Luận văn Giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng thương mại với hộ gia đình, cá nhân qua thực tiễn xét xử sơ thẩm tại toà án nhân dân cấp huyện trên địa bàn Thành phố Hải Phòng
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng thương mại với hộ gia đình, cá nhân qua thực tiễn xét xử sơ thẩm tại toà án nhân dân cấp huyện trên địa bàn Thành phố Hải Phòng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_giai_quyet_tranh_chap_hop_dong_tin_dung_giua_ngan_h.pdf
Nội dung text: Luận văn Giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng thương mại với hộ gia đình, cá nhân qua thực tiễn xét xử sơ thẩm tại toà án nhân dân cấp huyện trên địa bàn Thành phố Hải Phòng
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐOÀN VĂN TUÂN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG GIỮA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VỚI HỘ GIA ĐÌNH, CÁ NHÂN QUA THỰC TIỄN XÉT XỬ SƠ THẨM TẠI TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số : 60.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. Bùi Nguyên Khánh HÀ NỘI, 2016
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Bùi Nguyên Khánh. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn nêu trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác, trung thực và có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào. TÊN TÁC GIẢ ĐOÀN VĂN TUÂN
- DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLDS 2015 Bộ luật dân sự 2015 BLTTDS 2015 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 ĐKGDBĐ Đăng ký giao dịch bảo đảm GDBĐ Giao dịch bảo đảm HĐTD Hợp đồng tín dụng HĐTP Hội đồng Thẩm phán HĐXX Hội đồng xét xử NHTM Ngân hàng thương mại TAND Tòa án nhân dân TANDTC Tòa án nhân dân Tối cao TCTD Tổ chức tín dụng TTTM Trọng tài thương mại UBND Ủy ban nhân dân UNCITRAL Uỷ ban thương mại quốc tế của Liên hợp quốc VKSND Viện kiểm sát nhân dân XHCN Xã hội chủ nghĩa
- MỤC LỤC Mở đầu:. 1 Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG BẰNG XÉT XỬ SƠ THẨM CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN GIỮA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VỚI HỘ GIA ĐÌNH, CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM. 6 1.1. Tổng quan về tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng thương mại với hộ gia đình, cá nhân ở Việt Nam 6 1.2. Các hình thức giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng thương mại với hộ gia đình, cá nhân 16 1.3. Các yếu tố tác động đến giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng thương mại với hộ gia đình, cá nhân bằng trình tự xét xử sơ thẩm của Toà án nhân dân cấp huyện 27 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG GIỮA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VỚI HỘ GIA ĐÌNH, CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM QUA THỰC TIỄN XÉT XỬ SƠ THẨM CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG 32 2.1. Thực trạng các quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng thương mại với hộ gia đình, cá nhân ở Việt Nam bằng thủ tục xét xử sơ thẩm của Toà án nhân dân cấp huyện 32 2.2. Thực tiễn xét xử sơ thẩm giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng thương mại với hộ gia đình, cá nhân của Toà án nhân dân cấp huyện trên địa bàn thành phố Hải Phòng 49 Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG GIỮA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VỚI HỘ GIA ĐÌNH, CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM QUA THỰC TIỄN XÉT XỬ SƠ THẨM CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN Ở VIỆT NAM HIÊN NAY 66 3.1. Định hướng hoàn thiện 66 3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng thương mại với hộ gia đình, cá nhân ở Việt Nam 71 KẾT LUẬN 78 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 79
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Kể từ khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới, cùng với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội, với xu hướng hội nhập toàn cầu về nhiều lĩnh vực nền kinh tế nước ta có nhiều khởi sắc. Các quan hệ dân sự, kinh tế ngày càng trở lên đa dạng và phức tạp cả về hình thức, nội dung và quy mô. Để có vốn nhằm phục vụ nhu cầu phát triển sản xuất, kinh doanh hay để đáp ứng nhu cầu trong sinh hoạt tiêu dùng thì ngoài việc huy động từ nguồn lực tự có, hộ gia đình, cá nhân và tổ chức còn có quyền vay vốn của các tổ chức tín dụng, thông qua việc giao kết những HĐTD phù hợp với các quy định của pháp luật nhằm thực hiện mục đích của mình. Tuy nhiên, ở phía người vay vốn, dù không mong muốn nhưng không phải khi nào vay vốn cũng có thể sử dụng vốn vay đạt hiệu quả, thoả mãn được động cơ, mục đích đặt ra. Còn về phía tổ chức tín dụng, không phải lúc nào cũng đảm bảo tuân thủ đúng và đầy đủ các quy định của pháp luật trong việc hưởng quyền và thực hiện nghĩa vụ của bên vay và bên cho vay vốn. Hệ quả của thực tế này là quyền và lợi ích hợp pháp của người vay vốn hoặc của người cho vay vốn bị chủ thể phía bên kia của HĐTD gây thiệt hại. Do đó, việc giải quyết các tranh chấp về HĐTD nhằm bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, nhằm giáo dục cho các bên ý thức tuân thủ pháp luật là một nhu cầu tất yếu. Khi xảy ra tranh chấp về HĐTD, các bên có thể lựa chọn một trong các hình thức giải quyết như thông qua thương lượng, hoà giải, đưa ra Trung tâm trọng tài thương mại hoặc khởi kiện vụ án tại Toà án. Thông qua hoạt động xét xử sơ thẩm các tranh chấp về HĐTD giữa Ngân hàng thương mại với hộ gia đình, cá nhân, Toà án nhân dân cấp huyện đã góp phần giải quyết đúng đắn, kịp thời và có hiệu quả các tranh chấp về HĐTD. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng các quy định pháp luật về thủ tục để giải quyết các tranh chấp HĐTD giữa Ngân hàng thương mại với hộ gia đình, cá nhân tại Toà án nhân dân cấp huyện cũng còn tồn tại một số vấn đề cần nghiên cứu để hoàn thiện hơn. Thực tế vẫn còn tình trạng hoãn phiên toà nhiều lần do triệu tập không đúng, không đầy đủ thành phần tham gia tố tụng. Toà án xác định sai tư cách tham gia tố tụng, các hoạt động tiến hành tố tụng tại phiên toà còn nhiều bất cập 1
- Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng đã đề ra nhiệm vụ trọng tâm của cải cách tư pháp, trong đó nhấn mạnh đến việc phát huy dân chủ, phát triển tranh tụng, bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của con người là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới. Tất cả những điều đó đang đặt ra yêu cầu cấp thiết là phải khẩn trương hoàn thiện các quy định về thủ tục xét xử sơ thẩm, nâng cao hơn nữa chất lượng xét xử sơ thẩm các vụ án tranh chấp HĐTD, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia các giao dịch. Mặt khác, việc mở cửa hội nhập với thế giới để phát triển toàn diện là nhu cầu tất yếu, nhất là trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay. Trong quá trình hội nhập quốc tế tất yếu kéo theo sự xuất hiện và gia tăng các tranh chấp dân sự, thương mại có yếu tố nước ngoài. Trong bối cảnh đó, hệ thống pháp luật về giải quyết các tranh chấp vụ án dân sự nói chung và thủ tục giải quyết sơ thẩm đối với tranh chấp HĐTD nói riêng cũng cần có những thay đổi nhất định, để thích nghi với quá trình phát triển của kinh tế - xã hội, phù hợp với thông lệ quốc tế, đáp ứng được đòi hỏi của quá trình hội nhập. Từ thực trạng nêu trên, việc nghiên cứu một cách có hệ thống, khoa học các quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp HĐTD giữa Ngân hàng thương mại với hộ gia đình, cá nhân qua thực tiễn xét xử sơ thẩm tại Toà án nhân dân cấp huyện trên địa bàn thành phố Hải Phòng để hiểu đúng và thực hiện đúng, cũng như phát hiện những điểm bất cập nhằm đưa ra quan điểm khoa học để hoàn thiện là một công việc thực sự cần thiết và cấp bách. Do đó học viên lựa chọn đề tài:“Giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng thương mại với hộ gia đình, cá nhân qua thực tiễn xét xử sơ thẩm tại Toà án nhân dân cấp huyện trên địa bàn thành phố Hải Phòng” để làm đề tài nghiên cứu của luận văn. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Công trình nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực tín dụng ngân hàng nói chung và giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD nói riêng như: “Thủ tục giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng qua thực tiễn xét xử tại Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ Luật học năm 2013, Học viện khoa học xã hội” của Ths. Nguyễn Thu Hồng [20], Sách chuyên khảo “Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản của các tổ chức tín dụng” do TS. Lê Thị Thu Thuỷ làm chủ 2
- biên, Nhà Xuất bản Tư pháp 2006 [42], Cuốn sách “Hoàn thiện pháp luật về hoạt động của Ngân hàng Thương mại trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam” của TS. Ngô Quốc Kỳ, Nhà Xuất bản Tư pháp, năm 2005 [23]. Các công trình nghiên cứu này đã góp phần tạo cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng nói chung và hợp đồng tín dụng nói riêng. Trong những năm vừa qua, việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ HĐTD ngân hàng đã từng bước được xây dựng và trưởng thành cả về cơ sở pháp lý và thực tiễn áp dụng. Với các văn bản pháp luật về hợp đồng dân sự nói chung, HĐTD ngân hàng nói riêng được ban hành, cơ cấu tổ chức và hoạt động của Toà án ngày càng được cải cách và phù hợp với thực tiễn hơn. Văn bản quy phạm pháp luật liên quan để điều chỉnh Luật Ngân hàng Nhà nước năm 2010, Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010, BLDS 2015, các văn bản dưới luật với những điểm mới, hoàn thiện và tiến bộ thì đã giúp cho việc giải quyết các tranh chấp HĐTD ngân hàng được áp dụng thực hiện một cách có hiệu quả trong thực tiễn. Tuy nhiên việc nghiên cứu về đề tài hợp đồng tín dụng vẫn còn là cấp thiết, bởi lẽ các quy định pháp luật về vấn đề này vẫn còn nhiều bất cập, chưa phù hợp với thực tiễn. Vậy với luận văn này, tác giả muốn làm rõ hơn những vấn đề cơ bản về hợp đồng tín dụng, giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng, chỉ ra những bất cập của việc thực hiện các quy định pháp luật trong thực tiễn giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu: Mục đích nghiên cứu đề tài này để làm rõ những vấn đề lý luận về HĐTD, thủ tục giải quyết tranh chấp về HĐTD giữa Ngân hàng thương mại với hộ gia đình, cá nhân tại Toà án nhân dân; đánh giá thực trạng thủ tục giải quyết tranh chấp về HĐTD giữa NHTM với hộ gia đình, cá nhân tại Toà án nhân dân cấp huyện trên địa bàn thành phố Hải Phòng. Từ đó đề xuất một số giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp về HĐTD giữa NHTM với hộ gia đình, cá nhân nhằm đảm bảo giải quyết tranh chấp về HĐTD giữa NHTM với hộ gia đình, cá nhân tại TAND cấp huyện trên địa bàn thành phố Hải Phòng được đúng đắn, kịp thời và có hiệu quả. Nhiệm vụ nghiên cứu: 3
- - Nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp về HĐTD giữa NHTM với hộ gia đình, cá nhân tại tòa án nhân dân. - Phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp về HĐTD giữa NHTM với hộ gia đình, cá nhân theo thủ tục sơ thẩm tại TAND. - Phân tích, đánh giá thực trạng xét xử các tranh chấp HĐTD giữa NHTM với hộ gia đình, cá nhân bằng thủ tục xét xử sơ thẩm tại TAND dân cấp huyện trên địa bàn thành phố Hải Phòng. - Đề xuất các giải pháp giải quyết tranh chấp HĐTD giữa NHTM với hộ gia đình, cá nhân tại TAND cấp huyện ở nước ta hiện nay; bảo đảm việc giải quyết đúng đắn, kịp thời các vấn đề về giải quyết tranh chấp HĐTD giữa NHTM với hộ gia đình, cá nhân tại TAND trên địa bàn thành phố Hải Phòng. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: tranh chấp về HĐTD giữa NHTM với hộ gia đình, cá nhân qua thực tiễn xét xử sơ thẩm tại Toà án nhân dân cấp huyện. - Phạm vi nghiên cứu về không gian: đề tài nghiên cứu việc giải quyết tranh chấp về HĐTD giữa NHTM với hộ gia đình, cá nhân qua thực tiễn xét xử sơ thẩm tại TAND cấp huyện trên địa bàn thành phố Hải Phòng. - Phạm vi nghiên cứu về thời gian: giới hạn nghiên cứu của đề tài là hoạt động xét xử các tranh chấp về HĐTD giữa NHTM với hộ gia đình, cá nhân qua thực tiễn xét xử sơ thẩm tại TAND cấp huyện trên địa bàn thành phố Hải Phòng từ năm 2011 đến năm 2015. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở quan điểm chủ nghĩa Mác - Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về Nhà nước và pháp luật, về công tác xét xử nói chung, giải quyết các vụ án dân sự nói riêng. Luận văn cũng được tiến hành nghiên cứu bằng nhiều phương pháp khác, như: Phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh, đánh giá thực trạng các vụ án dân sự, khảo cứu các tài liệu có liên quan đến công tác giải quyết tranh chấp về HĐTD. 4
- 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Các kết quả nghiên cứu của đề tài này có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo tại các cơ sở đào tạo và nghiên cứu về luật học. Một số kiến nghị của đề tài có giá trị tham khảo đối với cơ quan xây dựng và thực thi pháp luật trong quá trình xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện pháp luật tố tụng dân sự và pháp luật tín dụng nói chung và pháp luật giải quyết tranh chấp HĐTD nói riêng. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: - Chương 1: Những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp HĐTD bằng trình tự xét xử sơ thẩm của Toà án nhân dân cấp huyện giữa NHTM với hộ gia đình, cá nhân ở Việt Nam. - Chương 2: Thực trạng giải quyết tranh chấp HĐTD giữa NHTM với hộ gia đình, cá nhân ở Việt Nam qua thực tiễn xét xử sơ thẩm của TAND cấp huyện trên địa bàn thành phố Hải Phòng. - Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp HĐTD giữa NHTM với hộ gia đình, cá nhân ở Việt Nam qua thực tiễn xét xử sơ thẩm của Toà án nhân dân cấp huyện ở Việt Nam hiện nay. 5
- Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG BẰNG XÉT XỬ SƠ THẨM CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN GIỮA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VỚI HỘ GIA ĐÌNH, CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM 1.1. Tổng quan về tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng thƣơng mại với hộ gia đình, cá nhân ở Việt Nam 1.1.1. Khái quát về hợp đồng tín dụng Khái niệm hợp đồng tín dụng Hợp đồng là sự thỏa thuận của hai hay nhiều bên làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên. Hợp đồng tín dụng ngân hàng là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa ngân hàng (bên cho vay) với tổ chức, cá nhân có đủ những điều kiện nhất định (bên vay). Theo đó, ngân hàng chuyển giao một số tiền cho bên vay sử dụng trong một thời hạn nhất định, với điều kiện hoàn trả cả gốc và lãi. Hợp đồng tín dụng về bản chất là những hợp đồng cho vay tài sản theo quy định của pháp luật dân sự. Tuy nhiên, chỉ gọi là HĐTD trong trường hợp bên cho vay là TCTD, trong đó chủ yếu là các NHTM. Hợp đồng tín dụng là hợp đồng cho vay, theo đó ngân hàng là bên cho vay giao cho bên vay một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Còn những hoạt động cấp tín dụng khác như bảo lãnh, cầm cố, chiết khấu giấy tờ có giá được gọi chung là HĐTD. Nếu bên vay là doanh nghiệp và hộ kinh doanh, thì HĐTD sẽ là hợp đồng thương mại. Nếu bên vay là cá nhân, thì HĐTD sẽ là hợp đồng dân sự. Hợp đồng tín dụng ngân hàng “phải có nội dụng về điều kiện vay, mục đích sử dụng vốn vay, phương thức cho vay, số vốn vay, lãi suất, thời hạn cho vay, hình thức bảo đảm, giá trị tài sản bảo đảm, phương thức trả nợ và những cam kết khác được các bên thoả thuận” (Điều 17 Quyết định 1627/2011/QĐ-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2001 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước về việc ban hành quy chế cho vay của Tổ chức tín dụng đối với khách hàng) [25]. 6
- Hợp đồng tín dụng ngân hàng là một văn bản pháp lý xác định quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng theo những điều khoản được thỏa thuận giữa hai bên về quyền hạn và nghĩa vụ trong quá trình sử dụng và hoàn trả nợ vay. Việc ký kết và thực hiện HĐTD ngân hàng phải dựa trên nguyên tắc: tự nguyện, cùng có lợi, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, trực tiếp chịu trách nhiệm về tài sản và không trái với pháp luật. Quan hệ pháp luật tín dụng ngân hàng là quan hệ tài sản – hàng hóa phát sinh trong quá trình sử dụng vốn tạm thời giữa ngân hàng và các tổ chức, cá nhân theo nguyên tắc có hoàn trả, dựa trên cơ sở tín nhiệm hoặc có sự bảo đảm, được các qui phạm pháp luật điều chỉnh. Tham gia quan hệ này có ít nhất gồm hai chủ thể: là bên cho vay và bên đi vay. - Bên cho vay: Luôn là tổ chức tín dụng. Được thành lập và hoạt động theo Luật các Tổ chức tín dụng và các pháp luật liên quan. Có chức năng hoạt động, kinh doanh tín dụng, thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội. - Bên đi vay (khách hàng). Bao gồm: Nhóm khách hàng thứ nhất: Các pháp nhân: Doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, công ty trách nhiệm hữu hạn, (01 thành viên; từ 02-50 thành viên), công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các tổ chức khác. Nhóm khách hàng thứ hai: Cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân. Nhóm khách hàng thứ ba: Các pháp nhân và cá nhân nước ngoài. Bên đi vay phải thỏa mãn các điều kiện liên quan đến năng lực chủ thể, mục đích sử dụng vốn vay, khả năng thanh toán khoản vay Đặc điểm hợp đồng tín dụng Thứ nhất: Một bên chủ thể của HĐTD ngân hàng luôn là ngân hàng. Ngân hàng muốn thực hiện hoạt động cho vay phải hội đủ các điều kiện về thành lập, vốn pháp định, có điều lệ được Ngân hàng Nhà nước chuẩn y và có đại diện hợp pháp khi tham gia ký kết hợp đồng theo quy định của pháp luật. Những điều kiện trên đây không những góp phần hạn chế, loại trừ những ngân hàng không đủ tiêu chuẩn kinh doanh trên thị trường tài chính mà còn góp phần lành mạnh hóa 7
- các quan hệ tín dụng. Ngoài ra, khi ngân hàng hội đủ các điều kiện trên sẽ góp phần bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư, là căn cứ để các thẩm phán, các trọng tài viên tiến hành thẩm định và đánh giá vấn đề hiệu lực của HĐTD ngân hàng khi có tranh chấp xảy ra. Để thực hiện hoạt động cho vay, ngân hàng phải tiến hành ký kết hợp đồng nhằm xác lập quyền và nghĩa vụ giữa các bên. Trong HĐTD ngân hàng, ngân hàng luôn tham gia ký kết với tư cách là chủ thể cho vay nhằm phân phối lại nguồn vốn đã huy động từ tổ chức và cá nhân khác trong xã hội. Với tư cách là chủ thể cho vay, ngân hàng phải thẩm định được phương án vay vốn, tính hiệu quả của việc sử dụng vốn vay. Điều này là vô cùng cần thiết vì nó có khả năng hoàn trả nợ vay của bên đi vay. Các ngân hàng tham gia vào quan hệ tín dụng ngân hàng chủ yếu để thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ vào mục tiêu lợi nhuận, trừ trường hợp các ngân hàng chính sách thực hiện hoạt động tín dụng vì mục đích xã hội. Thứ hai: HĐTD ngân hàng phải luôn được ký kết dưới hình thức văn bản Đặc trưng cơ bản của hoạt động tín dụng ngân hàng là đi vay để cho vay, vì vậy, để cho vay lại ngân hàng phải có trách nhiệm bảo toàn nguồn vốn tín dụng của mình. Để thực hiện điều này thì quyền và nghĩa vụ của các bên (ngân hàng và bên đi vay) phải cụ thể. Pháp luật quy định các chủ thể khi tham gia vào quan hệ tín dụng ngân hàng phải thỏa thuận bằng văn bản các quyền và nghĩa vụ của mình. Thực ra quy định này nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên. Bởi vì HĐTD ngân hàng là cơ sở pháp lý cho việc giải quyết các tranh chấp của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Hợp đồng tín dụng ngân hàng được ký kết dưới các hình thức pháp lý là văn bản bao gồm cả văn bản viết và văn bản điện tử dưới dạng thông điệp dữ liệu. Dù HĐTD ngân hàng ký kết dưới hình thức nào trên đây đều có giá trị pháp lý ngang nhau và đều là chứng cứ trong quá trình giao dịch (Khoản 1 Điều 119 BLDS 2015 [36]; Điều 11, 12, 13, 14 Luật Giao dịch điện tử năm 2005 [28]). Việc pháp luật quy định HĐTD ngân hàng phải được ký kết dưới hình thức bằng văn bản cùng với sự chấp nhận cả hai hình thức nói trên có thể xem là một nỗ lực đáng kể của các nhà lập pháp vừa nhằm đảm bảo sự tiện ích vừa đảm bảo an toàn pháp lý cho các chủ thể tham gia ký kết HĐTD ngân hàng. 8
- Thông thường HĐTD ngân hàng là hợp đồng mẫu do các tổ chức ngân hàng soạn thảo dựa trên quy định của pháp luật và phù hợp với quy chế cho vay của ngân hàng. Các điều khoản cụ thể trong HĐTD ngân hàng phải đảm bảo xác định cụ thể quyền và nghĩa vụ của bên cho vay và bên đi vay. Khi các bên thỏa thuận cụ thể về quyền và nghĩa vụ của mình trong hợp đồng thì các bên phải thực hiện đúng các điều mà mình đã cam kết. Nếu một trong hai bên vi phạm cam kết gây thiệt hại cho bên kia, họ phải có trách nhiệm bồi thường cho bên bị vi phạm. Như vậy, khi xảy ra tranh chấp thì HĐTD ngân hàng là cơ sở để quy trách nhiệm cho các bên. Thứ ba: Đối tượng của HĐTD luôn là tiền tệ. Tiền tệ trong HĐTD ngân hàng có thể là tiền đồng Việt Nam, vàng hoặc ngoại tệ. Đối tượng này có thể tồn tại ở vật hiện hữu là tiền mặt hoặc bút tệ. Đây là đặc điểm rất quan trọng trong quan hệ cho vay đối với ngân hàng. Chính đặc điểm này đã giúp cho hoạt động cho vay là hoạt động kinh doanh chủ yếu của ngân hàng và trở thành một hình thức tín dụng phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Từ vốn tiền tệ, bên đi vay họ có thể thỏa mãn bất kì nhu cầu nào của họ kể cả số lượng vốn vay và mục đích vay vốn. Cũng cần lưu ý rằng, bên cho vay là công ty cho thuê tài chính nhưng đối tượng của nó là tài sản thì đây chính là quan hệ cho thuê tài chính (chứ không phải là hoạt động cho vay theo quy định của pháp luật) và các bên phải ký hợp đồng thuê mua tài chính. Như vậy, yếu tố tiền tệ là một đặc điểm không thể thiếu được của hợp HĐTD ngân hàng. Thứ tư: Hợp đồng tín dụng ngân hàng luôn nhằm mục đích sinh lợi. Tính chất sinh lợi của HĐTD ngân hàng luôn được biểu hiện qua tỷ số chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn của ngân hàng. Lãi suất cho vay luôn cao hơn lãi suất huy động vốn và sự chênh lệch này luôn phụ thuộc vào cung cầu về vốn trên thị trường tùy thuộc vào từng thời điểm cụ thể, hiện nay mức lãi suất trong HĐTD ngân hàng do các bên thỏa thuận. Ngân hàng hoạt động theo các quy định của Luật các Tổ chức tín dụng và các quy định của pháp luật có liên quan nên mục đích tìm kiếm lợi nhuận không chỉ là điều tất yếu mà còn là động lực giúp ngân hàng duy trì hoạt động kinh doanh của mình. Khách hàng càng nhiều, hợp đồng càng tăng thì lợi nhuận của ngân hàng càng sinh sôi, phát triển. Vì vậy, vận mệnh của ngân hàng luôn gắn với khả năng tạo ra giá trị thặng dư của đồng tiền 9
- thông qua việc huy động vốn và kí kết HĐTD ngân hàng. Trong trường hợp này, trừ trường hợp các ngân hàng chính sách thực hiện hoạt động tín dụng vì mục đích xã hội là chính. Hợp đồng tín dụng ngân hàng là một dạng đặc biệt của hợp đồng dân sự xuất phát từ hoạt động cho vay của ngân hàng là rất đa dạng. Nếu ngân hàng thực hiện cho vay đối với các tầng lớp dân cư nhằm đáp ứng nhu cầu về sinh hoạt và tiêu dùng (cá nhân) thì HĐTD ngân hàng mang tính chất là một hợp đồng dân sự theo đúng nghĩa. Nếu ngân hàng thực hiện cho vay đối với các thành phần kinh tế (tổ chức) nhằm đáp ứng mục đích phát triển sản xuất kinh tế thì HĐTD ngân hàng mang tính chất là hợp đồng thương mại. Do đó tùy theo đối tượng và mục đích trong hoạt động cho vay của ngân hàng mà chúng ta nhìn nhận HĐTD ngân hàng ở gốc độ thích hợp. Tính chất của hợp đồng tín dụng ngân hàng cũng được thể hiện rõ trong quy định tại khoản 16, Điều 4, Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010, theo đó cấp tín dụng (cho vay) là việc tổ chức tín dụng giao hoặc cam kết giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi [31]. Phân loại hợp đồng tín dụng Tùy vào từng tính chất phân loại của tín dụng ngân hàng mà HĐTD ngân hàng có cách phân loại riêng theo từng loại tín dụng ngân hàng: a. Nếu căn cứ vào thời hạn cho vay: Hợp đồng tín dụng ngân hàng chia thành 3 loại: Hợp đồng tín dụng ngân hàng ngắn hạn: Là loại HĐTD có thời hạn dưới một năm và thường áp dụng với trường hợp để vay bổ sung thiếu hụt tạm thời về vốn lưu động hoặc cho vay sửa chữa lớn tài sản cố định của doanh nghiệp. Đây là loại cho vay phổ biến ở các NHTM và trong quan hệ cấp vốn ngắn hạn và trong quan hệ cấp tín dụng của ngân hàng trung ương với các Tổ chức tín dụng và Ngân hàng Nhà nước. Hợp đồng tín dụng ngân hàng trung hạn: Là loại HĐTD ngân hàng có thời gian từ 01 đến 05 năm. Loại tín dụng này áp dụng cho vay để mua sắm tài sản cố 10
- định, cải tiến, đổi mới hệ thống kỹ thuật, mở rộng và xây dựng các công trình quy mô nhỏ, thời gian thu hồi vốn nhanh. Hợp đồng tín dụng ngân hàng dài hạn: Là HĐTD có thời gian trên 05 năm, loại tín dụng này chủ yếu đầu tư vào xây dựng những xí nghiệp mới, cải tiến và mở rộng cơ sở sản xuất mới với quy mô lớn hoặc các công trình cơ sở hạ tầng như: sân bay, đường sá, bến cảng Ý nghĩa pháp lý của việc phân loại hoạt động cho vay của TCTD theo tiêu chí thời hạn vay: - Đối với người làm luật thì việc phân loại các hình thức cho vay của các tổ chức tín dụng theo thời hạn vay vốn là một trong các tiêu chí để quy định các biện pháp bảo đảm rủi ro về khả năng chi trả của các tổ chức tín dụng là xây dựng khung lãi suất cơ bản cho từng hình thức một cách phù hợp. - Đối với người đi vay thì việc phân loại các hình thức cho vay như trên với các hình thức lãi xuất khác nhau sẽ giúp cho những người có nhu cầu vay vốn lựa chọn được hình thức vay phù hợp nhất với mình cả về thời gian và chi phí. - Đối với bên cho vay (tổ chức tín dụng) thì phân loại dựa trên thời gian vay giúp cho tổ chức tín dụng có thể chủ động hơn trong việc sử dụng nguồn vốn của mình, chọn lựa đối tượng được vay vốn, điều chỉnh hoạt động cho vay một cách hợp lý và đem lại hiệu quả cao nhất b. Nếu căn cứ vào đối tượng tín dụng cho vay, HĐTD ngân hàng chia làm hai loại: Hợp đồng tín dụng vốn cố định: Là loại tín dụng để hình thành vốn cố định cho các tổ chức kinh tế như mua sắm máy móc, thiết bị xây dựng mới, mở rộng sản xuất Hợp đồng tín dụng vốn lưu động: Là loại tín dụng hình thành vốn lưu động của các tổ chức kinh tế như cho vay dự trữ hàng hóa, cho vay chi phí sản xuất hoặc để thanh toán các khoản nợ. c. Nếu căn cứ vào mức độ tín nhiệm của ngân hàng – hợp đồng tín dụng ngân hàng chia thành 2 loại: Hợp đồng tín dụng không cần đảm bảo: Biểu hiện dưới hình thức đảm bảo bằng tín chấp, được ngân hàng áp dụng đối với những khách hàng đáng tin cậy. 11
- Hợp đồng tín dụng có đảm bảo: Áp dụng đối với những khách hàng mà năng lực tài chính thấp, hiệu quả kinh doanh không cao hoặc ít có quan hệ tín dụng với ngân hàng, nghĩa là rủi ro cao. Ngân hàng yêu cầu phải có tài sản tương đương để thế chấp như động sản, bất động sản, những giấy tờ có giá trị hoặc đòi hỏi sự bảo lãnh từ một chủ thể hợp pháp khác. Hợp đồng tín dụng ngân hàng có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Hợp đồng tín dụng ngân hàng là sự thỏa thuận của bên cho vay với bên vay, là thỏa thuận mang tính chất pháp lý, ràng buộc các bên về quyền và nghĩa vụ, là căn cứ, cơ sở để cơ quan có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh từ việc vi phạm các thỏa thuận đã cam kết. 1.1.2. Tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng thƣơng mại với hộ gia đình, cá nhân Khái niệm tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng thƣơng mại với hộ gia đình, cá nhân Tranh chấp HĐTD ngân hàng là những mâu thuẫn phát sinh từ quyền và nghĩa vụ trong HĐTD ngân hàng giữa bên cho vay (ngân hàng) và bên vay (khách hàng). Đó là những tranh chấp về lãi suất, nợ gốc, nợ lãi, việc giải ngân, xử lý tài sản đảm bảo. Cùng với sự tồn tại và phát triển của các HĐTD là những tranh chấp trong HĐTD phát sinh từ sự mâu thuẫn hay không thống nhất về quyền và nghĩa vụ hoặc lợi ích trong quá trình thực hiện HĐTD của các bên tham gia. Một HĐTD chỉ được coi là có tranh chấp khi có sự xung đột, bất đồng về quyền, lợi ích giữa các bên đã được thể hiện ra bên ngoài thông qua những bằng chứng cụ thể và xác định được. Theo TS. Bùi Ngọc Cường, tranh chấp kinh tế được hiểu là những mâu thuẫn, xung đột về quyền, nghĩa vụ và lợi ích kinh tế giữa các bên chủ thể tham gia kinh doanh [7]. Tranh chấp hợp đồng khác biệt với vi phạm hợp đồng. Vi phạm hợp đồng là hành vi pháp lý của các bên đã xử sự trái với các điều khoản được cam kết trong hợp đồng. Còn tranh chấp hợp đồng là ý kiến không thống nhất của các bên về hành vi vi phạm đó hoặc cách thức giải quyết hậu quả phát sinh từ sự vi phạm đó và được thể hiện ra bên ngoài. Cho nên không phải cứ khi nào vi phạm hợp đồng thì khi đó 12
- có tranh chấp mà đôi khi sự vi phạm hợp đồng diễn ra trước và tranh chấp hợp đồng lại là sự kiện diễn ra sau đó một khoảng thời gian nhất định. Và đôi khi có sự vi phạm HĐTD nhưng không thể có sự tranh chấp bởi các bên không bày tỏ ra bên ngoài về sự bất đồng hay xung đột lợi ích giữa họ với nhau bằng các hành vi phản kháng cụ thể có giá trị chứng cứ. Như vậy, tranh chấp HĐTD là những mâu thuẫn, bất đồng phát sinh từ quyền và nghĩa vụ trong HĐTD giữa bên cho vay (ngân hàng) và bên vay (khách hàng). Đó là những tranh chấp về lãi suất, nợ gốc, nợ lãi, việc giải ngân, xử lý tài sản đảm bảo, thế chấp. Các dạng tranh chấp hợp đồng tín dụng Tranh chấp do các bên vi phạm nghĩa vụ trong HĐTD: hành vi vi phạm nghĩa vụ của bên cho vay (ngân hàng) và hành vi vi phạm nghĩa vụ trả gốc và lãi của bên vay (khách hàng). Tranh chấp về chủ thể xác lập, thực hiện hợp đồng. Tranh chấp này trên thực tế tương đối đa dạng và phức tạp nhất là trong những trường hợp có yếu tố nước ngoài. Tranh chấp xảy ra từ việc thực hiện biện pháp bảo đảm đối với HĐTD có bảo đảm bằng tài sản và xử lý tài sản bảo đảm. Các tranh chấp phát sinh từ các hợp đồng này chủ yếu liên quan đến việc xử lý tài sản bảo đảm. Tranh chấp về pháp luật giải quyết tranh chấp HĐTD: Nếu như khi ký HĐTD mà các bên đã không thoả thuận lựa chọn cơ quan giải quyết tranh chấp cũng như luật áp dụng (nếu như có yếu tố nước ngoài) thì sau này có nhiều khả năng xảy ra việc tranh chấp về luật áp dụng để giải quyết các tranh chấp phát sinh từ HĐTD. Đặc điểm tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng Một chủ thể của tranh chấp HĐTD ngân hàng luôn là ngân hàng, có thể là nguyên đơn hoặc bị đơn khi tranh chấp này được toà án thụ lý giải quyết. Đối tượng của tranh chấp thường là tiền tệ cụ thể đó là những tranh chấp về: Hành vi vi phạm nghĩa vụ của một hoặc các bên trong hợp đồng. Hành vi vi phạm nghĩa vụ này, có thể là hành vi của bên cho vay (các ngân hàng và các chế định tài chính khác) khi HĐTD có hiệu lực, việc giải ngân khoản tín dụng mà hai 13
- bên đã thoả thuận là nghĩa vụ của bên cho vay. Tuy nhiên, trên thực tế có nhiều trường hợp sau khi ký kết HĐTD với khách hàng bên cho vay đã không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ giải ngân. Điều này, làm ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của bên vay như bên vay không tiến hành kế hoạch kinh doanh như dự kiến, không có vốn đầu tư vào dự án đầu tư, đấu thầu đã được đăng ký. Hậu quả là bên cho vay bị tổn thất rất lớn về hiệu quả kinh tế cũng như uy tín, danh dự, thậm chí thương hiệu của bên vay. Việc vi phạm nghĩa vụ trả lãi và thậm chí cả gốc và lãi. Trên thực tế, có trường hợp hai bên không thoả thuận rõ ràng về lãi suất đối với cả thời hạn vay hoặc ban đầu do cần tiền để thực hiện kế hoạch của mình nên khách hàng chấp nhận mức lãi suất đó nhưng sau một thời gian thực hiện hợp đồng phía khách hàng nhận thấy lãi suất đó cao quá nên không đồng ý. Tuy nhiên, đa phần là dạng tranh chấp về vi phạm nghĩa vụ trả nợ của khách hàng khi đáo hạn. Dạng tranh chấp cũng khá phổ biến của HĐTD đó là tranh chấp về việc thực hiện biện pháp bảo đảm đối với HĐTD có bảo đảm bằng tài sản. Các tổ chức tín dụng coi bảo đảm tín dụng là nguồn thu nợ thứ hai khi nguồn thu nợ thứ nhất (các lưu chuyển tiền tệ) không thể thanh toán được nợ. Các nguồn nợ thứ nhất này thể hiện dưới hình thức lưu chuyển tiền tệ của bên vay. Trong hoạt động kinh doanh có rất nhiều lý do dẫn đến nguồn thu nợ thứ nhất không thực hiện được, nếu không có nguồn bổ sung chắc chắn các tổ chức tín dụng sẽ rơi vào tình trạng rủi ro tín dụng. Dạng tranh chấp nữa của HĐTD là tranh chấp về chủ thể xác lập, thực hiện hợp đồng. Tranh chấp này ngày càng đa dạng và phức tạp nhất là trong trường hợp có yếu tố nước ngoài. Điều này gây không ít khó khăn cho cơ quan giải quyết tranh chấp. Liên quan tới những tổ chức tín dụng 100% vốn nước ngoài. Dạng tranh chấp chiếm tỷ lệ khá lớn trong HĐTD là dạng tranh chấp về định giá, xử lý tài sản bảo đảm đối với những HĐTD có bảo đảm bằng tài sản. Đối với những hợp đồng cho vay tiêu dùng, việc xác định tài sản bảo đảm thuộc sở hữu của vợ chồng hay tài sản riêng của từng người có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động xử lý tài sản này. Có nhiều trường hợp các nhân viên ngân hàng thẩm định không kỹ, kết quả thẩm định không chính xác dẫn đến chấp nhận những tài sản bảo đảm không đúng quy định của pháp luật về giao dịch bảo đảm. Đối với những hợp đồng 14