Luận văn Giải quyết tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ thực tiễn xét xử của tòa án nhân dân Thành phố Hải Dương
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Giải quyết tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ thực tiễn xét xử của tòa án nhân dân Thành phố Hải Dương", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_giai_quyet_tranh_chap_ve_hop_dong_chuyen_nhuong_quy.pdf
Nội dung text: Luận văn Giải quyết tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ thực tiễn xét xử của tòa án nhân dân Thành phố Hải Dương
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN ĐÌNH CHIẾN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI DƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội, 2018
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN ĐÌNH CHIẾN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI DƯƠNG Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số : 8 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. PHẠM HỮU NGHỊ Hà Nội, 2018
- LỜI CẢM ƠN Luận văn thạc sĩ với đề tài “Giải quyết tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương” là kết quả của quá trình cố gắng không ngừng của bản thân và được sự giúp đỡ, động viên khích lệ của các thầy, bạn bè đồng nghiệp và người thân. Tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS Phạm Hữu Nghị đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới lãnh đạo Học viện Khoa học xã hội, các thầy cô Khoa Luật Kinh tế đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Xin cảm ơn gia đình và người thân; cảm ơn sự giúp đỡ, động viên của những người bạn và các đồng nghiệp! Hà Nội, ngày 28 tháng 3 năm 2018 TÁC GIẢ LUẬN VĂN Nguyễn Đình Chiến
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất ký công trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ rang, được trích dẫn dung quy định. Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này. Tôi xin chân thành cảm ơn! TÁC GIẢ LUẬN VĂN Nguyễn Đình Chiến
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT 7 1.1. Các khái niệm về quyền sử dụng đất, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất 7 1.2. Nguyên nhân và hậu quả của tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất 15 1.3. Những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thông qua hoạt động xét xử của Tòa án 19 Chương 2. THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI DƯƠNG 25 2.1.Thực tiễn giải tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương 25 2.2. Một số hạn chế, vướng mắc phát sinh trong quá trình giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại Tòa án Nhân dân thành phố Hải Dương thời gian qua 48 Chương 3. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT 55 3.1.Định hướng bảo đảm việc giải quyết tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại Tòa án 55 3.2. Một số giải pháp thực hiện pháp luật về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại thành phố Hải Dương 58 KẾT LUẬN 67 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 69
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thực trạng tranh chấp về bất động sản nói chung và về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nói riêng ở nước ta hiện nay đã và đang là vấn đề phức tạp, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế đất nước và ổn định xã hội. Nguyên nhân của các tranh chấp như thế nào, cơ chế giải quyết tranh chấp có bảo vệ được kịp thời và chính xác các quyền và lợi ích hợp pháp của các bên khi tham gia giao dịch hay không là những vấn đề rất quan trọng và cần phải được thực hiện phù hợp với các quy định của pháp luật (bao gồm cả pháp luật nội dung cũng như pháp luật hình thức). Vấn đề nghiên cứu tìm hiểu về các quy định pháp luật hiện hành cũng như đi sâu vào phân tích, đánh giá những vướng mắc qua thực tiễn xét xử là nội dung quan trọng để góp phần hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp này hiện nay tại Tòa án, nhằm bảo vệ được quyền và lợi ích tối đa của các bên khi tham gia giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Những năm qua, tình hình khởi kiện đối với tranh chấp về đất đai mà đặc biệt là tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày càng gia tăng với tính chất và mức độ khá phức tạp. Thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương đối với các dạng tranh chấp này cũng ngày càng gia tăng và chiếm tỷ lệ lớn nhất trong các dạng tranh chấp về hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất. Mỗi năm, toà án nhân dân các cấp thụ lý và giải quyết hàng ngàn vụ tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Nhìn chung, ngành Toà án nhân dân đã giải quyết thành công một số lượng lớn các vụ tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, chất lượng xét xử ngày càng cao, phần nào bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức xã hội và công dân. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng, vì nhiều lý do khác nhau, nhiều lúc, nhiều nơi hoạt động giải quyết tranh chấp đất đai chưa thực sự đem lại hiệu quả như mong muốn. Số lượng án bị hủy, sửa ngày càng gia tăng. Thực trạng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu vẫn đang tồn tại, là một vấn đề bức 1
- xúc, tình trạng hợp đồng được giao kết giả tạo, lừa dối nhau, thực hiện chuyển nhượng tài sản không thuộc quyền sử dụng hợp pháp của mình, giao kết chuyển nhượng quyền sử dụng đất vi phạm điều cấm của pháp luật, hình thức của hợp đồng, không tuân thủ theo quy định của pháp luật xâm phạm đến quyền và lợi ích chính đáng của các bên chủ thể, gây thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích cá nhân, lợi ích xã hội và đặc biệt là gây nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Tòa. Bên cạnh đó, việc xác định tính hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật vẫn còn bộc lộ nhiều vấn bất cập, các quy định có sự chồng chéo, trái ngược nhau, gây nhiều lúng túng trong việc áp dụng pháp luật để giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu, điều đó gây ảnh hưởng đến việc nhận thức đánh giá của cơ quan có thẩm quyền trong quá trình giải quyết tranh chấp. Qua nghiên cứu tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất hiện hành để giải quyết tại tòa án nhân dân nhằm phát hiện ra những hạn chế, thiếu sót, bất cập của hệ thống pháp luật và từ đó đưa ra được những kiến nghị, các giải pháp giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền có những điều chỉnh phù hợp, góp phần tiếp tục hoàn thiện các văn bản pháp luật về đất đai cho phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội của đất nước trong điều kiện hội nhập hiện nay là việc làm mang ý nghĩa to lớn. Sự nhận thức đúng đắn, đầy đủ các quy định về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là cấp thiết trong hoạt động thực tiễn khi thực hiện pháp luật và vận dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của Toà án. Những điều trình bày trên đây chính là lý do của việc chọn đề tài "Giải quyết tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương" làm luận văn thạc sĩ. 2
- 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Thời gian gần đây, có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều bài viết của các nhà khoa học, các chuyên gia trong lĩnh vực đất đai và trong ngành Tòa án đề cập đến vấn đề tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai bằng Tòa án ở cả khía cạnh lí luận và thực tiễn. Cụ thể: Đề tài khoa học cấp bộ năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, do Nguyễn Văn Luật làm chủ nhiệm đề tài; “Tranh chấp đất đai và thẩm quyền giải quyết của Tòa án”, Luận văn Thạc sỹ luật học của Châu Huế (2003), Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội; “Giải quyết tranh chấp đất đai theo Luật đất đai 2003”, Luận văn thạc sỹ luật học của Phạm Thị Hương Lan (2009), Viện Nhà nước và Pháp luật; đề tài “Cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất tại toà án nhân dân”; “Giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án từ thực tiễn tại Tp. Đà Nẵng” Luận văn thạc sỹ luật học của Mai Thị Tú Oanh (2008); Báo cáo tham luận “Thực trạng giải quyết tranh chấp đất đai tại tòa án nhân dân – Kiến nghị và giải pháp” của TS. Nguyễn Văn Cường và cử nhân Trần Văn Tăng, Viện khoa học xét xử, Tòa án nhân dân tối cao tại hội thảo “Tình trạng tranh chấp và khiếu kiện đất đai kéo dài: Thực trạng và giải pháp”, ngày 08 – 09 tháng 10 năm 2008 tại Buôn Mê Thuột – Đắc Lắc; chuyên khảo “Pháp luật dân sự và thực tiễn xét xử” của tác giả Tưởng Duy Lượng, do Nxb. Chính trị quốc gia xuất bản năm 2008 và tái bản có sửa chữa, bổ sung năm 2009 Nhìn nhận một cách tổng quan thì các công trình, các bài viết nêu trên được tiếp cận, nghiên cứu, nhận định và đánh giá dưới nhiều khía cạnh và ở những mức độ khác nhau về những nội dung có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến pháp luật về tranh chấp đất đai và hoạt động giải quyết tranh chấp đất đai. Tuy nhiên, một công trình nghiên cứu độc lập và riêng về tranh chấp và giải quyết tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, đặc biệt lại đặt vấn đề nghiên cứu từ thực tiễn thực thi tại Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương thì đây là công trình mang tính chuyên biệt và chưa được nghiên cứu 3
- trước đây. Vì vậy, đề tài nghiên cứu của tôi vẫn mang ý nghĩa lí luận và thực tiễn sâu sắc. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Đề tài "Giải quyết tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương" có mục đích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thông qua hoạt động xét xử tại Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương. Từ đó đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở Việt Nam. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nói trên, luận văn có các nhiệm vụ sau đây: - Làm sáng tỏ những vấn đề mang tính lý luận về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thông qua hoạt động xét xử tại tòa án. Nghiên cứu các yếu tố chi phối việc giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại tòa án; căn cứ đánh giá hiệu quả và các yếu tố quyết định hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại toà án. - Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và thực tiễn áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại tòa án, từ đó chỉ ra những khó khăn, vướng mắc trong quá trình giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của tòa án hiện nay. - Nêu các phương hướng và đề xuất các giải pháp cụ thể, thích hợp góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, giúp các cơ quan chức năng nói chung và tòa 4
- án nói riêng giải quyết các tranh chấp này một cách có hiệu quả, tránh việc khiếu kiện kéo dài gây ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. 4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi Luận văn có đối tượng nghiên cứu là: Các văn bản quy phạm pháp luật nội dung về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và giải quyết tranh chấp này qua các thời kỳ lịch sử khác nhau; thực tiễn công tác giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương thông qua một số vụ án cụ thể trong những năm gần đây. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu như: - Phương pháp luận duy vật biện chứng, phương pháp luận duy vật lịch sử Mác – Lênin. - Phương pháp khảo sát, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích logic, phương pháp đánh giá. - Phương pháp thống kê: nghiên cứu chi tiết các số liệu lưu trữ tại sổ theo dõi thụ lý và giải quyết án dân sự của Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương, tổng số vụ án về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu, đồng thời ghi nhận chi tiết nội dung vô hiệu, từ đó xác định tỷ lệ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu trên thực tế. - Phương pháp liệt kê: đưa ra các dạng tranh chấp, đưa ra tiêu chí phân loại hợp đồng vô hiệu cơ bản đang tồn tại. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Có thể coi luận văn là công trình nghiên cứu chuyên sâu và toàn diện về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại tòa án thông qua thực tiễn áp dụng pháp luật để xét xử các tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Những kết luận và đề xuất, kiến nghị mà luận văn nêu ra đều có cơ sở khoa học và thực tiễn. Vì vậy, chúng có giá trị tham khảo trong các cơ sở nghiên cứu và đào tạo luật học. 5
- Những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể có giá trị tham khảo đối với những người làm công tác xét xử các tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong hệ thống tòa án nhân dân. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại Tòa án, cơ sở pháp lý của giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại Tòa án. Chương 2: Thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại tòa án nhân dân thành phố Hải Dương. Chương 3: Định hướng và giải pháp bảo đảm trong việc giải quyết tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. 6
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT 1.1 Các khái niệm về quyền sử dụng đất, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất 1.1.1. Khái niệm quyền sử dụng đất Ở mỗi chế độ khác nhau việc chiếm hữu đất đai cũng khác nhau. Trong chế độ phong kiến, tư bản đất đai thuộc sở hữu tư nhân, giai cấp thống trị chiếm hữu hầu hết diện tích đất đai. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, đất đai phục vụ lợi ích chung của nhân dân lao động và toàn thể xã hội. Dưới góc độ pháp lý, quyền sử dụng đất được Nhà nước giao hoặc cho thuê là một quyền năng tài sản. Đây là khả năng pháp lý nhằm thực hiện những hành vi nhất định để sử dụng, khai thác lợi ích vì đất đai. Vì đất đai là tài nguyên thiên nhiên, không phải là tài sản do con người tạo ra nên quyền sử dụng đất cũng có những đặc điểm khác so với các loại tài sản thông thường khác, quyền sử dụng đất là quyền năng độc lập thuộc quyền sở hữu đất đai. Tuy nhiên, trên thực tế Nhà nước không trực tiếp sử dụng mà giao một phần đất đai của mình cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng, đồng thời quy định cho họ các quyền và nghĩa vụ nhất định trong quá trình sử dụng đất của Nhà nước. Việc quy định các quyền này một mặt biểu hiện ý chí của Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu, mặt khác còn biểu hiện ý chí của Nhà nước với tư cách là người nắm quyền lực chính trị trong tay, trực tiếp ban hành pháp luật nên các quyền và nghĩa vụ đó đã được quy phạm hóa ở mức độ cụ thể, chặt chẽ và được coi là cơ sở pháp lý để người sử dụng đất tuân thủ nhằm sử dụng vốn đất đai của Nhà nước một cách hợp pháp, tiết kiệm, đạt hiệu quả kinh tế cao. Toàn bộ các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành trong đó quy định và bảo vệ các quyền và nghĩa vụ của các tổ chức được Nhà nước giao đất cho sử dụng tạo thành quyền sử dụng đất (hay chế độ sử dụng đất đai). 7
- Từ những lý luận ở trên, khái niệm về quyền sử dụng đất có nghĩa là: Quyền sử dụng đất (chế độ sử dụng đất) là toàn bộ các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành trong đó quy định về việc bảo vệ các quyền và nghĩa vụ của các cá nhân, tổ chức được nhà nước giao đất sử dụng. Với ý nghĩa đó, chế độ sử dụng đất đai là một chế định quan trọng của ngành Luật đất đai. Theo Từ điển Giải thích thuật ngữ Luật học – Trường Đại học Luật Hà Nội, Nhà xuất bản Công an Nhân dân năm 1999, có giải thích: “Quyền sử dụng đất của Nhà nước là quyền khai thác các thuộc tính có ích từ đất để phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế và đời sống xã hội. Nhà nước thực hiện quyền sử dụng đất một cách gián tiếp thông qua việc giao đất cho các tổ chức, cá nhân sử dụng. các tổ chức, cá nhân này khi sử dụng có nghĩa vụ đóng góp vật chất cho Nhà nước dưới dạng thuế sử dụng đất, tiền sử dụng đất.” [54] Thật vậy, trước hết chúng ta phải hiểu quyền sử dụng đất là một quyền tự nhiên, khi con người chiếm hữu đất đai, thì họ sẽ thực hiện hành vi sử dụng đất mà cụ thể là khai thác tính năng quyền sử dụng đất mà không quan tâm đến hình thức của nó. Thông qua hành vi sử dụng đất mà con người có thể thỏa mãn với những nhu cầu của mình cũng như làm ra của cải cho xã hội. Quyền sử dụng đất được xem như một quyền năng pháp lý, quyền năng này được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Đất đai càng trở nên quang trọng nhất, thiết yếu nhất trong xã hội, sử dụng đất trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản tạo điều kiện cho người sử dụng đất thực hiện quyền sử dụng đất nhằm khai thác hưởng lợi trực tiếp tử đất đai. Nếu như không có đất đai, thì lao động của con người không thể sản sinh ra lúa gạo phục vụ nhu cầu cần thiết thường ngày. Khi xác định mối quan hệ của lao động và đất đai, Các Mác cho rằng: “ Lao động là yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất nhưng không phải là yếu tố duy nhất tạo ra của cải vật chất – Lao động phải kết hợp với đối tượng lao động mới sản xuất ra của cải vật chất”. Luật đất đai năm 2013 khẳng định: người sử dụng đất có quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tặng/cho quyền sử dụng đất tuy nhiên không thể 8
- đồng nhất quyền sở hữu đất đai với quyền sử dụng đất bởi chúng có sự khác nhau về nội dung và ý nghĩa. Quyền sở hữu đất đai là quyền ban đầu (có trước) còn quyền sử dụng đất là quyền phái sinh (có sau) xuất hiện khi nhà nước giao đất hoặc cho thuê đất cho phép chuyển mục đích sử dụng đất hay công nhận quyền sử dụng đất. Quyền sở hữu đất đai là một loại quyền trọn vẹn, đầy đủ còn quyền sử dụng đất lại không trọn vẹn đầy đủ, Bởi vì, thứ nhất, người sử dụng đất không có đầy đủ các quyền năng như Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu; thứ hai, không phải người nào cứ có quyền sử dụng đất hợp pháp là có đủ 9 quyền năng của người sử dụng đất. Luật đất đai năm 2003 có sự phân biệt giữa các chủ thể sử dụng đất và ghi nhận chính thức quyền chuyển nhượng sử dụng đất, tuy nhiên không đồng nhất quyền sở hữu đất đai với quyền sử dụng đất. Bên cạnh đó tạo điều kiện cho các chủ thể tham gia quan hệ chuyển quyền sử dụng đất được thực hiện trong khuôn khổ pháp lý, người có quyền sử dụng đất được thực hiện quyền chuyển quyền sử dụng đất theo một thể thức nhất định, cơ chế pháp lý rõ ràng nhằm ràng buộc trách nhiệm của các bên. Chẳng hạn, chủ hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất không phải là đất thuê mời có quyền chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp trong cùng một xã, phường, thị trấn với hộ gia đình khác (Điều 113), tổ chức kinh tế được Nhà nước cho thuê đất theo hình thức trả tiền thuê đất hàng năm chỉ có quyền bán, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất thuê (Điều 111). Chuyển nhượng quyền sử dụng đất là việc người có quyền sử dụng đất có thể chuyển quyền sử dụng đất của mình cho người khác bằng một trong các hình thức sau: chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thế chấp, tặng cho, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất, Chuyển quyền sử dụng đất là việc chủ thể đang sử dụng đất có hành vi điều chỉnh chuyển quyền sử dụng đất của mình cho chủ thể mới một cách hợp pháp và được nhà nước công nhận. Hay nói cách khác, chuyển nhượng quyền sử dụng đất là việc nhà nước cho phép sử 9
- dụng đất có thể định đoạt đối với quyền sử dụng đất hợp pháp của mình theo đúng quy định của pháp luật. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là hợp đồng theo đó người sử dụng đất (gọi là bên chuyển quyền sử dụng đất) chuyển giao đất và quyền sử dụng đất cho người được chuyển nhượng (gọi là bên nhận quyền sử dụng đất) theo các điều kiện, nội dung, hình thức được quy định trong Bộ luật dân sự và pháp luật về đất đai.Người được chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải trả cho người chuyển nhượng một số tiền là giá trị của quyền sử dụng đất. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải được lập thành văn bản, phải được phép của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Các bên phải làm thủ tục và đăng ký tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về đất đai. 1.1.2. Tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Tranh chấp đất đai và tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ là một hiện tượng xã hội xảy ra trong đời sống xã hội và tồn tại ở mọi thời kỳ lịch sử. Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ phụ thuộc vào chế độ sở hữu đất đai. Trước năm 1980, đất đai thuộc sở hữu nhiều thành phần kinh tế khác nhau gồm: Sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu cá nhân về đất đai. Khi đó tranh chấp thường diễn ra với nhiều loại hình khác nhau như tranh chấp về mua bán đất, tranh chấp về chuyển nhượng hay tranh chấp về cho tặng nhà đất, Nhưng tử khi Hiến pháp năm 1980 được ban hành cho tới nay thì chế độ sở hữu đất đai thuộc toàn dân, do Nhà nước quản lý. Lúc này tổ chức, cá nhân đối với đất đai trên cơ sở được Nhà nước giao đất, cho thuê đất và công nhân QSDĐ. Tranh chấp đất đai trước Hiến pháp năm 1992 và LĐĐ năm 1993 chủ yếu là các dạng tranh chấp về quyền quản lý, sử dụng. Vì thời gian đó nhà nước chưa thừa nhận và nghiêm cấm người sử dụng đất được phép chuyển nhượng QSDĐ. Cá nhân, tổ chức người sử dụng đất chỉ có quyền mua bán và chuyển nhượng thành quả từ đất, tài sản có trên đất. Người nào nhận chuyển nhượng thành quả từ đất hay mua tài sản trên đất của người khác thì được nhà nước thừa nhận QSDĐ. Tại Điều 117 Luật đất đai năm 2015 quy định: “Người được thừa kế nhà ở hoặc 10
- người chưa có chỗ ở, khi được người khác chuyển nhượng nhà để ở, sau khi được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền công nhận quyền sở hữu đối với nhà ở thì được quyền sử dụng đất ở có ngôi nhà đó”. [5] Nhưng thực chất trong thời điểm này vẫn đang diễn ra nhưng giao dịch ngầm về việc chuyển nhượng QSDĐ. Thực tế cho thấy, đôi khi việc thỏa thuận chuyển nhượng thành quả từ đất, hoặc mua bán tài sản trên đất chỉ là hình thức, mục đích của các bên đều hướng tới là chuyển nhượng QSDĐ. Hoặc việc người dân tự ý lập văn bản chuyển nhượng bằng giấy viết tay có sự thỏa thuận về giao tiền và nhận đất mà không thông qua chính quyền địa phương. Như vậy, thời điểm này tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ ẩn chứa rất nhiều giao dịch khác gắn liền với đất Kể từ khi Hiến pháp năm 1992 và LĐĐ năm 1993 được ban hành thì Nhà nước đã chính thức cho người sử dụng đất được quyền chuyển nhượng QSDĐ, Quyền chuyển nhượng QSDĐ tiếp tục được thực hiện và ghi nhận tại B:DS năm 1995, LDD năm 2003, BLDS năm 2005 và LĐĐ năm 2013. Tuy nhiên thuật ngữ “tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” chưa chính thức được giải thích, mà chủ yếu được hiểu ngầm qua các quy định của pháp luật về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ. Theo Đại từ điển Tiếng Việt, tranh chấp có nghĩa là “tranh giành nhau một cách giằng có cái không thuộc về bên nào,là sự đấu tranh khi có ý kiến bất đồng, thường là trong vấn đề quyền lợi giữa hai bên”. Trong đời sống xã hội có rất nhiều dạng tranh chấp khác nhau, tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ là một loại tranh chấp cụ thể. Tiếp cận dưới góc độ pháp lý, tranh chấp về hợp đồng được hiểu là những xung đột, bất đồng, chính kiến, mâu thuẫn giữa các bên về việc giao kết, thực hiện hoặc không thực hiện các quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng. Lần đầu tiên tại khoản 24 Điều 4 LĐĐ năm 2003 đưa ra được một khái niện chung về tranh chấp đất đai, theo đó: “ Tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai”. Tuy nhiên, tranh chấp đất đai có nhiều dạng tranh chấp, 11
- nhất là việc xác định tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ. Có nhiều quan điểm pháp lý đưa ra khái niệm về tranh chấp đất đai như sau: “ Tranh chấp đất đai là sự bất đồng, mâu thuẫn hay xung đột về lợi ích, quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia vào các quan hệ pháp luật đất đai” [21]. Trong quan hệ hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ, chủ thể tham gia chính là bên chuyển nhượng QSDĐ và bên nhận chuyển nhượng QSDĐ. Do đó, hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên chuyển nhượng QSDĐ chuyển giao đất và QSDĐ cho bên nhận chuyển nhượng, còn bên nhận chuyển nhượng trả tiền cho bên chuyển nhượng theo quy định của BLDS và LĐĐ . Xuất phát từ khái niệm hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ ta có thể hiểu, tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ chính là sự mâu thuẫn, xung đột giữa hai bên chuyển nhượng với bên nhận chuyển nhượng QSDĐ khi giao kết hợp đồng, khi thực hiện hợp đồng như giao nhận QSDĐ và giao nhận tiền. Thực tế có rất nhiều trường hợp xảy ra người thứ ba cũng có thể trở thành chủ thể của tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của các bên thì người thứ ba có quyền yêu cầu hủy bỏ hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ đã được ký để bảo vệ quyền và lợi ích của mình khi bị xâm phạm. Đối tượng tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ là việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ khi giao kết và thực hiện hợp đồng của bên nhận chuyển nhượng và bên chuyển nhượng hoặc bên thứ ba liên quan tới giá trị pháp lý của hợp đồng. Việc giao kết và thực hiện hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ phải tuân theo quy định của BLDS và LĐĐ. Từ những phân tích nói trên có thể đưa ra kết luận về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ là sự bất đồng, mâu thuẫn hay xung đột về mặt lợi ích, về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia ký kết và thực hiện hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ. Tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ chỉ thực sự sôi động trong nền kinh tế thị trường và nhà nước quản lý xã hội thông qua hệ thống pháp luật, chính sách thuế, đất đai được thừa nhận có giá trị, quyền sử dụng đất được 12
- các bên tham gia giao dịch trên thị trường và bị chi phối bởi các quy luật của thị trường. Hiện tượng tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ luôn xảy ra phổ biến và phức tạp, diễn ra ở những thị trường bất động sản, giao dịch nhà đất tăng cao, lợi nhuận cho các nhà đầu tư từ việc thực hiện các giao dịch cũng như kéo theo các hệ lụy như: mục đích tối thượng và lợi nhuận nên các chủ thể tham gia giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã bất chấp các hành vi vi phạm pháp luật để thực hiện giao dịch trá hình. Biểu hiện trong việc ký kết và thực hiện giao kết về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải kể đến là hợp đồng chuyển nhượng không được công chứng, chứng thực và đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền; chủ thể tham gia ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không có đủ điều kiện không được phép giao dịch; đối tượng của hợp đồng chuyển nhượng đang bị tranh chấp. Bên cạnh đó, quá trình ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục theo luật định, các bên thực hiện không đúng theo hợp đồng. Tất cả những sai phạm đó dẫn đến sự bất đồng, mâu thuẫn giữa bên này với bên kia trong quan hệ giao dịch. Có thể thấy tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ được thể hiện ở những nội dung khác nhau như: chủ thể, đối tượng, giá cả hay phương thức thanh toán nhưng chúng đều phản ánh một bản chất chung đó là những mâu thuẫn, bất đồng và xung đột về các quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham gia ký kết và thực hiện hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ. Trong cuộc sống hàng ngày, có những tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có giá trị hoặc lợi ích có ảnh hưởng không lớn, hậu quả có thể khắc phục được thì quá trình giải quyết vẫn được các bên giải quyết ổn thỏa thông qua các thỏa thuận và thương lượng để tìm ra hướng giải quyết có lợi cho cả hai bên. Tuy nhiên thực tế lại có rất nhiều vụ tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất gây thiệt hại và hậu quả nghiêm trọng cho cả hai bên vì không thống nhất được tiếng nói chung trong việc giải quyết mâu 13
- thuẫn, xung đột thì tranh chấp là tất yếu; dẫn tới khiếu nại, tố cáo và thậm chí khởi kiện nhau tại Tòa án. Do đó bản chất của tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được biểu hiện thông qua những đặc trưng cơ bản sau đây: Thứ nhất: Các chủ thể tranh chấp đất đai là chủ thể quản lý và sử dụng đất, không có quyền sở hữu đối với đất đai. Quyền sử dụng đất của các chủ thể được xác lập dựa trên quyết định giao đất, cho thuê đất của Nhà nước hoặc được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất. Trên cơ sở quyền sử dụng đất được Nhà nước trao cho, người sử dụng đất bên cạnh quyền được tiến khai thác các giá trị và khả năng sinh lời của đất, họ còn được thực hiện các giao dịch chuyển quyền sử dụng đất, trong đó có quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Vì vậy, khi tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất xảy ra thì chủ thể tranh chấp trong trường hợp này chỉ là chủ thể có quyền sử dụng đất chứ không phải là chủ thể có quyền sở hữu đất đai. Thứ hai: Đối tượng của tranh chấp đất đai là quyền quản lý, quyền sử dụng và những lợi ích phát sinh từ quá trình sử dụng đất đai theo quy định của pháp luật. Đất đai là loại tài sản đặc biệt không thuộc quyền sở hữu của các bên tranh chấp mà thuộc quyền sở hữu của Nhà nước. Đối tượng của tranh chấp được biểu hiện dưới dạng quyền - quyền sử dụng đất chứ không phải bản thân đất đai. Điều này hoàn toàn khác biệt với các tranh chấp các tài sản thông thường khác, chúng thuộc quyền sở hữu của chính chủ thể tranh chấp. Đây cũng là yếu tố đặc biệt, chi phối lớn tới quá trình giải quyết tranh chấp đất đai nói chung và giải quyết tranh chấp đất hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại Tòa án nói riêng. Theo đó, việc giải quyết tranh chấp không chỉ hướng tới bảo vệ quyền và lợi ích của các bên tham gia quan hệ mà còn còn bảo vệ cho chủ thể có quyền sở hữu - đó là Nhà nước. Thứ ba: Tranh chấp đất đai không chỉ ảnh hưởng đến lợi ích trực tiếp của các bên tham gia tranh chấp, mà còn phát sinh gây hậu quả xấu về nhiều mặt như: Có thể gây mất ổn định về xã hội, làm mất đoàn kết trong nội bộ nhân dân, 14