Luận văn Giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn theo luật hôn nhân và gia đình năm 2000
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn theo luật hôn nhân và gia đình năm 2000", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_giai_quyet_tranh_chap_ve_quyen_su_dung_dat_cua_vo_c.pdf
Nội dung text: Luận văn Giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn theo luật hôn nhân và gia đình năm 2000
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ VĨNH GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2000 CHUYÊN NGÀNH: LUẬT DÂN SỰ MÃ SỐ : 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN VĂN CỪ HÀ NỘI - 2007 LỜI CAM ĐOAN 1
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lêi cam ®oan MỤC LỤC DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT PHẦN MỞ ĐẦU 8 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài 8 2. Tình hình nghiên cứu đề tài 9 3. Mục đích nghiên cứu 9 4. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu 10 5. Phương pháp nghiên cứu 10 6. Cơ cấu của luận văn 11 Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT LÀ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG 12 1.1. Một số khái niệm 12 1.1.1. Khái niệm tài sản 12 1.1.2. Khái niệm chế độ tài sản của vợ chồng 15 1.1.2.1. Quyền của vợ chồng đối với tài sản chung 16 1.1.2.2 Quyền của vợ chồng đối với tài sản riêng 25 1.2. Quyền sử dụng đất trong quan hệ hôn nhân 28 1.2.1. Quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng 30 1.2.2. Quyền sử dụng đất là tài sản riêng của vợ, chồng 32 1.3. Quyền sử dụng đất liên quan đến chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật HN&GĐ của Nhà nước ta từ năm 1945 đến nay 34 1.3.1. Quyền sử dụng đất liên quan đến chế độ tài sản của 3
- vợ chồng theo pháp luật ở miền Nam trước ngày thống nhất đất nước (30/4/1975) 34 1.3.2. Quyền sử dụng đất liên quan đến chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật HN&GĐ của Nhà nước ta từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay 35 1.3.3. Quy định của pháp luật hiện hành về trình tự, thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất 40 Chương 2: THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN 45 2.1. Ý nghĩa của việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn 45 2.2. Nguyên tắc chung khi giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn 47 2.3. Xác định các loại quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng 53 2.3.1. Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng được Nhà nước giao, giao khoán, cho thuê sau khi kết hôn 53 2.3.2. Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được từ thu nhập hợp pháp trong thời kỳ hôn nhân 54 2.3.3. Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng được thừa kế chung, được tặng cho chung hoặc vợ chồng nhận thế chấp 54 2.3.4. Quyền sử dụng đất mà mỗi bên có được trước khi kết hôn do được chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, nhận thế chấp hoặc quyền sử dụng đất mà mỗi bên được Nhà nước giao, cho thuê trước khi kết hôn có thoả thuận là tài sản chung 55 2.3.5. Quyền sử dụng đất mà vợ chồng được Nhà nước công nhận trong thời kỳ hôn nhân 56 4
- 2.4. Đường lối giải quyết cụ thể đối với từng loại tranh chấp về quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn 58 2.4.1. Đối với quyền sử dụng đất được Nhà nước giao 59 2.4.2. Đối với quyền sử dụng đất được Nhà nước cho thuê 64 2.4.3. Đối với quyền sử dụng đất của vợ chồng được chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế chung, nhận thế chấp trong thời kỳ hôn nhân 68 2.4.4. Đối với quyền sử dụng đất của vợ chồng được Nhà nước công nhận 68 2.5. Thực tiễn giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn 69 2.5.1. Tình hình chung 69 2.5.2. Những thuận lợi, khó khăn trong thực tiễn giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn 71 2.5.3. Những vướng mắc, bất cập trong công tác giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn 72 2.5.3.1. Một số nguyên nhân chủ yếu của những vướng mắc, bất cập 72 2.5.3.2. Những vướng mắc, bất cập thường gặp của Toà án trong thực tiễn giải quyết tranh chấp 75 Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CỦA VỢ CHỒNG KHI LYHÔN 89 3.1. Hoàn thiện pháp luật về quyền sử dụng đất và nguyên tắc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn. 89 3.2. Kiến nghị trong công tác thi hành án 101 3.3. Một số kiến nghị khác 102 KẾT LUẬN 104 5
- DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 106 6
- DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT 1. BLDS: Bộ luật dân sự 2. DLBK: Dân luật Bắc kỳ 3. DLTK: Dân luật Trung kỳ 4. DLGYNK: Dân luật giản yếu Nam kỳ 5. HĐTP: Hội đồng thẩm phán 6. HN&GĐ: Hôn nhân và gia đình 7. HĐXX: Hội đồng xét xử 8. TAND: Toà án nhân dân 9. TANDTC: Toà án nhân dân tối cao 10. UBND: Uỷ ban nhân dân 11.VKSND: Viện kiểm sát nhân dân 12.VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao 13. XHCN: Xã hội chủ nghĩa 7
- PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Ly hôn - về mặt xã hội nó gây ra những hậu quả có tính tiêu cực và là mặt trái của quan hệ hôn nhân.Tuy nhiên, trong thực tế cuộc sống điều này vẫn thường hay xảy ra và yêu cầu điều chỉnh pháp luật đối với vấn đề ly hôn là rất cần thiết. Để khắc phục phần nào những mặt trái của ly hôn, cần giải quyết đúng đắn những hậu quả pháp lý sau ly hôn nhằm đảm bảo mục tiêu điều chỉnh của pháp luật nói chung và Luật HN&GĐ nói riêng, trong đó có việc giải quyết tranh chấp về tài sản là quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn. Theo quy định của pháp luật nước ta, “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu” (khoản 1 Điều 5 Luật Đất đai năm 2003). Cá nhân, cơ quan, tổ chức chỉ có quyền sử dụng đất. Quyền sử dụng đất với tư cách là quyền tài sản, được phép tham gia trong giao lưu dân sự, từ đó phát sinh các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể liên quan. Nội dung của quyền này không chỉ được quy định cụ thể trong Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật Đất đai năm 2003, mà còn có một số nội dung quy định khá cụ thể trong chế định Ly hôn của Luật HN&GĐ năm 2000. Thực chất, trong quan hệ hôn nhân, quyền sử dụng đất cũng là một loại tài sản riêng của vợ, chồng hoặc tài sản chung của vợ chồng. Tuy nhiên do quyền sử dụng đất là một loại tài sản mang tính chất đặc biệt, thường có giá trị thực tế và giá trị sử dụng lớn nhất, có ý nghĩa nhất trong khối tài sản chung của vợ chồng nên tranh chấp về tài sản của vợ chồng khi ly hôn diễn ra khá phổ biến về số lượng và phức tạp về nội dung,việc giải quyết gặp nhiều khó khăn, chậm trễ, nhiều vụ việc phải xét xử nhiều lần do không có những quy định điều chỉnh một cách cụ thể, rõ ràng, ảnh hưởng đến lợi ích chính đáng của vợ chồng và các thành viên khác trong gia đình. Do đó, yêu cầu cấp thiết đặt ra 8
- hiện nay là phải hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn và đưa các quy định đó vào áp dụng trong thực tiễn. Từ thực tiễn nêu trên, chúng tôi chọn đề tài “Giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2000” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Đề tài “Giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2000” chưa được đề cập một cách toàn diện và đầy đủ trong một công trình chuyên khảo nào ở nước ta. Đã có một số sách tham khảo, khoá luận tốt nghiệp của cử nhân hoặc một số bài viết đăng trên các tạp chí Luật học, tạp chí Nhà nước và pháp luật, tạp chí Toà án nhân dân, báo Pháp luật như: Hà Thị Mai Hiên - “Quyền sở hữu chung và chế độ tài sản của gia đình trong pháp luật Việt Nam”; Hà Thị Mai Hiên - Phan Trung Lý - “Vấn đề tài sản giữa vợ và chồng trong dự thảo Luật HN&GĐ ”; Nguyễn Văn Cừ - “Chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân đang tồn tại”; Nguyễn Văn Cừ - “Quyền sở hữu của vợ chồng theo Luật HN&GĐ năm 2000” ; Nguyễn Văn Cừ - “Quyền bình đẳng của vợ chồng đối với tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất theo Luật HN&GĐ năm 2000”; Bùi Thuỷ Nguyên - “Trách nhiệm liên đới của vợ chồng đối với giao dịch dân sự” Nhưng nhìn chung, các công trình nói trên chỉ đề cập đến chế độ tài sản của vợ chồng ở các khía cạnh, các giai đoạn khác nhau, hoặc những tranh chấp về tài sản nói chung của vợ chồng khi ly hôn, (hoặc nghiên cứu một cách toàn diện tất cả những vấn đề chung về chế độ tài sản của vợ chồng như Luận án của TS. Nguyễn Văn Cừ - “Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật HN&GĐ Viêt Nam”), nhưng lại không đi sâu vào nghiên cứu những tranh chấp về quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn, chưa có một công 9
- trình nào đề cập một cách toàn diện và đầy đủ về những tranh chấp đó như ở đề tài này. 3. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở phân tích các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật Đất đai năm 2003, Luật HN&GĐ năm 2000 và các văn bản pháp luật khác có liên quan để tìm hiểu những vướng mắc bất cập trong thực tiễn giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn, làm sáng tỏ những cơ sở lý luận và thực tiễn, đặc biệt là cơ sở pháp lý trong quá trình giải quyết tranh chấp trong thực tế. Từ đó, chúng tôi đưa ra một số kiến nghị với mong muốn góp phần hoàn thiện pháp luật về vấn đề này. 4. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài “Giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2000” là: + Những quy định chung của pháp luật về tài sản +Vấn đề tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng + Tài sản là quyền sử dụng đất của vợ chồng + Vấn đề giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2000. Tìm hiểu nguyên nhân của những tranh chấp về quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn, từ đó đưa ra một số giải pháp khắc phục cũng như phương hướng hoàn thiện pháp luật về hôn nhân và gia đình ở nước ta hiện nay. Với đề tài “Giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2000” mà phạm vi nghiên cứu chủ yếu đề cập đến việc xác định những vấn đề có liên quan đến quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng và đường lối giải quyết cụ thể đối với tranh chấp về quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn. 5. Phương pháp nghiên cứu 10
- Trong quá trình nghiên cứu đề tài chủ yếu sử dụng phương pháp nghiên cứu sau: + Phương pháp duy vật biện chứng + Phương pháp lịch sử + Phương pháp so sánh + Phương pháp phân tích tài liệu + Phương pháp tổng hợp, đánh giá 6. Cơ cấu của luận văn - Phần mở đầu - Chương 1: Khái quát chung về quyền sử dụng đất là tài sản của vợ chồng - Chương 2:Thực trạng giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn - Chương 3: Một số kiến nghị về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn - Kết luận 11
- Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT LÀ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG 1.1. Một số khái niệm 1.1.1. Khái niệm tài sản Tài sản là công cụ của đời sống xã hội. Con người sống không thể không có tài sản. Tài sản là mục tiêu, đồng thời là phương tiện để phát triển kinh tế, xã hội. Luật Dân sự điều chỉnh hành vi của con người và quan hệ của con ng- ười đối với nhau và với tài sản. Tài sản là đối tượng của quyền sở hữu và là khách thể của phần lớn các quan hệ pháp luật dân sự, vì vậy, tài sản luôn chiếm một vị trí quan trọng trong Luật dân sự Việt Nam và pháp luật dân sự của các nước trên thế giới. Tuy nhiên, tài sản là một thuật ngữ phức tạp được hiểu theo nhiều phương diện khác nhau. Bộ luật Dân sự của các nước không có định nghĩa về tài sản. Ở Việt Nam, thuật ngữ tài sản có thể được hiểu trên hai phương diện: phương diện thông thường và phương diện pháp lý. Tài sản hiểu theo phương diện thông thường là của cải vật chất dùng vào mục đích sản xuất hoặc tiêu dùng. Theo nghĩa hẹp này, tài sản chỉ là một bộ phận của thế giới vật chất - vật cụ thể, được con người sử dụng vào mục đích sản xuất hoặc tiêu dùng. Do đó nếu đặt ra trong thực tiễn đa dạng và phong phú của các giao lưu dân sự thì quan niệm này không còn phù hợp. Trong thực tiễn giao lưu dân sự hiện nay, tài sản không còn được hiểu đơn thuần ở dạng vật 12
- chất cụ thể như quan niệm thông thường, nó đã được biểu thị ở những dạng thức khác như tiền, giấy tờ có giá, hoặc quyền tài sản Thực tế đó đã yêu cầu các nhà làm luật phải đưa ra khái niệm về tài sản đầy đủ, cụ thể hơn với yêu cầu cơ bản nhất đặt ra đối với tài sản. Điều 163 BLDS nước CHXHCN Việt Nam năm 2005 đã xác định: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản” Với ý nghĩa là một phạm trù pháp lý, vật là một bộ phận của thế giới vật chất có thể đáp ứng được một nhu cầu nào đó (vật chất) của con người. Tuy nhiên, không phải bất cứ một bộ phận nào của thế giới vật chất đều được coi là vật. Vì vậy, có những bộ phận của thế giới vật chất ở dạng này thì được coi là vật nhưng ở dạng khác thì lại không được coi là vật. Ví dụ: Không khí trong tự nhiên, nước suối, nước sông, nước biển không được coi là vật. Nhưng nếu đóng vào bình nước, hay được làm nóng, làm lạnh được coi là vật. Như vậy, ngoài yếu tố đáp ứng được nhu cầu của con người, vật với tính cách là tài sản phải nằm trong sự chiếm hữu của con người, có đặc trưng giá trị và trở thành đối tượng của giao lưu dân sự. Do sự phát triển của khoa học, công nghệ, khái niệm vật trong khoa học pháp lý cũng được mở rộng. Ví dụ: Phần mềm trong máy tính hoặc chất thải nếu sử dụng làm nguyên liệu sẽ được coi là vật, nhưng bình thường không được coi là vật. Những vật là tài sản không chỉ là những vật tồn tại hiện hữu mà còn bao gồm cả những vật (hay tài sản) chắc chắn sẽ có. Điều 175 BLDS đã xác định loại tài sản này là: hoa lợi và lợi tức. Đây chính là sự gia tăng của tài sản trong những điều kiện nhất định. Tương tự, tiền và những loại giấy tờ có giá cũng được xác định là những loại tài sản có tính chất đặc biệt. Cần phân biệt tài sản với khái niệm hàng hoá trong khoa học chính trị - kinh tế học (là sản phẩm do con người tạo ra có giá trị và giá trị sử dụng). Giá 13
- trị của hàng hoá được xác định bằng lao động xã hội đã bỏ ra để sản xuất hàng hoá đó. Đất đai, tài nguyên thiên nhiên là vật (tài sản) nhưng không phải hàng hoá vì không gắn với lao động xã hội. Vì vậy, khái niệm tài sản có phạm vi ngoại diên rộng hơn khái niệm hàng hoá. Ngoài những vật, tiền tài sản còn được xác định bao gồm quyền tài sản theo quy định tại Điều 181 BLDS: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ”. Quyền tài sản hiểu theo nghĩa rộng là quyền của cá nhân, tổ chức được pháp luật cho phép thực hiện hành vi xử sự đối với tài sản của mình và yêu cầu người khác phải thực hiện một nghĩa vụ đem lại lợi ích vật chất cho mình. Xét theo ý nghĩa này thì quyền sở hữu cũng là quyền tài sản (vật quyền). Quyền yêu cầu người khác thực hiện nghĩa vụ tài sản (trái quyền) cũng là quyền tài sản Trên cơ sở quan niệm như vậy, Luật La mã phân loại quyền tài sản (quyền dân sự) thành vật quyền và trái quyền mà không phân thành quyền tài sản và quyền sở hữu. Vì suy cho cùng quyền sở hữu tài sản cũng là quyền tài sản. Quyền tài sản hiểu theo tinh thần của Điều 181 BLDS năm 2005, nhà lập pháp muốn nói tới quyền đối nhân, tức là quyền của một chủ thể đối với một chủ thể khác và quyền này trị giá được bằng tiền. Như vậy, quyền tài sản là quyền yêu cầu người khác thực hiện nghĩa vụ có giá trị bằng một khoản tiền nhất định như trả nợ, bồi thường thiệt hại, hoặc yêu cầu người khác chuyển giao giá trị của một vật. Ví dụ, quyền yêu cầu thanh toán giá trị tài sản chung. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, xã hội nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phạm vi tài sản với tính cách là khách thể của quyền sở hữu là không hạn chế. Chúng bao gồm toàn bộ các tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng 14
- trong xã hội. Nghĩa là quyền sở hữu có thể được xác lập với bất kỳ một loại tài sản nào, miễn là pháp luật không cấm lưu thông dân sự. Ngoài ra, quyền tài sản mang tính chất đặc thù trong pháp luật Việt Nam so với pháp luật dân sự của nước khác, đó là quyền sử dụng đất hợp pháp. Quyền sử dụng đất cũng được coi là tài sản, vì nó bao hàm các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp và thừa kế. Tuy nhiên, không như các quyền tài sản khác, đất là loại tài sản đặc biệt thuộc sở hữu Nhà nước, do đó quyền này chỉ trở thành đối tượng của giao dịch dân sự trong trường hợp nhất định và trong phạm vi mà pháp luật quy định. Trong cơ chế thị trường, tài sản vô hình đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển khoa học - kỹ thuật, sản xuất hàng hoá, bảo vệ an ninh quốc phòng của một quốc gia. Vì vậy, pháp luật bảo vệ quyền sở hữu của các chủ thể đối với các sản phẩm trí tuệ của con người tạo ra - một loại tài sản “vô hình”. Quyền sở hữu trí tuệ là các quyền của cá nhân, của tổ chức đối với sản phẩm trí tuệ của mình trong các hoạt động văn hoá, nghệ thuật, trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh và các lĩnh vực nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ các quan hệ này tương đối phong phú và phức tạp, cho nên để điều chỉnh các quan hệ này một cách toàn diện, Nhà nước ta đã xây dựng Luật sở hữu trí tuệ. 1.1.2. Khái niệm chế độ tài sản của vợ chồng Chế độ tài sản của vợ chồng là một chế định quan trọng của pháp luật HN&GĐ, đã và đang thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều luật gia và các nhà áp dụng pháp luật. Chế độ tài sản của vợ chồng được quy định phụ thuộc chặt chẽ vào chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Do đó, chế độ tài sản của vợ chồng ở mỗi quốc gia và trong cùng một đất nước ở các giai đoạn phát triển có thể là khác nhau. Xuất phát từ bản chất chế độ xã hội chủ nghĩa, pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam có nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ gia 15
- đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững. Đó cũng chính là mục đích cao đẹp của quan hệ hôn nhân. Để đạt được mục đích trên, trong quan hệ giữa vợ và chồng, bên cạnh đời sống tình cảm, thương yêu, gắn bó lẫn nhau, vợ chồng cần phải có tài sản, tiền bạc, sản nghiệp, hay nói cách khác, vợ chồng phải tạo dựng cơ sở kinh tế của gia đình, bảo đảm thoả mãn những yêu cầu về vật chất, tinh thần, nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng các con. Chính vì vậy, việc Nhà nước bằng pháp luật quy định về chế độ tài sản của vợ chồng là hết sức cần thiết. Thêm vào đó, do tính chất đặc biệt của quan hệ hôn nhân được xác lập, vợ chồng cùng chung sức, chung ý chí tạo dựng tài sản chung bảo đảm đời sống chung của gia đình; cần phải có một chế độ pháp lý đặc biệt đối với tài sản chung của vợ chồng. Nhà lập pháp phải dự liệu về căn cứ, nguồn gốc, phạm vi những tài sản thuộc khối tài sản chung của vợ chồng; quyền và nghĩa vụ của vợ chồng khi thực hiện quyền sở hữu đối với tài sản chung; các trường hợp và nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng. Đây chính là cơ sở pháp lý để vợ chồng thực hiện quyền của mình đối với tài sản chung, để Toà án giải quyết các tranh chấp về tài sản giữa vợ chồng với nhau và liên quan đến quyền lợi chính đáng của những người khác trong thực tế. Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về chế độ tài sản của vợ chồng như sau: Chế độ tài sản của vợ chồng là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến quan hệ sở hữu tài sản của vợ chồng, cụ thể là các quy định về căn cứ xác lập tài sản chung và riêng của vợ, chồng; phạm vi quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với các loại tài sản đó; các trường hợp và nguyên tắc phân chia tài sản chung của vợ chồng. 1.1.2.1. Quyền của vợ chồng đối với tài sản chung * Căn cứ xác lập tài sản chung: 16
- Một trong những nguyên tắc cơ bản và quan trọng nhất của chế độ HN&GĐ được Nhà nước ta bảo hộ, đó là nguyên tắc vợ chồng bình đẳng. Nguyên tắc này chi phối toàn bộ quyền và nghĩa vụ nhân thân và tài sản giữa vợ và chồng trong suốt thời kỳ hôn nhân.[40, tr.53] Nội dung nguyên tắc (được quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật HN&GĐ năm 2000) một lần nữa tiếp tục khẳng định tư tưởng tiến bộ của Nhà nước ta trong việc quyết tâm xây dựng gia đình - những tế bào của xã hội trên nền tảng vững chắc, tự do và tiến bộ. Quyền bình đẳng của vợ chồng được xác lập trên mọi phương diện, trong đó có quyền bình đẳng đối với tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất. Theo quy định tại Điều 214 BLDS năm 2005 về sở hữu chung: “Sở hữu chung là sở hữu của nhiều chủ sở hữu đối với tài sản. Sở hữu chung bao gồm sở hữu chung theo phần và sở hữu chung hợp nhất. Tài sản thuộc hình thức sở hữu chung là tài sản chung”. Điều 217 BLDS năm 2005 quy định về sở hữu chung hợp nhất: “1. Sở hữu chung hợp nhất là sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu không được xác định đối với tài sản chung. 2. Các chủ sở hữu chung hợp nhất có quyền, nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản thuộc sở hữu chung”. Luật HN&GĐ năm 2000 của Nhà nước ta quy định tài sản chung của vợ chồng thuộc tài sản chung hợp nhất là hoàn toàn có cơ sở, điều này xuất phát từ tính cộng đồng và mục đích đặc biệt của quan hệ hôn nhân được xác lập: vợ chồng cùng chung sức, chung ý chí tạo dựng tài sản chung nhằm đảm bảo lợi ích, nhu cầu, đời sống chung của gia đình, nghĩa vụ chăm sóc lẫn nhau, chăm sóc và nuôi dưỡng các con công sức trong việc tạo dựng khối tài sản chung của vợ chồng luôn luôn có sự bao hàm công sức đóng góp của cả hai người, không thể phân biệt hay “tính đếm” người này nhiều, người kia ít. 17
- Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất. Căn cứ xác lập tài sản chung đó được quy định khá cụ thể tại khoản 1 Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000: “1. Tài sản chung của vợ chồng bao gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung. Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thoả thuận. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất . 3. Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung”. Như vậy, xét về lý thuyết, nhà làm luật đã dựa vào “thời kỳ hôn nhân” và nguồn gốc của các loại tài sản để dự liệu về vấn đề tài sản chung của vợ chồng. Khoản 7 Điều 8 Luật HN&GĐ năm 2000 đã giải thích: “Thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng tính từ ngày đăng ky kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân”. Thời kỳ hôn nhân bắt đầu từ khi kết hôn tức là ngày UBND xã, phường, thị trấn - nơi thường trú của vợ hoặc chồng công nhận và ghi vào Sổ đăng ký kết hôn đồng thời cấp giấy chứng nhận kết hôn cho hai vợ chồng. Quan hệ hôn nhân chấm dứt khi một bên vợ, chồng chết, hoặc vợ chồng ly hôn (từ khi phán quyết ly hôn của toà án có hiệu lực pháp luật). Các tài sản mà vợ hoặc chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân đều được coi là tài sản chung của vợ chồng, vợ, chồng có quyền bình đẳng trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt mà không phụ thuộc vào khả năng trực tiếp tạo ra tài sản hay công sức đóng góp của mỗi bên. Quy định này không 18
- chỉ có trong Luật HN&GĐ Việt Nam mà hệ thống pháp luật HN&GĐ nhiều nước trên thế giới, khi lựa chọn chế độ cộng đồng tạo sản pháp định đều có những quy định như vậy. Ví dụ: Điều 27 Luật HN&GĐ và giám hộ của Cộng hoà nhân dân Hung-ga-ry quy định: “Từ sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống với nhau theo chế độ tài sản chung trong suốt thời kỳ hôn nhân. Vì vậy, được coi là sở hữu chung không phân chia tất cả những gì mà cả hai người hoặc một trong hai người có được trong thời kỳ hôn nhân, trừ những tài sản thuộc sở hữu riêng cá nhân của mỗi người”. Nếu như thời kỳ hôn nhân có ý nghĩa trong việc xác định thời điểm phát sinh tài sản chung thì nguồn gốc tài sản có ý nghĩa xác định cụ thể những tài sản nào thuộc tài sản chung của vợ chồng. Khoản 1 Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định tài sản do vợ, chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng. Tuy nhiên, Luật HN&GĐ và các văn bản hướng dẫn có liên quan chưa có quy định cụ thể về loại tài sản này. Hành vi “tạo ra” tài sản có thể hiểu một bên vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng lao động trực tiếp bằng sức lao động của mình để tạo ra tài sản cho gia đình, như xây dựng nhà, đóng tủ, giường, chế tạo các vật dụng trong sản xuất và sinh hoạt, làm vườn cây, ao cá Mặt khác, xuất phát từ điều kiện phân công lao động, tài sản do vợ, chồng tạo ra cũng có thể được hiểu đó là những tài sản do người thứ ba làm ra, nhưng vợ, chồng đã dùng các khoản thu nhập, hoặc các vật có giá trị trao đổi khác trong khối tài sản chung tham gia các giao dịch dân sự để “mua” lại quyền sở hữu đối với tài sản đó, hoặc vợ chồng sử dụng tiền bạc của mình để “thuê” người khác trực tiếp tạo ra những tài sản đó thông qua các hợp đồng cụ thể thì những tài sản này cũng được coi là tài sản do vợ, chồng tạo ra. Hiểu tài sản do vợ, chồng tạo ra theo nghĩa này cũng được ghi nhận trong pháp luật HN&GĐ của một số nước, ví dụ: khoản 1 Điều 30 Luật Gia đình Cộng hoà Cuba quy định cũng coi là tài sản chung đối với những “tài sản mua sắm và quyền lợi tạo ra trong thời gian 19
- hôn nhân bằng tiền thuộc vốn chung dù là nhân danh cả hai vợ chồng hoặc nhân danh một người mà mua sắm tài sản mà tạo quyền lợi.” Điều 14 Luật HN&GĐ năm 1986 của Nhà nước ta cũng quy định thu nhập về nghề nghiệp và những thu nhập hợp pháp khác của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng. Kế thừa và cụ thể hoá quy định trên, khoản 1 Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định: Thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân cũng là tài sản chung của vợ chồng. Thu nhập là một thuật ngữ có thể hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau, theo từ điển tiếng Việt, thu nhập được hiểu là “nhận được tiền bạc, của cải vật chất từ một hoạt động nào đó” [36, tr. 925], theo từ điển thuật ngữ về thuế, thu nhập là “quyền lợi kinh tế; tiền hay các giá trị nhận được”. Còn theo từ điển Luật gia đình (Familylaw Dictionary) của Robin Leonard & Elias năm 1990 (USA): “Thu nhập (earnings) là những khoản tiền công, tiền lương và các khoản lợi tức (như các khoản trợ cấp có được từ các hợp đồng bảo hiểm về sức khoẻ, bảo hiểm nhân thọ; tiền trợ cấp, tiền lương hưu, các khoản tiền công được thanh toán sau khi hoàn thành một hợp đồng, lợi tức phát sinh từ cổ phiếu ) có được do người sử dụng lao động trả hoặc do chính bản thân làm ra”. Như vậy, thu nhập của vợ, chồng có thể được hiểu là những lợi ích vật chất mà vợ, chồng có được bao gồm các khoản tiền công, tiền lương phát sinh từ các hoạt động lao động mang tính chất nghề nghiệp, không mang tính chất nghề nghiệp hoặc các khoản lợi tức phát sinh từ các hoạt động sử dụng, quản lý tài sản trong sản xuất kinh doanh hoặc trong giao lưu dân sự. Đây là loại thu nhập xuất phát từ các quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992 là “quyền được lao động và có việc làm ”; “quyền tự do sản xuất kinh doanh” [8, tr. 35-36]. 20
- Ngoài các khoản thu nhập do lao động, sản xuất kinh doanh, vợ, chồng còn có thể có các thu nhập hợp pháp khác (tiền thưởng, tiền trợ cấp, tiền trúng sổ số, xác lập quyền sở hữu đối với vật vô chủ, vật bị chôn giấu, bị chìm đắm ) Tài sản chung của vợ chồng còn bao gồm tài sản do vợ chồng được thừa kế chung, được tặng cho chung. Đây là trường hợp xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng phụ thuộc vào sự định đoạt của chủ sở hữu hoặc theo quy định của pháp luật về thừa kế. Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn có thể là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất là một loại quyền dân sự đặc thù, vì đây là loại quyền phụ thuộc, chịu sự chi phối bởi quyền độc lập là quyền sở hữu toàn dân về đất đai; vợ chồng chỉ có được quyền tài sản này khi được Nhà nước giao đất hoặc cho thuê đất; vợ chồng không có đầy đủ các quyền năng của chủ sở hữu như đối với các tài sản khác (không có quyền tiêu huỷ tài sản ); đồng thời, khi thực hiện quyền sử dụng đất, vợ chồng cũng phải thực hiện những điều kiện chặt chẽ được quy định trong pháp luật về hình thức, thời hạn thực hiện quyền, mục đích sử dụng Xuất phát từ thực tế cuộc sống chung, do nhu cầu thiết yếu của gia đình, do đời sống tình cảm mà vợ, chồng đã tự nguyện nhập tài sản riêng vào tài sản chung hoặc vợ chồng đã thoả thuận tài sản riêng của một trong hai bên là tài sản chung của vợ chồng, Luật HN&GĐ năm 2000 quy định cũng thuộc khối tài sản chung đối với những tài sản mà vợ chồng có thoả thuận là tài sản chung. * Nội dung quyền sở hữu đối với tài sản chung của vợ chồng: Việc xác lập quan hệ hôn nhân và gia đình xã hội chủ nghĩa trên cơ sở bình đẳng và nhằm mục đích xây dựng gia đình dân chủ, hoà thuận, hạnh phúc. Điều 28 Luật HN&GĐ Việt Nam quy định “Vợ chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản 21
- chung”. Chế độ cộng đồng tạo sản là một chế độ có nhiều ưu điểm phù hợp với tình hình phát triển xã hội, nhu cầu và tâm lý của vợ chồng. Chế độ cộng đồng tạo sản không chỉ có trong Luật HN&GĐ nước ta mà pháp luật của nhiều nước trên thế giới đều quy định vấn đề này.[31, tr.190] Luật HN&GĐ năm 1986 tại Điều 15 có quy định quyền và nghĩa vụ ngang nhau của vợ chồng đối với tài sản chung. Điều 28 Luật HN&GĐ năm 2000 làm rõ hơn nội dung quyền này. Vấn đề bình đẳng trong quyền sở hữu đối với tài sản chung được Luật HN&GĐ năm 2000 thể hiện cụ thể ở ba quyền năng: Quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt phù hợp với quy định của BLDS năm 2005 về nội dung quyền sở hữu. Trong gia đình, vợ cũng như chồng đều có quyền nắm giữ, quản lý tài sản thuộc sở hữu chung, đều có quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản cũng như quyền định đoạt số phận của tài sản đó như chuyển giao quyền sở hữu hoặc từ bỏ quyền sở hữu. Theo khoản 1 Điều 28 Luật HN&GĐ năm 2000, quyền chiếm hữu là yếu tố đầu tiên trong quyền sở hữu tài sản chung của vợ chồng , đó là quyền năng của chủ sở hữu tự mình nắm giữ, quản lý tài sản thuộc sở hữu của mình, là quyền kiểm soát, làm chủ và chi phối vật đó theo ý chí của mình. Vợ chồng có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu tài sản chung, điều đó không có nghĩa cả hai bên phải là người trực tiếp nắm giữ, quản lý tài sản mà cho dù chỉ một bên nắm giữ tài sản (do người kia đi công tác xa hoặc do một trong hai bên cất giữ) thì cả hai bên đều có quyền định đoạt, sử dụng đối với khối tài sản chung đó. Quyền sử dụng là “quyền của chủ sở hữu khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản”(Điều 192 BLDS năm 2005), quyền định đoạt là “quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó” (Điều 195 BLDS năm 2005). Tài sản chung của vợ chồng được chi dùng để bảo đảm nhu cầu chung của gia đình, thực hiện các nghĩa vụ chung của vợ chồng. Vợ 22