Luận văn Giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất lâm nghiệp từ thực tiễn xét xử của tòa án nhân dân huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định

pdf 86 trang vuhoa 24/08/2022 10240
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất lâm nghiệp từ thực tiễn xét xử của tòa án nhân dân huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_giai_quyet_tranh_chap_ve_quyen_su_dung_dat_lam_nghi.pdf

Nội dung text: Luận văn Giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất lâm nghiệp từ thực tiễn xét xử của tòa án nhân dân huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ THU THẢO GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT LÂM NGHIỆP TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HOÀI ÂN, TỈNH BÌNH ĐỊNH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2017
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ THU THẢO GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT LÂM NGHIỆP TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HOÀI ÂN, TỈNH BÌNH ĐỊNH Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số: 60.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN QUANG HUY HÀ NỘI - 2017
  3. LỜI CẢM ƠN Trước tiên tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến TS. Trần Quang Huy đã tận tình hướng dẫn, góp ý, giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện luận văn tốt nghiệp này. Xin chân thành cảm ơn quý thầy, cô Học viện khoa học xã hội, các bạn lớp Cao học Luật Kinh tế Khóa VI.2 đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong suốt khóa học thạc sĩ tại Học viện. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến Lãnh đạo và cán bộ Tòa án nhân dân huyện Hoài Ân, Lãnh đạo và cán bộ Viện kiểm sát nhân dân huyện Hoài Ân, Văn phòng Ủy ban nhân dân huyện Hoài Ân đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi về số liệu phục vụ cho việc nghiên cứu cũng như tạo điều kiện, hỗ trợ thời gian để tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp. Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến những người thân trong gia đình đã tạo điều kiện tốt nhất để tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp. Nguyễn Thị Thu Thảo
  4. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn thạc sỹ: “Giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất lâm nghiệp từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định” là do chính tôi thực hiện. Toàn bộ các tài liệu, cơ sở pháp lý, các dẫn chứng số liệu được tôi sử dụng để phục vụ cho việc nghiên cứu luận văn đều do tôi tự tìm hiểu bằng kinh nghiệm trong nghề nghiệp và đảm bảo độ chính xác theo yêu cầu của một luận văn khoa học. Bình Định, ngày tháng năm 2017 Tác giả luận văn Nguyễn Thị Thu Thảo
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT LÂM NGHIỆP, TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT LÂM NGHIỆP VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT LÂM NGHIỆP 7 1.1. Lý luận về quyền sử dụng đất lâm nghiệp 7 1.1.1. Khái niệm đất lâm nghiệp 7 1.1.2. Đặc điểm quyền sử dụng đất lâm nghiệp 9 1.2. Tranh chấp quyền sử dụng đất lâm nghiệp và giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất lâm nghiệp 12 1.2.1. Khái niệm tranh chấp quyền sử dụng đất lâm nghiệp 12 1.2.2. Các loại tranh chấp quyền sử dụng đất lâm nghiệp 13 1.2.3. Khái niệm giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất lâm nghiệp 16 1.3. Pháp luật về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất lâm nghiệp 17 1.3.1. Khái niệm pháp luật giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất lâm nghiệp 17 1.3.2. Điều chỉnh pháp luật về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất lâm nghiệp 20 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT LÂM NGHIỆP VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HOÀI ÂN TỈNH BÌNH ĐỊNH 28 2.1. Thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất lâm nghiệp 28 2.1.1. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất của Tòa án nhân dân 28
  6. 2.1.2. Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân 35 2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất lâm nghiệp tại tòa án nhân dân huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định 40 2.2.1. Tình hình tranh chấp, khiếu nại, tố cáo có liên quan đến quyền sử dụng đất lâm nghiệp trên địa bàn huyện Hoài Ân 40 2.2.2. Thực trạng giải quyết, xét xử tranh chấp quyền sử dụng đất lâm nghiệp tại Tòa án nhân dân huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định 45 2.3. Đánh giá về kết quả xét xử các tranh chấp quyền sử dụng đất lâm nghiệp từ thực tế địa phương 54 2.3.1. Các kết quả đạt được 54 2.3.2. Các hạn chế, thiếu sót 55 2.3.3. Nguyên nhân của các hạn chế, thiếu sót 56 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT LÂM NGHIỆP 60 3.1. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai nói chung và thẩm quyền giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất lâm nghiệp nói riêng của Tòa án nhân dân 60 3.1.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành 60 3.1.2. Các quy định đối với người tham gia tố tụng trong giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất lâm nghiệp 67 3.2. Các giải pháp cụ thể khác 68 3.2.1. Đẩy mạnh công tác hướng dẫn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ Tòa án 68 3.2.2. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật cho nhân dân trên lĩnh vực đất lâm nghiệp 69 KẾT LUẬN 73 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 75
  7. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLDS Bộ luật dân sự BLTTDS Bộ luật tố tụng dân sự ĐLN Đất lâm nghiệp GCNQSD Giấy chứng nhận quyền sử dụng HĐXX Hội đồng xét xử HTX Hợp tác xã KSV Kiểm sát viên KTV Kiểm tra viên LĐĐ Luật Đất đai QLNVLQ Quyền lợi nghĩa vụ liên quan QSD Quyền sử dụng TAND Tòa án nhân dân TCĐĐ Tranh chấp đất đai UBND Ủy ban nhân dân VKS Viện kiểm sát
  8. DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1: Thống kê tình hình tranh chấp, khiếu nại, tố cáo có liên quan đến quyền sử dụng đất lâm nghiệp tại huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định từ năm 2012 đến năm 2016 42 Bảng 2.2: Thống kê tình hình giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất lâm nghiệp tại Tòa án huyện Hoài Ân từ năm 2012 đến năm 2016 46
  9. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Như chúng ta đã biết, đất đai là nguồn tài nguyên vô giá và đóng vai trò, ý nghĩa hết sức quan trọng đối với mỗi quốc gia. Trong Hiến pháp 2013, đã ghi nhận vai trò quan trọng của đất đai theo đó đất đai là nguồn lực không thể thiếu để phát triển kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh quốc phòng của một quốc gia. Dưới góc độ về kinh tế, đất đóng vai trò ý nghĩa vô cùng quan trọng, đó là nguồn tư liệu để sản xuất trong một số ngành sản xuất nông, lâm nghiệp và cả nền sản xuất công nghiệp mà không có bất cứ nguồn tư liệu sản xuất nào có thể thay thế được. Dưới góc độ về chính trị, đất đai đóng vai trò đặc biệt khi xác định ranh giới lãnh thổ, địa lý hành chính và là yếu tố để khẳng định chủ quyền của một quốc gia. “Tấc đất tất vàng” như là câu nói cửa miệng của dân tộc Việt Nam. Trong các cuộc kháng chiến, ông cha ta đã hy sinh biết bao xương máu để bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc và xây dựng được Tổ quốc như ngày hôm nay. Đất đai nói chung trong đó có đất lâm nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng. Đất lâm nghiệp không những là tư liệu để sản xuất, là giới hạn xác định ranh giới địa lý hành chính lãnh thổ của các quốc gia mà còn có tác dụng ngăn nước lũ, chống xói mòn, xạt lỡ Trong lịch sử, đất lâm nghiệp còn đóng vai trò và nhiệm vụ cao cả trong việc chống giặc ngoại xâm mà ta vẫn thường nghe nhắc tới đó là” Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”. Đất đai đóng vai trò quan trọng như vậy nên kể từ khi nền kinh tế nước ta phát triển sang hướng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã kéo theo nhiều sự thay đổi trong các mối quan hệ xã hội và các chính 1
  10. sách pháp luật trong đó các chính sách về đất đai cũng dần dần được thay đổi cho phù hợp. Kinh tế phát triển kéo theo các mối quan hệ xã hội ngày càng phức tạp hơn, các loại tranh chấp ngày càng nhiều trong đó nổi lên là tranh chấp đất đai. Đặc biệt trong những năm gần đây, tình hình tranh chấp đất đai ngày càng phổ biến với nhiều hình thức tranh chấp như tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng, tranh chấp quyền sử dụng đất trong đó xảy ra nhiều nhất vẫn là tranh chấp quyền sử dụng đất. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc tranh chấp quyền sử dụng đất đai ngày càng nhiều như do việc quản lý đất đai còn nhiều hạn chế, bất cập chưa chặt chẽ, giá đất tăng cao trong đó đặc biệt là đất lâm nghiệp. Đã có nhiều thay đổi chính sách pháp luật về đất đai trong đó có nhiều quy định về giải quyết tranh chấp đất đai nói chung và giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất lâm nghiệp nói riêng như Luật Đất đai năm 1987, Luật đất đai năm 1993 đến sửa đổi bổ sung năm 1998, năm 2001, đến Luật Đất đai năm 2003 và Luật Đất đai hiện hành năm 2013, Bộ luật dân sự 2005, Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2004, Bộ luật Dân sự năm 2015 và Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Các văn bản pháp luật này đã lần lượt ra đời và dần hoàn thiện hơn để đáp ứng kịp thời và phù hợp với những thay đổi về các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình sử dụng đất. Có thể khẳng định việc giải quyết tranh chấp đất đai đặc biệt là tranh chấp quyền sử dụng đất lâm nghiệp hiện nay là một vấn đề khó khăn, phức tạp nhất trong giải quyết các vụ án dân sự nói chung. Do đó, việc nghiên cứu pháp luật về đất lâm nghiệp, thẩm quyền về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất lâm nghiệp, thực trạng về tranh chấp quyền sử dụng đất lâm nghiệp và việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất lâm nghiệp của các cơ quan có thẩm quyền mà đặc biệt là Tòa án trong những năm gần đây là vấn đề cần thiết, trên cơ sở đó đề xuất những kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác giải quyết tranh chấp đất lâm nghiệp, đảm bảo quyền lợi 2
  11. hợp pháp cho nhân dân, tranh thủ tạo lòng tin trong nhân dân đối với các chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Với thực trạng cả nước nói chung và trên địa bàn huyện Hoài Ân nói riêng, tác giả đã lựa chọn “Giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất lâm nghiệp từ thực tiễn xét xử tại tòa án nhân dân huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định” làm đề tài luận văn của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Đất đai là lĩnh vực có rất nhiều nội dung cần nghiên cứu bởi nó khá hay và khá phức tạp. Đã có rất nhiều công trình, bài viết nghiên cứu về giải quyết tranh chấp đất đai nói chung trong đó có liên quan đến quyền sử dụng đất nói riêng bao hàm cả tranh chấp quyền sử dụng đất lâm nghiệp nói riêng như: bài viết “Các đặc trưng pháp lý của quyền sử dụng đất ở Việt Nam” của TS. Trần Quang Huy đăng trên tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 10/2007 [14]; bài viết “Giải quyết tranh chấp đất đai bằng con đường Tòa án qua thực tiễn tại một địa phương” của Mai Thị Tú Oanh đăng trên tạp chí Nhà nước và pháp luật số 08/2009; báo cáo “mâu thuẫn đất đai giữa công ty lâm nghiệp và người dân địa phương” do tổ chức Forest Trends phối hợp với Viện Tư vấn phát triển (CODE) thực hiện; đề tài “Đánh giá hiệu quả giao đất lâm nghiệp cho hộ nông dân tại xã Minh Thanh, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang” của tác giả Nguyễn Trung Đức [9]; luận văn thạc sĩ “Thẩm quyền giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất từ thực tiễn tỉnh Bình Dương” của tác giả Lê Bảo Quân; luận văn “Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất bằng Tòa án tại Việt Nam” của tác giả Lý Thị Ngọc Hiệp [10]; luận văn “Giải quyết tranh chấp đất đai bằng con đường Tòa án” của tác giả Trần Văn Hà; luận văn “Giải quyết tranh chấp đất đai bằng Tòa án từ thực tiễn quận Hải Châu, Thành phố Đà Nẵng” của tác giả Nguyễn Thị Hải Thanh [36]; luận văn “Tranh chấp đất đai và thẩm quyền giải quyết của Tòa án” của tác giả Châu Huế [13] và một số bài viết được đăng trên các tạp chí nghiên cứu của Học 3
  12. viện khoa học xã hội và một số bài báo chuyên ngành pháp luật. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một công trình nghiên cứu khoa học có tính thực tiễn về Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất lâm nghiệp trên địa bàn huyện Hoài Ân của tỉnh Bình Định. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn trong công tác giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất lâm nghiệp tại Tòa án nhân dân huyện Hoài Ân, qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất lâm nghiệp tại Tòa án nhân dân huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nêu trên, trong quá trình nghiên cứu, tác giả sẽ tập trung giải quyết các nhiệm vụ cụ thể sau đây: - Nghiên cứu làm sáng rõ mặt lý luận những đặc điểm của vấn đề tranh chấp quyền sử dụng đất lâm nghiệp, và giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất lâm nghiệp. - Khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất lâm nghiệp tại Tòa án nhân dân huyện Hoài Ân từ năm 2012 đến năm 2016. Từ đó chỉ ra những mặt đã đạt được, những mặt còn hạn chế, tồn tại, nguyên nhân. - Phân tích những quy định trong Luật Đất Đai; những điểm mới trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 có liên quan đến công tác giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất lâm nghiệp. Qua đó, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất lâm nghiệp. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là căn cứ các quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất lâm nghiệp. 4
  13. Luận văn chỉ giới hạn nghiên cứu từ thực tiễn Tòa án nhân dân huyện Hoài Ân trong giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2016. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu vấn đề giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất lâm nghiệp từ thực tiễn một địa phương. Thời gian nghiên cứu: Dữ liệu của đề tài thu thập báo cáo thống kê của Ủy ban nhân dân huyện Hoài Ân; Tòa án nhân dân huyện Hoài Ân trong công tác giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất lâm nghiệp từ năm 2012 đến năm 2016. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng, Nhà nước về công tác giải quyết tranh chấp đất đai nói chung và công tác giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất lâm nghiệp nói riêng. Để thực hiện các nội dung nghiên cứu, tác giả sử dụng phương pháp cụ thể như: Phân tích, tổng hợp, so sánh, tham vấn chuyên gia và trực tiếp khảo sát. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn - Lần đầu có một đề tài nghiên cứu về lý luận đầy đủ, toàn diện và thực tiễn về công tác giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất lâm nghiệp tại Tòa án nhân dân huyện Hoài Ân tỉnh Bình Định. - Trên cơ sở khảo sát thực tế đề tài đã đánh giá, phân tích thực trạng về công tác giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất lâm nghiệp tại Tòa án nhân dân huyện Hoài Ân từ năm 2012 đến năm 2016. - Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng trong công tác giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất lâm nghiệp tại Tòa án nhân dân huyện Hoài Ân là tài liệu phục vụ cho cán bộ Kiểm sát, Tòa án trong hoạt động thực tiễn. 5
  14. 7. Cơ cấu Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được kết cấu cụ thể như sau: Chương 1: Những vấn đề chung về quyền sử dụng đất lâm nghiệp, tranh chấp quyền sử dụng đất lâm nghiệp và giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất lâm nghiệp Chương 2: Thực trạng giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất lâm nghiệp tại Tòa án nhân dân huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định. Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất lâm nghiệp. 6
  15. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT LÂM NGHIỆP, TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT LÂM NGHIỆP VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT LÂM NGHIỆP 1.1. Lý luận về quyền sử dụng đất lâm nghiệp 1.1.1. Khái niệm đất lâm nghiệp Đất đai luôn đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của một quốc gia trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh quốc phòng Là tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá của mỗi quốc gia. Như Các - Mác đã từng viết “Đất đai là tài sản mãi mãi với loài người, là điều kiện để sinh tồn, là điều kiện không thể thiếu được để sản xuất, là tư liệu sản xuất cơ bản trong nông, lâm nghiệp”[4]. Đất đai là sản phẩm của tự nhiên ban tặng cho loài người, là cơ sở quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người, của mọi sinh vật trên trái đất. Đất đai là điều kiện vật chất cần thiết, là cơ sở đầu tiên, là nơi tìm được công cụ lao động, nguyên liệu lao động của mọi quá trình sản xuất. Đất đai càng đóng vai trò đặc biệt hơn trong sản xuất nông, lâm nghiệp ở nước ta. Với nền kinh tế chủ yếu phát triển về nông, lâm nghiệp nên diện tích đất nông nghiệp chiếm đa số trong đó đất lâm nghiệp chiếm diện tích đáng kể. Đất lâm nghiệp có quan niệm rất khác nhau trong mỗi giai đoạn phát triển của đất nước. Trước đây việc phân loại đất đai xuất phát từ nhiều tiêu chí khác nhau. Do đó, theo Luật đất đai năm 1987 thì đất đai ở Việt Nam được chia thành 6 loại trong đó có đất lâm nghiệp. Theo sự phân loại này, ĐLN là đất được xác định chủ yếu dùng vào sản xuất lâm nghiệp như trồng rừng, khai thác rừng, khoanh nuôi, tu bổ, cải tạo rừng, nghiên cứu thí nghiệm về lâm nghiệp; đất rừng cấm, vườn quốc gia; đất trồng rừng để phòng hộ đầu nguồn, bảo vệ đất, cải tạo môi trường [29]. Đến LĐĐ năm 1993, căn cứ vào mục đích sử dụng chủ yếu thì vẫn còn tồn tại với tên gọi ĐLN. Cụ thể tại 7
  16. Điều 43 LĐĐ năm 1993 quy định: “Đất lâm nghiệp được xác định chủ yếu để sử dụng vào sản xuất lâm nghiệp bao gồm đất có rừng tự nhiên, đất đang có rừng trồng và đất để sử dụng vào mục đích lâm nghiệp như trồng rừng, khoanh nuôi, bảo vệ để phục hồi tự nhiên, nuôi dưỡng làm giàu rừng, nghiên cứu thí nghiệm về lâm nghiệp” Theo Điều 13 LĐĐ năm 2003 về phân loại đất, thì căn cứ vào mục đích sử dụng đất, không còn gọi là đất lâm nghiệp nữa. ĐLN hiện nay chỉ là tên gọi quen thuộc từ trước khi LĐĐ năm 2003 có hiệu lực thi hành. Theo LĐĐ 2003, chúng ta có thể hiểu ngắn gọn ĐLN là loại đất thuộc nhóm đất nông nghiệp. Ở thời kỳ này đất đai chia thành 3 nhóm gồm nhóm đất nông nghiệp, nhóm đất phi nông nghiệp và nhóm đất chưa sử dụng. Do đó, không còn khái niệm ĐLN là một cơ cấu độc lập mà nằm trong một thể thống nhất của nhóm đất nông nghiệp. Nhóm đất theo quan niệm của LĐĐ năm 2003 và 2013 gồm nhiều loại đất khác nhau nằm trong một tổ hợp nhóm đất. Bởi vậy ĐLN được hợp thành trong nhóm đất nông nghiệp. Căn cứ vào mục đích sử dụng đất có thể phân chia chi tiết ĐLN bao gồm 3 loại chính gồm: đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ và đất rừng sản xuất. Cụ thể: + Rừng đặc dụng: loại rừng này được xác định nhằm mục đích bảo tồn thiên nhiên, mẫu chuẩn hệ sinh thái, nguồn gen thực vật và động vật rừng, nghiên cứu khoa học, bảo vệ di tích lịch sử, văn hóa danh lam thắng cảnh, phục vụ nghỉ ngơi, du lịch. Vì vậy, đất rừng đặc dụng là loại đất có các rừng đặc dụng, khu bảo tồn thiên nhiên, các khu rừng có di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh được xếp hạng được xác định ở trên. + Rừng phòng hộ: Loại rừng này được xác định với mục đích sử dụng chủ yếu để xây dựng và phát triển rừng cho mục đích bảo vệ và điều tiết nguồn nước, bảo vệ đất, chống xói mòn, hạn chế thiên tai (chống gió bão, cản sóng bảo vệ đê ngăn nước mặn vùng ven biển ) điều hòa khí hậu, bảo đảm 8
  17. cân bằng sinh thái và an ninh môi trường. Như vậy đất rừng phòng hộ là loại đất có các rừng phòng hộ ven biển, các khu vực xung yếu, bảo vệ đê điều nhằm mục đích là bảo vệ môi trường sinh thái và điều hòa khí hậu. + Rừng sản xuất: Lại rừng này được xác định chủ yếu để xây dựng, phát triển rừng cho mục đích sản xuất, kinh doanh lâm sản (trong đó đặc biệt là gỗ và các loại đặc sản rừng) và kết hợp phòng hộ môi trường, cân bằng sinh thái. Theo Phụ lục 01 Thông tư số 55/2013/TT-BTNMT thì ĐLN gồm: Đất rừng sản xuất (gồm đất có rừng tự nhiên sản xuất, đất có rừng trồng sản xuất, đất khoanh nuôi phục hồi rừng sản xuất, đất trồng rừng sản xuất); Đất rừng phòng hộ (gồm đất có rừng tự nhiên phòng hộ, đất có rừng trồng phòng hộ, đất khoanh nuôi phục hồi rừng phòng hộ, đất trồng rừng phòng hộ); Đất rừng đặc dụng (gồm đất có rừng tự nhiên đặc dụng, đất có rừng trồng đặc dụng, đất khoanh nuôi phục hồi rừng đặc dụng, đất trồng rừng đặc dụng). Trên cơ sở các phân tích trên có thể tóm tắt về ĐLN là loại đất thuộc nhóm đất nông nghiệp với mục đích sản xuất, kinh doanh lâm sản hoặc bảo vệ đất, nguồn nước chống xói mòn, phòng chống thiên tai, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên. 1.1.2. Đặc điểm quyền sử dụng đất lâm nghiệp Xuất phát từ Luật La Mã - hệ thống luật cổ, quyền sử dụng, quyền chiếm hữu và quyền định đoạt là những quyền cơ bản về quyền của chủ thể đối với đồ vật và được gọi là chủ sở hữu tài sản. Theo học thuyết La Mã thì quyền được hiểu một cách trừu tượng là hành vi của một chủ thể và bằng hành vi đó của mình tác động lên tài sản theo ý chí của mình mà không phụ thuộc vào người khác để thỏa mãn lợi ích của cá nhân được gọi là quyền sở hữu tài sản. Theo cách hiểu đó, quyền sử dụng ĐLN là một quyền tài sản. Tại Điều 181 BLDS 2005 quy định quyền tài sản là “quyền trị giá bằng tiền và có 9
  18. thể chuyển giao trong giao dịch dân sự”. Tiếp đến BLDS 2015, tại Điều 115 quy định rõ hơn “là quyền trị giá bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác”. Ở nước ta đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định [32]. Như vậy, một trong những quyền cơ bản của chủ sở hữu tài sản ở đây là ĐLN là quyền sử dụng ĐLN được Nhà nước giao cho các cá nhân, hộ gia đình, các tổ chức kinh tế với nhiều hình thức khác nhau. Các thành phần được Nhà nước giao quyền sử dụng ĐLN được “quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản” và “có thể được chuyển giao cho người khác theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật” mà không bắt buộc phải là chủ sở hữu mới có quyền tự mình thực hiện đầy đủ các quyền như có quyền định đoạt mua, bán, cho thuê, mượn đối với tài sản do mình làm chủ sở hữu như trong quan hệ giao dịch dân sự khác. Có thể thấy rằng quyền sử dụng đất nói chung và quyền sử dụng ĐLN nói riêng là một quyền tài sản đặc biệt. Do đó, quyền sử dụng ĐLN có những đặc điểm sau: Thứ nhất, dưới góc độ pháp lý ở nước ta, quyền sở hữu ĐLN và quyền sử dụng ĐLN có sự tách bạch nhau. Như chúng ta nhận biết, ĐLN là một phần của đất đai và với đặc thù “đất đai là sở hữu của toàn dân” của số đông hay còn nói cách khác đất đai là sở hữu của mọi công dân Việt Nam do đó tập thể số đông đó không thể vận hành được quyền sở hữu ĐLN nếu không có người đại diện. Nhà nước trong hệ thống chính trị là đại diện có đủ tư cách nhất để làm chủ sở hữu. Toàn dân có quyền sở hữu ĐLN và chuyển giao quyền sở hữu đó cho đại diện là Nhà nước; Nhà nước sẽ đại diện chuyển giao quyền sử dụng ĐLN cho các cá nhân, hộ gia đình, các tổ chức kinh tế Tuy nhiên, trên thực tế, quyền sử dụng ĐLN chỉ được giao trực tiếp từ Nhà nước cho người sử dụng bằng các quyết định hành chính do Nhà nước ban hành. 10
  19. Thứ hai, nhà nước ban hành các quyết định hành chính về giao quyền sử dụng ĐLN cho người sử dụng ĐLN theo trình tự, quy định của pháp luật. Đồng thời cũng có quyền ban hành các quyết định hành chính để thu hồi lại quyền sử dụng ĐLN khi cần cho mục đích công cộng, lợi ích quốc gia, an ninh quốc phòng theo quy định, đi đôi với việc bồi thường, hỗ trợ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được giao quyền sử dụng ĐLN nhưng bị thu hồi. Thứ ba, nhà nước giao quyền sử dụng ĐLN cho các cá nhân, hộ gia đình, tổ chức kinh tế và để quyền sử dụng ĐLN được công nhận thì người sử dụng đất phải đóng một khoản tiền sử dụng đất và các khoản phí, lệ phí khác theo quy định. Khoản tiền phải đóng đó được hiểu là giá trị quyền sử dụng đất. Theo quy định tại khoản 20 Điều 3 LĐĐ năm 2013 “giá trị quyền sử dụng đất là giá trị bằng tiền của quyền sử dụng đất đối với một diện tích đất xác định trong thời hạn sử dụng đất xác định”. Thông thường, thời hạn sử dụng ĐLN là 50 năm và tiền sử dụng đất theo quy định tại khoản 21 Điều 3 LĐĐ năm 2013 là “số tiền mà người sử dụng đất phải trả cho Nhà nước khi được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, công nhận quyền sử dụng đất”. Thứ tư, một khi người sử dụng đất được Nhà nước công nhận quyền sử dụng ĐLN thì người sử dụng đất ngày càng được mở rộng một số quyền để thực hiện các giao dịch có liên quan đến đất đai như được quyền tự mình chuyển nhượng quyền sử dụng ĐLN nhưng phải tuân thủ nghiêm các trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật về đất đai. Bởi lẽ, quyền sử dụng đất như chúng ta phân tích là một tài sản, hàng hóa đặc biệt và có những quy định riêng không giống như việc khai thác, sử dụng tài sản khác trong các quan hệ giao dịch dân sự thông thường. 11
  20. 1.2. Tranh chấp quyền sử dụng đất lâm nghiệp và giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất lâm nghiệp 1.2.1. Khái niệm tranh chấp quyền sử dụng đất lâm nghiệp Có thể thấy, tranh chấp là một hiện tượng và tên gọi của nó rất phổ biến trong đời sống xã hội. Tranh chấp xảy ra khi có 02 bên chủ thể trở lên và xảy ra việc tranh giành nhau, giằng co về một vấn đề nào đó mà không rõ thuộc về bên nào. Tranh chấp theo từ điển tiếng Việt thông dụng, tranh chấp là bất đồng, trái ngược nhau. Thực tế thấy rằng các chủ thể khi tham gia vào quan hệ xã hội không phải lúc nào cũng có chung quan điểm về các vấn đề nào đó, vì thế nên sẽ có những ý kiến bất đồng dẫn đến những mâu thuẫn nhất định và dẫn đến những hành động cụ thể đó được gọi là sự tranh chấp. Trong xã hội luôn tồn tại sự tranh giành, đối kháng nhau, từ lịch sử phát triển của xã hội qua các thời kỳ cho đến nay điều đó luôn tồn tại, đặc biệt là đối kháng nhau về giai cấp, mâu thuẫn, tranh giành nhau về lợi ích đến khi không thể dung hòa được nữa sẽ kết thúc bằng một cuộc cách mạng xã hội. Trong đó, dù bất kỳ giai cấp nào thì đất đai vẫn là một trong những đối tượng bị tranh chấp gay gắt nhất. Tranh chấp đất đai là một thuật ngữ, là một tên gọi rất quen thuộc và phổ biến không những trong đời sống xã hội mà còn xuất hiện trong các văn bản pháp luật về đất đai. TCĐĐ có thể hiểu đơn giản theo cách thông thường nhất đó là sự bất đồng, mâu thuẫn về quyền, lợi ích, nghĩa vụ dẫn đến sự xung đột của các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật về đất đai. Thực tế, có rất nhiều quan điểm về khái niệm TCĐĐ. Tuy nhiên, để có thể hiểu rõ khái niệm TCĐĐ là gì vẫn còn tồn tại rất nhiều quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng TCĐĐ chỉ là những tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất nhưng cũng có quan điểm cho rằng TCĐĐ là toàn bộ những vấn đề phát sinh trong quan hệ đất đai như tranh chấp tài sản gắn liền trên đất, tranh chấp mục đích sử dụng đất TCĐĐ theo quy định tại Khoản 12
  21. 24 Điều 3 LĐĐ là “tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai”. Như vậy, theo LĐĐ năm 2013 thì TCĐĐ là bao hàm cả tranh chấp quyền sử dụng đất, tranh chấp tài sản gắn liền với đất, tranh chấp về địa giới hành chính. Ở nước ta, đất đai thuộc sở hữu của toàn dân, Nhà nước là đại diện chủ sở hữu [27], do đó không tồn tại một chủ sở hữu nào khác đối với đất đai kéo theo đó ở nước ta sẽ không xảy ra trường hợp tranh chấp về quyền sở hữu đất và TCĐĐ là một loại tranh chấp đặc biệt không giống như các loại tranh chấp tài sản khác. Đối với ĐLN, nhà nước giao, cho thuê với nhiều chủ thể khác nhau, bên cạnh là các tổ chức kinh tế đang quản lý, sử dụng chủ yếu đối với đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng thì hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng đang sử dụng phần lớn các loại đất rừng sản xuất là rừng tự nhiên hoặc rừng trồng. Trong quá trình quản lý, sử dụng khai thác các lợi ích từ rừng, các tổ chức kinh tế trong nước, các nhà đầu tư nước ngoài cũng như hộ gia đình cá nhân được nhà nước giao đất, cho thuê đất rừng không phải lúc nào cũng thống nhất với nhau về mặt lợi ích, mà đâu đó có mâu thuẫn xảy ra quá trình quản lý, sử dụng. Ví dụ các bên không xác định rõ ranh giới chiếm đất dẫn tới việc lấn chiếm đất rừng của nhau, không tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật về quy hoạch, về quản lý mục đích sử dụng đất cũng như các quyền và lợi ích từ khai thác nguồn tài nguyên rừng. Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm tranh chấp ĐLN được hiểu là những xung đột, bất đồng, mâu thuẫn về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quản lý, sử dụng ĐLN. 1.2.2. Các loại tranh chấp quyền sử dụng đất lâm nghiệp Từ quy định tại Điều 53, Hiến pháp 2013 và Điều 4 LĐĐ 2013 đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý 13
  22. ta có thể thấy rõ được đối tượng của tranh chấp QSD ĐLN cũng như các chủ thể tham gia tranh chấp QSD ĐLN là không phải là chủ sở hữu đối với ĐLN. Theo đó, đối tượng của tranh chấp QSD ĐLN là những quyền và lợi ích phát sinh trong quá trình sử dụng ĐLN như QSD, quyền quản lý Và trong phạm vi nghiên cứu, tác giả chỉ đề cập đến QSD ĐLN. Như vậy, có thể thấy rõ đối tượng của tranh chấp QSD ĐLN là QSD ĐLN. Còn chủ thể của tranh chấp QSD ĐLN là chủ thể quản lý đất và chủ thể sử dụng ĐLN. Căn cứ vào tính pháp lý về đất đai nói chung và ĐLN nói riêng thì tranh chấp QSD ĐLN có rất nhiều dạng như: + Tranh chấp về ranh giới sử dụng ĐLN; + Tranh chấp đòi lại QSD ĐLN, tài sản gắn liền với QSD đất cho cá nhân hoặc những người thân trong gia đình trước đây đã từng khai hoang nhưng đã được Nhà nước giao, cấp cho các cá nhân, tổ chức khác; + Tranh chấp QSD ĐLN và tài sản gắn liền với QSD ĐLN khi vợ chồng ly hôn; + Tranh chấp về thừa kế QSD ĐLN và tài sản gắn liền với QSD ĐLN. Hiểu theo khái niệm tranh chấp QSD ĐLN thì tranh chấp QSD ĐLN được chia làm 2 dạng tranh chấp: + Tranh chấp QSD ĐLN mà một trong các bên đương sự có giấy chứng nhận QSD ĐLN; + Tranh chấp QSD ĐLN mà đương sự không có GCNQSD ĐLN hay một số giấy tờ khác theo quy định. Với nền kinh tế xuất phát từ nền nông nghiệp phát triển về nông, lâm, ngư nghiệp nên các mặt hàng để xuất khẩu chủ yếu là các sản phẩm nông nghiệp. Đi đôi với việc dân số ngày càng tăng, đất chật người đông nên diện tích đất nông nghiệp dùng cho sản xuất trong đó có ĐLN càng trở nên cấp thiết, kéo theo đó là tình trạng tranh chấp đất nói chung và tranh chấp ĐLN 14
  23. nói riêng sẽ diễn ra gay gắt. Có rất nhiều dạng tranh chấp quyền sử dụng ĐLN và xảy ra rất nhiều trong cuộc sống hàng ngày. Như đã phân loại các dạng tranh chấp về QSD ĐLN thường gặp: + Tranh chấp về ranh giới QSD đất. Đây là loại tranh chấp xảy ra khi một hoặc các bên tự ý thay đổi diện tích ĐLN; không xác định được ranh giới diện tích đất giữa các thửa ĐLN liền kề hoặc bị người khác chiếm phần diện tích của mình, do đó, giữa các bên xảy ra tranh chấp với nhau. Và khi giải quyết dạng tranh chấp này, cần xác định ai là người được sử dụng đất và với diện tích được cấp bao nhiêu nghĩa là với diện tích đất đó, ai là người thuộc QSD. + Tranh chấp đòi lại QSD ĐLN, tài sản gắn liền với QSD đất cho cá nhân hoặc những người thân trong gia đình trước đây đã từng khai hoang nhưng đã được Nhà nước giao, cấp cho các cá nhân, tổ chức khác. Đây là thực chất là dạng tranh chấp đòi lại đất cũng như tài sản gắn liền trên đất. Một trong các bên cho rằng nguồn gốc ĐLN là của họ hoặc người thân của họ khai hoang, vỡ hóa mà có nhưng vì nhiều nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan mà họ không sử dụng nữa, Nhà nước đã lấy và giao QSD cho người khác nên họ không chấp nhận nên xảy ra tranh chấp. + Tranh chấp QSD ĐLN và tài sản gắn liền với QSD ĐLN khi vợ chồng ly hôn. Đây là dạng tranh chấp giữa vợ với chồng trong quá trình hôn nhân có một diện tích ĐLN được cấp QSD, có sử dụng trên diện tích đất đó, khi ly hôn một trong các bên có yêu cầu chia diện tích đất được cấp QSD đó và tài sản gắn với QSD hoặc là cha mẹ cho con ĐLN, khi con ly hôn thì cha mẹ đòi lại diện tích ĐLN đã cho + Tranh chấp về thừa kế QSD ĐLN và tài sản gắn liền với QSD ĐLN. Đây là dạng tranh chấp xảy ra khi người có QSD ĐLN và tài sản gắn liền trên ĐLN chết mà không để lại di chúc hoặc có để lại di chúc nhưng di chúc 15