia nào mà còn là vấn đề có tính toàn cầu, phản ánh sự phát triển của lao động xã hội. Hoạt động kiếm sống là hoạt động quan trọng nhất của thế giới động vật nói chung và con người nói riêng. Tuy nhiên, đối với con người, kiếm sống không phải là hoạt động sinh vật đơn thuần giúp con người thích ứng với tự nhiên, với điều kiện sống mà qua đó còn cải tạo con người, biến con người từ sinh vật hoang dã thành sinh vật xã hội, có ý thức, tham gia các quan hệ xã hội, hình thành xã hội. Theo Phó cố vấn kinh tế Giăng Mu-tê, Văn phòng lao động quốc tế: “Việc làm có thể được định nghĩa như một tình trạng trong đó có sự trả công bằng tiền hoặc hiện vật, có một sự tham gia tích cực, có tính chất cá nhân và trực tiếp vào nỗ lực sản xuất” [9, trang 10-11] Theo Guy Hân-tơ, Viện phát triển hải ngoại Luân-đôn (Anh): “Việc làm theo nghĩa rộng là toàn bộ các hoạt động kinh tế của một xã hội, nghĩa là tất cả 11
  12. những gì quan hệ đến việc kiếm sống của con người, kể cả các quan hệ xã hội và các tiêu chuẩn hành vi tạo thành khuôn khổ của quá trình kinh tế”. Giáo sư Sô-nin và Phó Tiến sỹ Ê. Jit-nốp (Liên Xô cũ) lại cho rằng: “Việc làm là sự tham gia của người có khả năng lao động vào một hoạt động xã hội có ích trong khu vực xã hội hóa của sản xuất, trong học tập, trong công việc nội trợ, trong kinh tế phụ của công trang viên”. Đối với Tổ chức lao động quốc tế (ILO), thuật ngữ “việc làm” được đề cập trong nhiều văn kiện như Tuyên ngôn Philadenphia năm 1944; “Chương trình việc làm thế giới” năm 1969; Tuyên bố tại Hội nghị việc làm thế giới năm 1976; Công ước số 22 năm 1964 nhưng trong các văn kiện này chưa nêu ra khái niệm “việc làm”. Đến tận Hội nghị quốc tế lần thứ 13 năm 1993 của các nhà thống kê lao động, ILO mới đưa ra quan niệm về người có việc làm và người thất nghiệp. Theo đó, người có việc làm được hiểu là những người làm một việc gì đó được trả tiền công, lợi nhuận hoặc được thanh toán bằng hiện vật hoặc những người tham gia vào các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập gia đình không được nhận tiền công hoặc hiện vật; còn người thất nghiệp là những người không có việc làm nhưng đang tích cực tìm việc làm hoặc đang chờ trở lại việc làm. Gần đây nhất, năm 2005, Tổ chức Lao động quốc tế đã đưa vào Từ điển chuyên ngành khái niệm “việc làm”. Theo đó, “Việc làm là một công việc được trả công. Việc làm cũng đề cập đến số người tự tạo việc làm và tham gia làm việc để được trả công” [21]. Đây là khái niệm ngắn gọn, chỉ chung chung đến những công việc do cá nhân thực hiện cho chính bản thân hoặc cho chủ thể khác để được trả công. Có thể còn có nhiều khái niệm khác nữa về việc làm. Nhưng dù ở góc độ nào, khái niệm đó đều thể hiện các tiêu chí định danh việc làm là những dạng hoạt động lao động, trong đó có việc người lao động chi phí sức lao động của mình với mục đích giành được lợi ích (thu nhập) nào đó, nhằm thỏa mãn như cầu của bản thân, gia đình và xã hội. 12
  13. Hoạt động lao động được coi là việc làm có thể được thể hiện dưới các hình thức khác nhau, đó là: làm các công việc để nhận tiền công, tiền lương bằng tiền mặt hoặc hiện vật cho công việc đó; làm các công việc để thu lợi nhuận cho bản thân; làm công việc cho hộ gia đình mình nhưng không được trả thù lao dưới hình thức tiền công, tiền lương cho công việc đó. Như vậy, dù ở hình thức nào, được trả thù lao trực tiếp hay gián tiếp, thù lao đó được thể hiện bằng tiền mặt hay lợi ích vật chất khác thì việc làm cũng luôn thể hiện là các hoạt động tiềm tàng khả năng tạo ra lợi ích hay thu nhập cho người bỏ sức lao động tiến hành hoạt động đó. Như vậy, xét về phương diện kinh tế - xã hội, có thể hiểu việc làm là các hoạt động lao động, tạo ra, đem lại lợi ích, thu nhập và việc làm là dạng hoạt động của mỗi cá nhân nhưng lại luôn gắn liền với xã hội và được xã hội công nhận. - Dưới góc độ pháp lý: Quyền có việc làm được coi là quyền hiến định của mọi công dân. Tuy nhiên, trước năm 1986, khái niệm việc làm chỉ bó hẹp trong phạm vi những gì mà pháp luật cho phép. Trong giai đoạn này, chỉ những người trong biên chế Nhà nước hoặc là xã viên hợp tác xã mới được coi là có việc làm nghiêm chỉnh. Quan niệm này xuất phát từ việc đề cao các hình thức sở hữu được coi là thể hiện bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa là quốc doanh và tập thể. Bên cạnh đó, luật pháp cũng không thừa nhận sức lao động là một loại hàng hóa, không thừa nhận có sự tồn tại của các hiện tượng kinh tế - xã hội như thất nghiệp, thị trường lao động, quyền tự do kinh doanh của người dân. Nhà nước là chủ sở hữu lớn nhất và cũng là chủ sử dụng lao động lớn nhất của nền kinh tế, có trách nhiệm đảm bảo việc làm cho mọi người lao động theo kế hoạch. Từ quan niệm trên, các quy định pháp lý về vấn đề việc làm chủ yếu thể hiện các chế độ như tuyển dụng lao động, cho thôi việc đối với công nhân viên chức Nhà nước. Nhà nước lo tất cả mọi vấn đề về việc làm cho lực lượng lao động trong biên chế từ tiền lương, các chế độ bảo hiểm xã hội cũng như các ưu đãi, phúc lợi xã hội 13
  14. khác. Do vậy, khi đề cập đến việc làm ở khía cạnh pháp lý, người ta thường cho rằng việc làm trước hết là quyền của người lao động. Điều 58 Hiến pháp 1980 khẳng định: “công dân có quyền có việc làm”. Từ khi chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ chế giải quyết việc làm đã có những thay đổi căn bản. Điều 55, Hiến pháp 1992 khẳng định: “Lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân. Nhà nước và xã hội có kế hoạch tạo ngày càng nhiều việc làm cho người lao động”. Trong bối cảnh đó trên cơ sở tiếp thu và vận dụng có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế và hoàn cảnh nước ta, Bộ luật Lao động được Quốc hội thông qua ngày 23/6/1994 đã quy định tại Điều 13: “Mọi hoạt động lao động tạo ra thu nhập không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm” và Điều 5, BLLĐ năm 1994 khẳng định quyền làm việc và tự do lựa chọn việc làm: “Mọi người đều có quyền có việc làm, lựa chọn việc làm và nghề nghiệp Mọi hoạt động tạo ra việc làm, tự tạo việc làm, dạy nghê và học nghề để có việc làm, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh thu hút nhiều lao động đều được Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi hoặc giúp đỡ”. Xét về mặt lịch sử pháp lý, đây là lần đầu tiên quan niệm về việc làm được ghi nhận trong một văn bản pháp luật quan trọng của Nhà nước. Trước đó, trong các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực lao động, tuy có ít nhiều đề cập đến vấn đề việc làm nhưng chủ yếu là đề cập ở góc độ các cơ chế, chính sách bảo đảm việc làm cho người lao động, chứ chưa đưa ra một quan niệm hay định nghĩa chính thức về việc làm. Khái niệm về việc làm được ghi nhận tại BLLĐ năm 1994 vẫn được giữ nguyên qua các lần sửa đổi, bổ sung năm 2002, 2006 và 2007. Đến BLLĐ năm 2012, quan niệm về việc làm mặc dù được diễn đạt một cách ngắn gọn hơn nhưng về cơ bản vẫn giống như quan niệm tại Điều 13, BLLĐ năm 1994: “Việc làm là hoạt động lao động tạo ra thu nhập mà không bị pháp luật cấm” (Điều 9). 14
  15. Như vậy, trên cơ sở những quy định của BLLĐ, ta có thể hiểu một cách khái quát nhất: Việc làm là một dạng hoạt động lao động, mang lại thu nhập cho người lao động và được xã hội thừa nhận. Từ quan niệm trên cho thấy, việc làm được cấu thành bởi ba yếu tố: Thứ nhất, là hoạt động lao động, thể hiện sự tác động của sức lao động của con người vào tư liệu sản xuất để tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ. Thứ hai, việc làm tạo ra thu nhập, điều này chỉ rõ tính chất hữu ích và nhấn mạnh tiêu thức tạo ra thu nhập của việc làm. Những hoạt động của con người dù có tiêu tốn sức lực mà không tạo ra thu nhập, tức không vì mục đích kiếm sống thì không được thừa nhận là việc làm. Thứ ba, hoạt động đó không bị pháp luật cấm. Điều này chỉ rõ tính chất pháp lý của việc làm. Hoạt động có ích không giới hạn về phạm vi, ngành nghề và hoàn toàn phù hợp với sự phát triển của thị trường lao động ở Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế nhiều thành phần. Người lao động hợp pháp ngày nay được đặt vào vị trí chủ thể, có quyền tự do hành nghề, tự do liên doanh liên kết, tự do tìm kiếm việc làm, tự do thuê mướn lao động trong khuôn khổ của pháp luật, không bị phân biệt đối xử dù làm việc trong hay ngoài khu vực Nhà nước. Điều này còn khẳng định tính chất pháp lý trong hoạt động của người lao động thuộc khu vực ngoài Nhà nước và các khu vực phi chính thức. Quan niệm về việc làm theo quy định tại BLLĐ năm 1994 và BLLĐ năm 2012 đã tiếp thu có chọn lọc các quan điểm, khái niệm về việc làm trên thế giới. Nó mang tính khái quát cao và nêu bật được các yếu tố cấu thành việc làm. Quan niệm một cách đúng đắn về việc làm sẽ là cơ sở để ban hành những chính sách đảm bảo việc làm và giải quyết tốt vấn đề việc làm ở nước ta. 1.1.1.2. Quan niệm giải quyết việc làm Giải quyết việc làm là một quá trình tạo ra môi trường hình thành các chỗ làm và sắp xếp người lao động phù hợp với chỗ làm việc để có các chỗ làm việc 15
  16. chất lượng, đảm bảo nhu cầu của cả người lao động và người sử dụng lao động, đồng thời đáp ứng mục tiêu phát triển đất nước. Giải quyết việc làm không chỉ là trách nhiệm của nhà nước mà là trách nhiệm chung của toàn xã hội, các doanh nghiệp và ngay cả bản thân của người lao động. Hiện nay, các chính sách của nhà nước luôn quan tâm chú trọng đến việc tạo công ăn việc làm cho người lao động thông qua các văn bản quy phạm pháp luật, các chương trình, chính sách hỗ trợ tới tận hộ gia đình, các cá nhân sẵn sàng làm việc. Chính vì vậy, chính sách nhà nước là một trong những yếu tố quan trọng tác động rất mạnh đến việc làm của người lao động, khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh như giảm thuế sử dụng đất, thuê nhà xưởng, văn phòng, hỗ trợ về cơ sở hạ tầng nhằm phục vụ cho các công trình sản xuất. Chính sách nhà nước tác động toàn diện đến vấn đề giải quyết việc làm. Bên cạnh đó, các chương trình, chiến lược phát triển, các hoạt động cụ thể của các doanh nghiệp tác động trực tiếp đến giải quyết việc làm cho người lao động như đào tạo nghề, tuyển dụng, bố trí sản xuất phù hợp với nguồn lực và yêu cầu. Giải quyết việc làm còn có một ý nghĩa là tạo thêm được công ăn việc làm mới cho người lao động. Ở đây là tạo thêm công ăn việc làm mới cho người lao động mang tính chất là người lao động đang không có việc làm nay có việc làm chứ không phải người lao động đang đi làm có thêm việc làm khác nữa. Vậy nên giải quyết việc làm là tạo thêm việc làm mới từ các cơ chế chính sách của nhà nước cũng như việc tuyển dụng thêm lao động của các doanh nghiệp. Ngoài ra, hình thành môi trường cho sự kết hợp các yếu tố sức lao động và tư liệu sản xuất. Ở đó thông qua cơ chế chính sách khuyến khích thu hút của nhà nước, thông qua sự hoạt động đầu tư của nhà sản xuất nhằm tạo thêm nơi làm việc mà người lao động có thể vận dụng sức lao động của mình vào sản xuất của cải cho xã hội. 1.1.2. Vai trò của việc làm và giải quyết việc làm 1.1.2.1. Vai trò của việc làm 16
  17. Việc làm có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, nó không thể thiếu đối với từng cá nhân và toàn bộ nền kinh tế, là vấn đề cốt lõi và xuyên suốt trong các hoạt động kinh tế, có mối quan hệ mật thiết với kinh tế và xã hội, nó chi phối toàn bộ mọi hoạt động của cá nhân và xã hội. Thứ nhất, đối với từng cá nhân thì có việc làm đi đôi với có thu nhập để nuôi sống bản thân mình, vì vậy nó ảnh hưởng trực tiếp và chi phối toàn bộ đời sống của cá nhân. Việc làm ngày nay gắn chặt với trình độ học vấn, trình độ tay nghề của từng cá nhân, thực tế cho thấy những người không có việc làm thường tập trung vào những vùng nhất định (vùng đông dân cư khó khăn về điều kiện tự nhiên, cơ sở hạ tầng, ), vào những nhóm người nhất định (lao động không có trình độ tay nghề, trình độ văn hoá thấp, ). Việc không có việc làm trong dài hạn còn dẫn tới mất cơ hội trau dồi, nắm bắt và nâng cao trình độ kĩ năng nghề nghiệp làm hao mòn và mất đi kiến thức, trình độ vốn có. Ở khía cạnh pháp lý, có việc làm là quyền cơ bản của con người. Mỗi cá nhân có khả năng lao động, có nhu cầu lao động đều có quyền được làm việc để tạo ra thu nhập cho bản thân nếu hoạt động đó không trái pháp luật. Điều này đã được ghi nhận trong nhiều văn bản pháp luật quốc tế và pháp luật của nhiều nước. Điều 2 Tuyên ngôn về quyền con người năm 1948 của Liên hợp quốc ghi nhận: “Mọi người đều có quyền làm việc, tự do chọn nghề, được có những điều kiện làm việc thuận lợi và chính đáng và được bảo vệ chống lại thất nghiệp”. Điều 1 Công ước số 122 của ILO về chính sách việc làm năm 1964 cũng nêu rõ: “Các nước thành viên phải tuyên bố và áp dụng một chính sách tích cực nhằm xúc tiến toàn dụng lao động, có năng suất và được tự do lựa chọn” cho người lao động. Ngay tại điều 5 BLLĐ năm 1994 của Việt Nam cũng khẳng định: “Mọi người đều có quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm và nghề nghiệp, học nghề và nâng cao trình độ nghề nghiệp, không bị phân biệt đối xử về giới tính, dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo”. Về mặt pháp lý, những quy định trên của quốc tế cũng như của quốc gia là cơ sở pháp lý để đảm bảo cho mỗi cá nhân đều có việc làm và thu nhập, có được cuộc sống ổn định và bền vững, đáp ứng nhu cầu tối thiểu của con người. 17
  18. Thứ hai, đối với kinh tế thì lao động là một trong những nguồn lực quan trọng, là đầu vào không thể thay thế đối với một số ngành, vì vậy nó là nhân tố tạo nên tăng trưởng kinh tế và thu nhập quốc dân, nền kinh tế luôn phải đảm bảo tạo cầu và việc làm cho từng cá nhân sẽ giúp cho việc duy trì mối quan hệ hài hoà giữa việc làm và kinh tế, tức là luôn bảo đảm cho nền kinh tế có xu hướng phát triển bền vững, ngược lại nó cũng duy trì lợi ích và phát huy tiềm năng của người lao động. Thứ ba, đối với xã hội thì mỗi một cá nhân, gia đình là một yếu tố cấu thành nên xã hội, vì vậy việc làm cũng tác động trực tiếp đến xã hội, một mặt nó tác động tích cực, mặt khác nó tác động tiêu cực. Khi mọi cá nhân trong xã hội có việc làm thì xã hội đó được duy trì và phát triển do không có mâu thuẫn nội sinh trong xã hội , không tạo ra các tiêu cực, tệ nạn trong xã hội, con người được dần hoàn thiện về nhân cách và trí tuệ Ngược lại khi nền kinh tế không đảm bảo đáp ứng về việc làm cho người lao động có thể dẫn đến nhiều tiêu cực trong đời sống xã hội và ảnh hưởng xấu đến sự phát triển nhân cách con người. Con người có nhu cầu lao động ngoài việc đảm bảo nhu cầu đời sống còn đảm bảo các nhu cầu về phát triển và tự hoàn thiện, vì vậy trong nhiều trường hợp khi không có việc làm sẽ ảnh hưởng đến lòng tự tin của con người, sự xa lánh cộng đồng và là nguyên nhân của các tệ nạn xã hội. Ngoài ra khi không có vệc làm trong xã hội sẽ tạo ra các hố ngăn cách giàu nghèo là nguyên nhân nảy sinh ra các mâu thuẫn và nó ảnh hưởng đến tình hình chính trị. Vai trò của việc làm đối với từng cá nhân, kinh tế, xã hội là rất quan trọng. Vì vậy, để đáp ứng được nhu cầu việc làm của toàn xã hội đòi hỏi Nhà nước phải có những chiến lược, kế hoạch cụ thể đáp ứng được nhu cầu này. 1.1.2.2. Vai trò của giải quyết việc làm Giải quyết việc làm là một trong những chính sách xã hội cơ bản của mọi quốc gia nhằm góp phần đảm bảo an toàn, ổn định và phát triển xã hội. Hội nghị thượng đỉnh Cophenhagen, 3/1995 coi mở rộng việc làm là một trong những nội dung cơ bản nhất của chiến lược phát triển xã hội của các nước trên thế giới năm 18
  19. 2010. Đối với nước ta, giải quyết việc làm cho người lao động, hạn chế thất nghiệp ở tỷ lệ thấp là một trong những mục tiêu kinh tế vĩ mô mà Nhà nước thường xuyên quan tâm thực hiện. Chính sách giải quyết việc làm có mối quan hệ biện chứng với các chính sách kinh tế - xã hội khác, đặc biệt là mối quan hệ chặt chẽ giữa chính sách việc làm với các chính sách như: chính sách dân số, chính sách giáo dục – đào tạo, chính sách cơ cấu kinh tế, chính sách công nghệ Chính sách giải quyết việc làm kéo theo các chính sách phát triển giáo dục để nhằm đào tạo nguồn lực phù hợp cung cấp cho thị trường lao động. Trên cơ sở về cơ cấu dân số, chính sách giải quyết việc làm cũng được xây dựng phù hợp. Giải quyết việc làm vừa có ý nghĩa về mặt kinh tế, vừa có ý nghĩa về mặt chính trị và xã hội. Các chính sách về giải quyết việc làm phù hợp sẽ giảm tỉ lệ thất nghiệp, giảm các tệ nạn xã hội. Ngược lại, thực hiện không tốt công tác giải quyết việc làm giúp, nhất là trong giai đoạn kinh tế suy thoái, nạn thất nghiệp sẽ tăng và cùng với nó là tình trạng đói nghèo, các tệ nạn sẽ dễ dàng phát sinh. Khi đó gánh nặng sẽ đè lên các chính sách về bảo trợ xã hội, an ninh xã hội. Tình trạng bất ổn trong công tác giải quyết việc làm kéo dài có thể gây ra bất ổn về chính trị, xã hội. 1.2. Pháp luật về giải quyết việc làm 1.2.1. Nguyên tắc cơ bản của pháp luật về giải quyết việc làm Nguyên tắc bảo đảm quyền tự do việc làm của công dân. Khoản 1, điều 5 BLLĐ quy định quyền của người lao động: “a) Làm việc, tự do lựa chọn việc làm, nghề nghiệp, học nghề, nâng cao trình độ nghề nghiệp và không bị phân biệt đối xử; b) Hưởng lương phù hợp với trình độ kỹ năng nghề trên cơ sở thoả thuận với người sử dụng lao động; được bảo hộ lao động, làm việc trong điều kiện bảo đảm về an toàn lao động, vệ sinh lao động; nghỉ theo chế độ, nghỉ hằng năm có lương và được hưởng phúc lợi tập thể; c) Thành lập, gia nhập, hoạt động công đoàn, tổ chức nghề nghiệp và tổ chức khác theo quy định của 19
  20. pháp luật; yêu cầu và tham gia đối thoại với người sử dụng lao động, thực hiện quy chế dân chủ và được tham vấn tại nơi làm việc để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; tham gia quản lý theo nội quy của người sử dụng lao động; d) Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định của pháp luật; đ) Đình công”. Đây là sự khẳng định quyền làm việc và tự do lựa chọn việc làm của người lao động, cũng nhằm khẳng định và cụ thể một nguyên tắc hiến định rất tiến bộ tại Điều 5 Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 “Lao động là quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”, điều đó cũng phù hợp với nguyên tắc tự do việc làm của pháp luật quốc tế. Nguyên tắc cấm cưỡng bức, ngược đãi người lao động. Theo khoản 2 và 3 điều 8 BLLĐ quy định các hành vi bị nghiêm cấm: “2) Ngược đãi người lao động, quấy rối tình dục tại nơi làm việc; 3) Cưỡng bức người lao động”. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo quyền lợi cho người lao động. Theo đó, trong quan hệ lao động, người sử dụng lao động vốn có lợi thế hơn so với người lao động, nên người sử dụng lao động không bị ép buộc người lao động tiến hành những việc làm trái với ý muốn của họ hoặc ngược đãi họ. Ở khía cạnh nào đó, nguyên tắc này như là sự bổ sung cho nguyên tắc bảo đảm quyền tự do việc làm. Tuy nhiên, xét ở bình diện rộng hơn, nguyên tắc này bảo vệ nhân quyền và chống lại ách nô dịch việc làm. Nguyên tắc bảo đảm sự bình đẳng trong lĩnh vực việc làm: Đây là nguyên tắc thể hiện nguyên tắc “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật”(Điều 52, Hiến pháp), được quy định tại các Điều 7và 8 BLLĐ. Theo đó mọi công dân đều có quyền bình đẳng về cơ hội có việc làm, được đối xử bình đẳng đối với mọi việc làm và được trả công ngang nhau khi làm những công việc như nhau, không bị phân biệt đối xử về giới tính, dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo. Nguyên tắc này, xa hơn là bảo vệ quyền bình đẳng cơ hội việc làm của người lao động. Nguyên tắc thực hiện một số ưu đãi đối với một số đối tượng đặc thù. Nguyên tắc này xuất phát từ thực tế không phải ai cũng có khả năng làm việc, có 20