Luận văn Giải quyết tranh chấp tiêu dùng phát sinh trong giao dịch thương mại điện tử theo pháp luật Việt Nam
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Giải quyết tranh chấp tiêu dùng phát sinh trong giao dịch thương mại điện tử theo pháp luật Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_giai_quyet_tranh_chap_tieu_dung_phat_sinh_trong_gia.pdf
Nội dung text: Luận văn Giải quyết tranh chấp tiêu dùng phát sinh trong giao dịch thương mại điện tử theo pháp luật Việt Nam
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ NGỌC HÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TIÊU DÙNG PHÁT SINH TRONG GIAO DỊCH THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ Hà Nội, năm 2018
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ NGỌC HÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TIÊU DÙNG PHÁT SINH TRONG GIAO DỊCH THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số: 8.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHAN THỊ THANH THỦY Hà Nội, năm 2018
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu thực sự của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của TS. Phan Thị Thanh Thủy. Nội dung và kết quả nghiên cứu trong đề tài này là trung thực và chưa được công bố trong bất cứ một công trình nghiên cứu nào. Các số liệu, nội dung được trình bày trong Luận văn này là hoàn toàn hợp lệ và đảm bảo tuân thủ các quy định về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Tôi xin chịu trách nhiệm về đề tài nghiên cứu của mình. Tác giả Nguyễn Thị Ngọc Hà
- LỜI CẢM ƠN Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới cô giáo TS. Phan Thị Thanh Thủy, người đã tận tình hướng dẫn, động viên và giúp đỡ tôi thực hiện Luận văn ngay từ bước đầu tiên cho tới khi hoàn thành. Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Luật, Học viện Khoa học Xã hội đã tạo điều kiện học tập thuận lợi nhất cho tôi suốt 2 năm qua. Tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình và bạn bè, những người luôn bên cạnh động viên, ủng hộ, khích lệ mỗi khi tôi gặp khó khăn. Do thời gian có hạn và vốn kiến thức còn ít ỏi, Luận văn chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của Thầy cô và các bạn để Luận văn này được hoàn thiện hơn. Hà Nội, tháng 3 năm 2018 Học viên thực hiện Nguyễn Thị Ngọc Hà
- MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TIÊU DÙNG PHÁT SINH TRONG GIAO DỊCH THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ 10 1.1. Khái quát về tranh chấp tiêu dùng phát sinh trong thương mại điện tử 10 1.2. Giải quyết tranh chấp tiêu dùng phát sinh trong thương mại điện tử 18 1.3. Các phương thức truyền thống giải quyết tranh chấp tiêu dùng phát sinh từ thương mại điện tử 19 1.4. Phương thức giải quyết tranh chấp tiêu dùng trực tuyến 25 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TIÊU DÙNG PHÁT SINH TRONG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM 31 2.1. Quy định pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp tiêu dùng phát sinh từ giao dịch thương mại điện tử bằng các phương thức truyền thống 31 2.2. Pháp luật giải quyết tranh chấp tiêu dùng phát sinh từ thương mại điện tử bằng phương thức trực tuyến 38 2.3. Kinh nghiệm giải quyết tranh chấp tiêu dùng trực tuyến ở một số quốc gia trên thế giới 48 2.4. Nhận định về thực trạng pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp tiêu dùng phát sinh từ thương mại điện tử ở Việt Nam 51 Chương 3: CÁC KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN KHUNG KHỔ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TIÊU DÙNG PHÁT SINH TRONG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ 56 3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp tiêu dùng trong thương mại điện tử 56 3.2. Các kiến nghị và giải pháp 57 KẾT LUẬN 64 TÀI LIỆU THAM KHẢO 66
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TMĐT Thương mại điện tử TCTD Tranh chấp tiêu dùng ODR Online dispute resolution - Giải quyết tranh chấp trực tuyến B2B Business To Business Giao dịch giữa các thương nhân với nhau B2C Business To Customer Giao dịch giữa thương nhân với người tiêu dùng C2C Consumer To Consumer Giao dịch giữa người tiêu dùng với nhau NTD Người tiêu dùng BVNTD Bảo vệ người tiêu dùng NCC Nhà cung cấp ADR Alternative dispute resolution (Giải quyết tranh chấp thay thế) UNCITRAL United Nations Commission on International Trade Law Ủy ban pháp luật thương mại Quốc tế của Liên hợp quốc Online Trực tuyến Website Trang mạng Webpage Trang web WTO World Trade Organization (Tổ chức Thương mại Thế giới) BLDS Bộ luật Dân sự BLTTDS Bộ luật Tố tụng Dân sự EU European Union (Liên minh Châu Âu) E-Commerce Thương mại điện tử
- PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Cuộc cách mạng khoa học công nghệ đem lại nhiều ứng dụng to lớn cho xã hội loài người, trong đó có việc góp phần phát triển hoạt động thương mại. Thông qua khoa học công nghệ những giao dịch kinh doanh thương mại có thể được thiết lập, thực hiện một cách nhanh chóng, thuận tiện mà không phụ thuộc vào yếu tố địa lý. Hiểu theo nghĩa đơn giản nhất thì các giao dịch thương mại được thiết lập, thực hiện dưới sự hỗ trợ của công nghệ thông tin được gọi là những giao dịch thương mại điện tử (TMĐT). Thực tế cũng cho thấy, các quan hệ TMĐT đã và đang hình thành và phát triển mạnh mẽ ở nhiều nước trên thế giới và cũng đang phát triển ở Việt Nam trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế. Vì vậy, để điều chỉnh các quan hệ xã hội mới vận hành trên nền tảng của công nghệ điện tử và công nghệ viễn thông, đòi hỏi phải có cơ chế điều chỉnh pháp luật phù hợp, tương thích nhằm đảm bảo để các quan hệ về TMĐT phát triển hiệu quả, khả thi, có tính định hướng đúng đắn, lành mạnh và bền vững. Pháp luật về TMĐT ở nhiều quốc gia tiên tiến đã và đang nắm giữ vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ TMĐT. Thương mại điện tử được hiểu theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp, bao gồm cả hoạt động cung cấp hàng hóa và dịch vụ cùng với các ứng dụng những thành tựu về công nghệ thông tin và truyền thông vào lĩnh vực kinh doanh thương mại. Với cách hiểu cụ thể, hoạt động thương mại điện tử là việc tiến hành một phần hoặc toàn bộ quy trình của hoạt động thương mại bằng phương tiện điện tử có kết nối với mạng Internet, mạng viễn thông di động hoặc các mạng mở khác. Trong những năm qua, thương mại điện tử ở Việt Nam đã phát triển khá nhanh, hoạt động giao dịch mua bán qua mạng 1
- rất sôi động và đã thực sự trở thành công cụ để doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Mua bán hàng hóa qua các sàn giao dịch thương mại điện tử trong nước hiện đang ở giai đoạn bùng nổ. Tuy nhiên, việc kiểm soát chất lượng và các hành vi gian lận thương mại khác khi mua qua các gian hàng trên mạng đang bị buông lỏng. Rất nhiều vụ việc tranh chấp thương mại xuất phát từ kênh phân phối qua thương mại điện tử, nhưng vai trò điều tiết quản lý và trọng tài của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền chưa thực sự được phát huy. Có thể nói, sự phát triển của thương mại điện tử trên thế giới đã làm thay đổi cách thức kinh doanh, giao dịch truyền thống và đem lại những lợi ích to lớn cho xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng phải thừa nhận rằng, những rủi ro gặp phải trong quá trình giao dịch, kinh doanh trên mạng là hiện thực và việc này đòi hỏi phải có các giải pháp không chỉ về mặt kỹ thuật mà còn cần phải hình thành được một cơ sở pháp lý đầy đủ. Những kinh nghiệm thực tế trên thế giới cho thấy, để thúc đẩy thương mại điện tử phát triển thì vai trò của Nhà nước phải được thể hiện rõ nét trên hai lĩnh vực: (i) Xây dựng chính sách, tạo môi trường thuận lợi trong lĩnh vực cung ứng dịch vụ điện tử; và (ii) Xây dựng một hệ thống pháp luật đầy đủ, thống nhất và cụ thể để điều chỉnh các quan hệ thương mại điện tử. Nếu như chúng ta thiếu đi một cơ sở pháp lý vững chắc cho thương mại điện tử hoạt động thì các doanh nghiệp và người tiêu dùng sẽ rất lúng túng trong việc giải quyết các vấn đề có liên quan và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng sẽ rất khó có cơ sở để kiểm soát được các hoạt động kinh doanh thương mại điện tử. Với tốc độ phát triển mạnh mẽ của thương mại điện tử hiện nay, thì việc xây dựng và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý được coi là yếu tố rất quan trọng. Hơn thế nữa, thương mại điện tử là một lĩnh vực mới mẻ, cho nên tạo được niềm tin cho các chủ thể tham gia vào các quan hệ thương 2
- mại điện tử là một việc làm có tính cấp thiết, mà một trong những hạt nhân là phải tạo ra được một sân chơi chung với những quy tắc được thống nhất một cách chặt chẽ. Tuy nhiên, cho đến nay, do nhiều lý do cả về chủ quan lẫn khách quan, quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về thương mại điện tử chưa được quan tâm đúng mức, chưa phù hợp với thực tiễn cuộc sống. Luật Giao dịch điện tử của Việt Nam được Quốc hội khóa XI ban hành ngày 29/11/2005, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/3/2006 và các văn bản hướng dẫn thi hành còn đơn giản, chưa có những khái niệm pháp lý đầy đủ và chưa dự liệu được những quan hệ pháp luật thương mại điện tử phát sinh khi áp dụng. Sau đó Chính phủ ban hành Nghị định số 57/NĐ-CP ngày 09/6/2006 về thương mại điện tử để hướng dẫn các cá nhân, tổ chức khi họ thực hiện các hoạt động thương mại điện tử. Với sự phát triển nhanh chóng các hoạt động thương mại điện tử, các quy định cũ trở nên bất cập nên sau 7 năm, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 52/2013/NĐ-CP ngày 16/5/2013 (NĐ52/2013/NĐ-CP) về thương mại điện tử. Cho đến nay, khi Bộ luật Dân sự năm 2015 và Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 cũng có những thay đổi nhất định về hình thức hợp đồng cũng như công nhận chứng cứ điện tử, tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu giải quyết tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực này và Nghị định 52/NĐ-CP cũng chưa đáp ứng được các yêu cầu về tính đồng bộ, thống nhất dẫn đến các quy định không đảm bảo tính khả thi. Pháp luật hiện hành cũng chưa quy định rõ về giải quyết tranh chấp phát sinh trong giao dịch thương mại điện tử theo hướng các quy phạm nội dung phải phù hợp với các quy định về tố tụng hoặc các phương thức giải quyết tranh chấp ngoài tố tụng. Thực tế cho thấy, các vấn đề liên quan đến giải quyết tranh chấp giao dịch thương mại điện tử cần phải được quy định chặt chẽ, đầy đủ và rõ ràng bởi tính đặc thù của nó, đặc biệt là các quy định liên quan đến việc sử dụng các văn bản điện tử hay chữ ký điện tử với tư cách là 3
- chứng cứ trong các hoạt động tố tụng. Đồng thời cũng cần phải đưa ra các quy định về tội phạm trong thương mại điện tử để tăng cường đấu tranh, phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các loại tội phạm mới xuất hiện cùng với quá trình phát triển của thương mại điện tử. Pháp luật Việt Nam cũng đang thiếu vắng những quy định đối với việc lựa chọn phương thức trực tuyến để giải quyết các tranh chấp tiêu dùng (TCTD) phát sinh trong giao dịch thương mại điện tử nói riêng, cũng như việc bảo đảm lợi ích kinh tế và các lợi ích liên quan khác của quốc gia, của các doanh nghiệp và người tiêu dùng. Từ những phân tích khái quát ở trên cho thấy, việc đặt vấn đề nghiên cứu toàn diện về pháp luật thương mại điện tử ở Việt Nam hiện nay là có ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong việc hoàn thiện pháp luật điều chỉnh các quan hệ thương mại điện tử ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Việc nghiên cứu có hệ thống, toàn diện những vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật thương mại điện tử sẽ làm rõ những khái niệm pháp lý gắn với những thuật ngữ có nội hàm kỹ thuật cao, tiên lượng những phát sinh có thể xảy ra trong thực tế và trong tương lai, đóng góp những tri thức đối với khoa học pháp lý nói chung và hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh các hoạt động thương mại điện tử nói riêng, thúc đẩy nền kinh tế xã hội phát triển. Đây cũng là lý do mà nghiên cứu sinh lựa chọn đề tài “Giải quyết tranh chấp tiêu dùng phát sinh trong giao dịch thương mại điện tử theo pháp luật Việt Nam” để nghiên cứu và làm luận văn thạc sỹ. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Giải quyết tranh chấp tiêu dùng phát sinh trong thương mại điện tử (thương mại trực tuyến) không phải là vấn đề mới ở các nước phát triển. Ngay từ cuối những năm 1990 của thế kỷ 20, khi thương mại điện tử ra đời cùng với sự xuất hiện của Internet, ở các nước phát triển như Mỹ và ở châu Âu, nghiên cứu về giải quyết tranh chấp phát sinh từ thương mại điện tử 4
- (giải quyết tranh chấp trực tuyến) đã là một chủ đề được đặc biệt quan tâm với nhiều công trình nghiên cứu đặt nền tảng pháp lý cho loại hình này. Tuy vậy, ở Việt Nam, một quốc gia đang phát triển đây vẫn là một chủ đề khoa học pháp lý mang tính mới, nó chỉ được đặt ra một số năm gần đây trong quá trình Việt Nam ngày càng phát triển và hội nhập. Sau khi Luật Giao dịch Điện tử 2005 được ban hành và Nghị định số 57/2006/NĐ-CP ngày 09 tháng 6 năm 2006 của Chính phủ về thương mại điện tử để hướng dẫn Luật được ban hành và kể cả khi Nghị định số 52/2013/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2013 của Chính phủ về thương mại điện tử ra đời thay thế cho Nghị định số 57/2006/NĐ-CP cho tới nay cũng chưa có nhiều công trình nghiên cứu về giải quyết tranh chấp thương mại điện tử. Hiện tại, có một số công trình chuyên sâu về giải quyết tranh chấp thương mại điện tử trong đó đặc biệt chú trọng vào giải quyết tranh chấp tiêu dùng phát sinh trong thương mại điện tử ở Việt Nam có dẫn chiếu đến kinh nghiệm thế giới do TS. Phan Thị Thanh Thủy thực hiện bao gồm: Giải quyết tranh chấp trực tuyến: Những thách thức pháp lý đặt ra cho Việt Nam, Tạp chí Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, Số 4/2016; Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và thương nhân bằng phương thức trực tuyến ở Liên minh châu Âu và một số gợi mở cho ASEAN, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Số 3/2017, Phan Thị Thanh Thủy- Cao Xuân Quảng, Cơ chế giải quyết khiếu nại của người tiêu dùng bằng phương thức trực tuyến ở Việt Nam- Thực trạng và giải pháp, Tạp chí Khoa học Kiểm sát, Số 03(17)/2017 và Consumer Dispute Settlement in Vietnam and Taiwan - A Comparative Perspective (Giải quyết tranh chấp tiêu dùng ở Việt Nam và Đài Loan: một góc nhìn so sánh) đăng tải tại Chung Cheng Finacial and Economic Law Review Số 15 July 2017. 5
- Ngoài ra có một số nghiên cứu khác mang tính liên quan bài viết của LS. Lê Sưa Pháp luật về thương mại điện tử, một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện đăng trên Mục nghiên cứu trao đổi tại website của Bộ Tư pháp.1 Hoặc sách chuyên khảo về thương mại điện tử như Cẩm nang pháp luật về giao kết hợp đồng điện tử - Tác giả: Nguyễn Thị Mơ (2006), Hợp đồng điện tử theo pháp luật Việt Nam - Tác giả: Trần Văn Biên (2012) hoặc luận văn thạc sỹ luật học của Nguyễn Nhất Tư về Hợp đồng thương mại điện tử theo pháp luật Việt Nam (đã bảo vệ tại Học viện Khoa học Xã hội năm 2017). 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, đặc điểm, nội dung và thực tiễn giải quyết TCTD phát sinh từ các giao dịch thương mại điện tử nhằm đề xuất hoàn thiện quy định pháp luật trong lĩnh vực này để nâng cao hiệu quả của giao dịch thương mại điện tử ở nước ta. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích của đề tài, thì nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là: - Nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận của pháp luật về giải quyết TCTD phát sinh từ các giao dịch thương mại điện tử, làm rõ các đặc trưng cơ bản, cơ chế thực hiện của pháp luật trong giải quyết TCTD phát sinh từ thương mại điện tử. - Nghiên cứu đánh giá về thực trạng pháp luật và cơ chế thực hiện pháp luật về giải quyết tranh chấp tiêu dùng phát sinh từ thương mại điện tử, chỉ ra các hạn chế, bất cập và nguyên nhân là cơ sở thực tiễn cho việc hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp tiêu dùng phát sinh từ thương mại điện tử ở Việt Nam. 1 (09/10/2017) 6
- - Đưa ra các kiến nghị về định hướng và giải pháp cụ thể để hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả cơ chế thực hiện pháp luật về giải quyết tranh chấp tiêu dùng phát sinh từ thương mại điện tử ở Việt Nam trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Các quy định của pháp luật về giải quyết TCTD phát sinh trong quan hệ giữa người tiêu dùng và thương nhân cung cấp hàng hóa dịch vụ được thực hiện qua các giao dịch TMĐT - thương mại trực tuyến ở Việt Nam. Do tính chất đặc biệt của TCTD phát sinh trong quan hệ thương mại trực tuyến, luận văn đặc biệt tập trung vào phương thức giải quyết tranh chấp trực tuyến (ODR) bởi lẽ ODR đã tồn tại tự phát trên thực tế một thời gian dài ở Việt Nam nhưng đến nay vẫn chưa có khung khổ pháp luật thích hợp để điều chỉnh do đó còn nhiều hạn chế trong áp dụng giải quyết TCTD phát sinh trong TMĐT. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Tập trung vào các quy định của pháp luật hiện hành để giải quyết TCTD quy định trong Luật Thương mại 2005, Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010, Luật Giao dịch điện tử 2005, Luật Tố tụng Dân sự 2015 và các luật có liên quan, các văn bản hướng dẫn thi hành của các luật này. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Để làm rõ các vấn đề nghiên cứu, Luận văn sử dụng các phương pháp mang tính truyền thống của khoa học pháp lý như phương pháp so sánh, phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp phân loại dựa trên nền tảng của khoa học xã hội là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để tìm ra cá đặc trưng của tranh chấp tiêu dùng và các biện pháp giải quyết tranh chấp tiêu dùngtrong thương mại điện tử luận văn đặc biệt chú trọng và 7
- áp dụng phương pháp so sánh và phân loại tranh chấp phát sinh từ thương mại điện tử so với các quan hệ thương mại truyền thống và so sánh, phân loại các biện pháp giải quyết. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Về mặt lý luận, luận văn là công trình khoa học được nghiên cứu khá chuyên sâu về các vấn đề pháp lý nhằm đảm bảo tính an toàn, hợp pháp cho các quan hệ thương mại điện tử, giải quyết tranh chấp tiêu dùng phát sinh trong giao dịch thương mại điện tử, từ đó, góp phần làm rõ đặc trưng của pháp luật về thương mại điện tử ở Việt Nam. Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của đề tài luận văn sẽ là công trình khoa học có giá trị tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập về pháp luật thương mại điện tử. Đồng thời Luận văn có thể sử dụng như nguồn tư liệu nghiên cứu trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả cơ chế thực thi pháp luật về thương mại điện tử ở Việt Nam trong thời gian tới. Luận văn đã đánh giá tổng thể về thực trạng pháp luật và cơ chế thực hiện pháp luật về TMĐT ở Việt Nam, phân tích tranh chấp và giải quyết TCTD phát sinh trong giao dịch TMĐT theo pháp luật Việt Nam, làm rõ các yêu cầu cấp thiết của việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về TMĐT với những đặc thù về nội dung cũng như phương thức thực hiện ở Việt Nam hiện nay. Từ các nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đưa ra các định hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về TMĐT ở Việt Nam. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được kết cấu thành 3 chương 8
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp tiêu dùng phát sinh trong giao dịch thương mại điện tử. Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực thi pháp luật về giải quyết tranh chấp tiêu dùng phát sinh trong thương mại điện tử ở Việt Nam. Chương 3: Các kiến nghị và giải pháp hoàn thiện khung khổ pháp luật về giải quyết tranh chấp tiêu dùng phát sinh trong giao dịch thương mại điện tử. 9
- Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TIÊU DÙNG PHÁT SINH TRONG GIAO DỊCHTHƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ 1.1. Khái quát về tranh chấp tiêu dùng phát sinh trong thương mại điện tử 1.1.1. Quan hệ tiêu dùng phát sinh từ thương mại điện tử Giao dịch TMĐT còn gọi là giao dịch thương mại trực tuyến bùng nổ từ đầu những năm 1990 gắn chặt với sự ra đời của Internet một cách gọi vắn tắt của trình duyệt WorldWideWeb (www) trình duyệt do Tim Berners-Lee phát minh ra. Ngay sau đó Internet bùng nổ ở khắp các quốc gia và được ứng dụng trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội như kinh tế, giáo dục, chính trị, xã hội.[1] Có lẽ một trong các lĩnh vực thay đổi nhiều nhất dưới tác động của Internet chính là các giao dịch thương mại. Thay vì đến chợ, hoặc các sàn giao dịch truyền thống, một phương thức mới thiết lập thị trường giao dịch (Market Place) ra đời và nhanh chóng được hưởng ứng và dần thay thế các giao dịch truyền thống - đó chính TMĐT. Có nhiều định nghĩa về thương mại điện tử do các tổ chức và các học giả đưa ra theo đó thương mại điện tử được nhìn nhận như là các giao dịch kinh doanh trực tuyến đối với các sản phẩm hoặc dịch vụ.[2] thương mại điện tử chấp nhận “bất cứ hình thức biểu hiện nào của các giao dịch kinh doanh mà trong đó các bên tương tác thông qua các phương tiện điện tử hơn là giao dịch vật chất trực tiếp”.[3] Như vậy thương mại điện tử thường xuyên có liên hệ trực tiếp với việc mua hoặc bán qua mạng Internet hoặc tiến hành bất cứ giao dịch nào bao gồm cả chuyển dịch về quyền sở hữu hoặc các quyền khác thông qua mạng máy tính trung gian.[4] Tuy nhiên, các định nghĩa nói trên 10
- chưa chỉ ra được bản chất của phương thức kinh doanh mới này. Theo một cách bao quát nhất, “Thương mại điện tử là việc sử dụng các thông tin liên lạc điện tử và công nghệ xử lý thông tin số trong các giao dịch kinh doanh để tạo ra, biến đổi và xác định lại các mối quan hệ để tạo ra giá trị giữa các tổ chức và giữa các tổ chức và cá nhân”.[5] Tại Khoản 1, Điều 3 của Nghị định 52/NĐ-CP/2013 ban hành ngày 16 tháng 5 năm 2013 về thương mại điện tử, hoạt động thương mại điện tử ở Việt Nam được giải thích là “việc tiến hành một phần hoặc toàn bộ quy trình của hoạt động thương mại bằng phương tiện điện tử có kết nối với mạng Internet, mạng viễn thông di động hoặc các mạng mở khác”. Tuy giải thích này còn mang tính gián tiếp nhưng cũng đã phản ánh được bản chất của thương mại điện tử chính là hành vi thương mại được thực hiện thông qua các công cụ và công nghệ điện tử. Căn cứ vào sự tham gia của các chủ thể trong giao dịch, TMĐT có thể phân loại thành ba nhóm giao dịch cơ bản như: giao dịch giữa các thương nhân với nhau (B2B), giữa thương nhân với người tiêu dùng (B2C), giao dịch giữa người tiêu dùng với nhau (C2C). Qua nghiên cứu và so sánh giữa giao dịch thương mại điện tử và thương mại truyền thống, TS. Phan Thị Thanh Thủy đã đúc kết rằng thương mại điện tử có bốn đặc tính khác biệt so với thương mại truyền thống, cụ thể như sau: (1) Các bên chủ thể trong giao dịch thương mại điện tử không cần tiếp xúc trực tiếp với nhau trong một không gian vật chất, (2) Các giao dịch của thương mại điện tử được thực hiện trên không gian mạng (Cyberspace), do đó thị trường của thương mại điện tử không bị giới hạn bởi biên giới quốc gia, (3) Có ít nhất ba chủ thể trong giao dịch thương mại điện tử, trong đó nhất thiết phải có nhà cung cấp mạng - tức sàn giao dịch điện tử và (4) Khác với thương mại truyền thống, chính sự trao đổi các thông tin sẽ tạo ra 11
- thị trường cho các bên giao dịch. Thay vì trực tiếp đi tìm nhu cầu về hàng hóa dịch vụ, các thương nhân có thể tìm kiếm thông tin từ các nhà cung cấp.[6, tr.39] 1.1.2. Khái niệm tranh chấp tiêu dùng trong thương mại điện tử 1.1.2.1 Tranh chấp tiêu dùng Tranh chấp tiêu dùng là tranh chấp giữa người tiêu dùng và thương nhân cung cấp hàng hóa dịch vụ trong quá trình mua bán hoặc sử dụng hàng hóa dịch vụ. Tranh chấp tiêu dùng có đặc điểm sau: a. Về chủ thể của tranh chấp: Gồm có hai bên Người tiêu dùng Ở nhiều quốc gia và các khu vực thương mại tự do trên thế giới, người tiêu dùng (NTD) được hiểu là một hay nhiều cá nhân (tự nhiên nhân – natural person) sử dụng hàng hóa dịch vụ không phải cho mục đích kinh doanh hay cho các mục đích chuyên nghiệp (nghề nghiệp) khác. Quan niệm này được chấp nhận rộng rãi ở Liên minh châu Âu (EU),2 Nhật Bản.3 Luật pháp các quốc gia thành viên của ASEAN như Singapore,4 Philipines,5 Malaysia,6 Thailand,7 Indonesia,8 Brunei,9 đều có quan điểm rằng NTD là một hay 2Xem “Definitions of 'consumer' in EU law ” trong Rafał Mańko, 06/05/2013, The notion of 'consumer' in EU law, Library of the European Parliament, tại _EN.pdf; tr.1.Truy cập 17/1/2016. 3Article 1(2), The Consumer Contract Act 2000 tại truy cập 18/2/2015. 4Article 2 (1a), Singapore Consumer Protection (Fair Trading ) Act sửa đổi năm 2009 tại 0Act%202009.pdf , truy cập 10/8/2015. 5Article 4(n), Consumer Act of the Philippines (Republic Act No. 7394) năm 1992 tại %20The%20Consumer%20Act%20of%201992.pdf , truy cập 10/8/2015. 6Aticle 1(3a), Consumer Protection Act of Malaysia 1999 tại truy cập 10/8/2015. 7Section 3, Consumer Protection Act 1979 of Thailand tại pdf, truy cập 10/8/2015. 8Aticle 1(2), Consumer Protection Law of Indonesia 1999 tại %20English.pdf, truy cập 10/8/2015. 12
- nhiều cá nhân. Mở rộng hơn, trong luật pháp một số quốc gia khác, như Áo, Đức, Ba Lan 10, Trung Quốc,11 khái niệm NTD còn bao hàm cả các tổ chức, hiệp hội trong những hoàn cảnh nhất định, khi tổ chức, hiệp hội này sử dụng các sản phẩm dịch vụ không phải cho mục đích kinh doanh hoặc các chức năng nghề nghiệp. Tương đồng với quan điểm người tiêu dùng có thể là tổ chức hay cá nhân mua/sử dụng hàng hóa, trong Luật Bảo vệ quyền lợi NTD Việt Nam năm 2010 (Luật BVNTD 2010), tại Khoản 1, Điều 3 “người tiêu dùng” được giải thích là “người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức”. Như vậy, cho dù là một, nhiều cá nhân riêng lẻ hay một tập hợp các cá nhân dưới hình thức hộ gia đình hay các tổ chức thì người tiêu dùng theo thông lệ quốc tế và pháp luật Việt Nam đều có các đặc điểm chung như sau: (1) người tiêu dùng là một hoặc nhiều cá nhân hoặc những tổ chức mua hoặc người sử dụng hàng hóa, dịch vụ của nhà cung cấp (NCC) cho mục đích sinh hoạt hoặc tiêu dùng; không phải cho mục đích kinh doanh hay cho các hoạt động mang tính chuyên nghiệp (nghề nghiệp); (2) người tiêu dùng phải trả tiền cho hàng hóa, dịch vụ mình mua để trực tiếp hoặc cho người khác sử dụng. [7,tr.54-55] Thương nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ Người kinh doanh hàng hóa dịch vụ trong quan hệ với NTD có thể được gọi bằng nhiều thuật ngữ pháp lý khác nhau như “nhà cung cấp” (supplier), “người bán” (seller), hoặc thương nhân (trader) tùy từng bối cảnh. Chỉ thị của Ủy ban châu Âu số 93/13/EEC ban hành ngày 05 tháng 4 năm 9Article 2(1), Consumer Protection ( Fair Trading) Order 2011 of Brunei Darussalam tại unei_Darussalam.pdf, truy cập 10/8/2015. 10Rafal Mańko,06/05/2013, The notion of 'consumer' in EU law, Tlđd; tr.2. Truy cập 17/1/2016. 11Zhixiong Liao, The Recent Amendment to China’s Consumer Law: An Imperfect Improvement and Proposal for Future Changes. Beijing Law Review, số 5/2014. Tr. 168. 13
- 1993 về Các hành vi thiếu công bằng trong các hợp đồng tiêu dùng đã định nghĩa: “nhà cung cấp” hoặc “người bán” là “cá nhân hoặc pháp nhân đang hoạt động vì mục đích liên quan đến hành vi thương mại, kinh doanh hoặc (hành vi) mang tính chất chuyên nghiệp của mình, cho dù ở khu vực thuộc sở hữu công hoặc tư.”12 Tại Hoa Kỳ, nhà cung cấp được định nghĩa là “một cá nhân hoặc nhà kinh doanh trong mối quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc đem đến một sản phẩm hiện hữu cho khách hàng”.13 Các chuyên gia pháp lý cũng giải thích rõ ràng “người cung cấp có thể là người bán, người sản xuất hoặc bất kỳ ai trong chuỗi cung ứng đang làm cho sản phẩm hiện hữu với khách hàng.”14 Trong khu vực châu Á và ASEAN, khái niệm nhà cung cấp về cơ bản có nhiều điểm tương đồng với cách hiểu về NCC của Hoa Kỳ và châu Âu.15 Luật BVNTD 2010 Việt Nam tuy không dùng các thuật ngữ trên nhưng đã đưa ra khái niệm “Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ” và giải thích là “Tổ chức, cá nhân thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm: a)Thương nhân theo quy định của Luật thương mại; b)Cá nhân hoạt động thương mại độc lập, thường xuyên, không phải đăng ký kinh doanh.” (Khoản 3 Điều 2). Có thể thấy, khái niệm này có nội hàm tương tự với khái niệm nhà cung cấp của các quốc gia đã kể trên. Như vậy “nhà cung cấp” là bên thực hiện hành vi cung 12Directive 93/13, Art. 2 lit. (c)tại Council Directive 93/13/EEC of 5 April 1993 on unfair terms in consumer contracts Truy cập 03/5/2015. 13Bryan A. Garner, Black's Law Dictionary 10th ed., Thomson Reuter USA2014, Tlđd. Tr. 1668. 14Julian B. McDonnell and Elizabeth J. Coleman, Commercial and Consumer Warranties - Drafting, Performing and Litigating 2th ed. Vol. 2. 1991, Matthew BenderUSA. Tr. 6-33. 15Tại Khoản 8 Điều 10 Luật Bảo vệ người tiêu dùng Singapore (Luật Thương mại công bằng) sửa đổi năm 1999, nhà cung cấp được giải thích là “Một người, trong quá trình kinh doanh của người đó: (a) cung cấp hàng hóa hoặc dịch vụ cho khách hàng; (b) chế tạo, lắp ráp hoặc sản xuất ra sản phẩm; (c) xúc tiến việc sử dụng hoặc mua bán hàng hóa hoặc dịch vụ; hoặc (d) nhận hoặc đứng danh nghĩa nhận tiền hoặc khoản tiền công khác như một kết quả của sự cung cấp hàng hóa hoặc dịch vụ cho người tiêu dùng và bao gồm bất kỳ người làm công hoặc đại lý nào của người đó.” 14
- cấp hàng hóa, dịch vụ vì mục đích kinh doanh của mình thông qua một hợp đồng với NTD. Họ có thể là người trực tiếp sản xuất ra hàng hóa, cung ứng dịch vụ hoặc chỉ là một khâu trong chuỗi cung ứng sản phẩm hướng đến người tiêu dùng. Về bản chất pháp lý, quan hệ giữa nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và NTD chính là một quan hệ pháp luật thương mại hỗn hợp, trong đó một bên - nhà cung cấp - là thương nhân nhằm mục đích kinh doanh, bên kia - NTD - là người mua hàng hóa, dịch vụ phục vụ cho mục tiêu sinh hoạt tiêu dùng của chính mình hoặc người khác.[7, tr.55] *Thương nhân cung cấp dịch vụ thương mại điện tử Đây là bên thứ ba không thể thiếu trong giao dịch thương mại điện tử giữa người tiêu dùng và thương nhân cung cấp hàng hóa dịch vụ. Theo quy định tại Nghị định 52/2013/NĐ-CP ban hành ngày 16/5/2013 về thương mại điện tử (NĐ 52/2013 về TMĐT), căn cứ vào quan hệ giữa các chủ sở hữu các website trực tuyến với hàng hóa, dịch vụ được giao dịch trên website, có thể chia các nhà cung cấp dịch vụ thương mại điện tử thành ba loại, đó là (1) Nhà cung cấp dịch vụ thương mại điện tử thuần túy, họ sở hữu các website có chức năng sàn giao dịch thương mại điện tử, qua đó khách hàng (những người mua và bán hàng hóa, dịch vụ) tự giao dịch với nhau thông qua không gian mạng được cung cấp, (2) Nhà cung cấp đồng thời là thương nhân cung cấp hàng hóa dịch vụ (chủ sở hữu hoặc nhà sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ) lập ra website để trực tiếp bán sản phẩm, dịch vụ của mình cho các khách hàng, trong trường hợp này họ cung cấp dịch vụ thương mại trực tuyến bằng cách trực tiếp bán hàng hóa, dịch vụ của mình trên website,16 và (3) Chủ sở hữu website thương mại điện tử là nhà phân phối lập ra trang 16Ở Việt Nam, hình thức mua bán trực tuyến này phổ biến nhất là việc bán vé online của các hãng hàng vận tải thuộc các lĩnh vực hàng không, xe khách chạy tuyến, tàu thủy 15