Luận văn Giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh, thương mại theo pháp luật tố dụng dân sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Đà Nẵng
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh, thương mại theo pháp luật tố dụng dân sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Đà Nẵng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_giai_quyet_tranh_chap_hop_dong_kinh_doanh_thuong_ma.pdf
Nội dung text: Luận văn Giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh, thương mại theo pháp luật tố dụng dân sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Đà Nẵng
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VÕ NGỌC THÔNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG KINH DOANH, THƢƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT TỐ DỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ HÀ NỘI, năm 2017
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VÕ NGỌC THÔNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG KINH DOANH, THƢƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT TỐ DỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Chuyên ngành : Luật Kinh tế Mã số : 60.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC PGS. TS. NGUYỄN NHƢ PHÁT HÀ NỘI, năm 2017
- LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành khóa học và Luận văn Thạc sỹ của mình, trước hết em xin gửi lời cám ơn chân thành tới Ban Giám đốc, các khoa, phòng, thầy cô giáo Học viện Khoa học Xã hội đã nhiệt tình truyền đạt những kiến thức quý báu cho em trong suốt quá trình học tập và hoàn thành Luận văn Thạc sỹ. Em xin trân trọng cám ơn PGS. TS. Nguyễn Như Phát – Thầy đã hướng dẫn khoa học, đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành Luận văn này. Võ Ngọc Thông
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong Luận văn Thạc sỹ Luật học “Giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh, thương mại theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam từ thực tiễn tại Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng” là hoàn toàn trung thực, không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực. Các thông tin, tài liệu trình bày trong luận văn đã được ghi rõ nguồn gốc. Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của PGS. TS. Nguyễn Như Phát. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình. Tác giả luận văn Võ Ngọc Thông
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 CHƢƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG KINH DOANH, THƢƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM 7 1.1. Khái niệm tranh chấp hợp đồng kinh doanh, thương mại và Khái niệm giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh, thương mại: 7 1.2. Đặc điểm pháp lý và các yêu cầu của quá trình giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại theo tố tụng dân sự 11 1.3. Những nguyên tắc cơ bản trong giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng tố tụng Tòa án 12 1.4. Thẩm quyền của các cấp Tòa án tại Việt Nam 20 1.5. Trình tự thủ tục tố tụng giải quyết tranh chấp bằng Tòa án theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam 27 CHƢƠNG 2. THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG KINH DOANH, THƢƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG 35 2.1. Vai trò, vị trí và thẩm quyền và thực tiễn hoạt động giải quyết các tranh chấp hợp đồng kinh doanh, thương mại tại Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng 35 2.2. Đánh giá thực trạng pháp luật và áp dụng pháp luật qua thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh, thương mại tại Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng 56 CHƢƠNG 3. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG KINH DOANH, THƢƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG 67 3.1. Nhu cầu và định hướng hoàn thiện 67
- 3.2. Một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh, thương mại 67 KẾT LUẬN 78 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLTTDS : Bộ luật Tố tụng Dân sự KDTM : Kinh doanh, thương mại TCKDTM : Tranh chấp kinh doanh, thương mại TPP : Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương WTO : Tổ chức thương mại thế giới
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam đang được đổi mới và ngày càng phát triển, đặc biệt khi nước ta đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) các quan hệ kinh doanh, thương mại (KDTM) ngày càng đa dạng, phong phú và mang những diện mạo sắc thái mới. Tương ứng với sự đa dạng phong phú của các quan hệ này, các tranh chấp kinh doanh, thương mại (TCKDTM) cũng phát sinh ngày càng muôn màu, muôn vẻ và với số lượng lớn là điều không tránh khỏi. Do đó, khi có những bất đồng trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh doanh thương mại thì việc lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp nào vừa đảm bảo có lợi cho doanh nghiệp, thương nhân như giảm được chi phí giải quyết thấp nhất, thời gian giải quyết nhanh nhất, vừa duy trì được mối quan hệ làm ăn là việc mà các doanh nghiệp, thương nhân đặc biệt quan tâm và cân nhắc thận trọng. Trong kinh doanh, giữa các doanh nghiệp, thương nhân luôn phải có sự liên kết với nhau để cùng nhau mang lại lợi nhuận, thông thường doanh nghiệp, thương nhân ký kết với nhau hợp đồng nhằm xác định quyền và nghĩa vụ trong kinh doanh, thương mại. Theo quy định pháp luật thì các bên phải thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ đã giao kết trong hợp đồng. Tuy nhiên, trên thực tế, không phải lúc nào các chủ thể cũng thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình. Do đó, các tranh chấp về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ trong hoạt động kinh doanh, thương mại là khó có thể tránh khỏi. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên khi tham gia hợp đồng, cũng như tạo điều kiện hoạt động đồng bộ cho toàn bộ nền kinh tế, các tranh chấp đó cần phải được giải quyết kịp thời, đúng đắn. Về nguyên tắc khi tranh chấp trong kinh doanh, thương mại xảy ra, để đảm bảo nguyên tắc tự nguyện thỏa thuận trong kinh doanh, pháp luật cho phép các bên gặp nhau tự bàn bạc tìm cách giải quyết. Trong trường hợp các bên không 1
- thỏa thuận được với nhau và có yêu cầu thì tranh chấp kinh doanh, thương mại được giải quyết tại Trọng tài, theo tố tụng trọng tài hoặc tại Tòa án nhân dân, theo thủ tục tố tụng quy định trong Bộ luật Tố tụng Dân sự (BLTTDS). Đối với Việt Nam các đương sự thường lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng Toà án sau khi thương lượng, hoà giải không thành. Tuy nhiên, việc giải quyết tranh chấp bằng con đường Toà án vẫn còn nhiều vấn đề đáng quan tâm đó là: Vướng mắc từ phía pháp luật chưa phù hợp, dẫn đến việc áp dụng không đạt được tính thuyết phục; hướng dẫn của ngành không thống nhất, quan điểm giải quyết không thống nhất giữa các cấp giải quyết, điều đó làm cho hoạt động xét xử của Toà án gặp nhiều khó khăn vướng mắc. Chính vì vậy mà tôi chọn đề tài ngiên cứu với chủ đề :“Giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh, thương mại theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng”. Thông qua Luận văn này bạn đọc có cái nhìn rõ hơn về vấn đề nêu trên. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Cho đến hiện nay đã có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu về các vấn đề liên quan đến giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh, thương mại theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam trên phạm vi một địa bàn cụ thể và đã có những kết luận xác đáng, những kiến nghị hữu ích nhằm nâng cao hiệu quả công tác giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh, thương mại ở nhiều phương diện khác nhau. Có thể kể đến các công trình nghiên cứu tiêu biểu như Luận án Tiến sĩ của tác giả Đào Văn Hội “Các phương thức giải quyết tranh chấp kinh tế”; Luận án Tiến sĩ của tác giả Nguyễn Thị Kim Vinh “Pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế bằng con đường Tòa án ở Việt Nam”; Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Thu Hoài: “Hoạt động giải quyết tranh chấp thương mại của trọng tài và toà án ở Việt Nam hiện nay nhìn từ góc độ so sánh”. Giáo trình pháp luật về cạnh tranh và giải quyết tranh chấp thương mại của tác giả Hà Thị Thanh Bình (chủ biên), nhà xuất bản Hồng Đức, 2012; Bên cạnh đó còn có nhiều bài nghiên cứu đăng tải trên các tạp chí chuyên 2
- ngành như: “Hoàn thiện pháp luật về thủ tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp thương mại ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Thị Thu Thủy, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật. Viện Nhà nước và Pháp luật, Số 11/2014; “Cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại của ASEAN” của tác giả Nguyễn Thị Thuận đăng tải trên tạp chí Luật học, Số đặc san "Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế" 2012; Luận văn “Pháp luật điều chỉnh hoạt động hòa giải tư pháp trong giải quyết tranh chấp thương mại tại Việt Nam” của tác giả Vũ Hương Giang, Đại học Luật Hà Nội, 2015 Bài viết: “Hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh tế tại Việt Nam” của TS Dương Thanh Mai, Tạp chí Khoa học pháp lý số 5/2012; bài viết: “Pháp luật và thực tiễn của Australia về hòa giải – một số kiến nghị áp dụng cho Việt Nam” của tác giả Đặng Hoàng Oanh (nguồn: Công thông tin Bộ Tư pháp) Nhưng theo quan sát của tôi thì chưa có công trình nào nghiên cứu sâu về công tác giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh, thương mại một cách đầy đủ, toàn diện, có hệ thống từ lý luận của một hoạt động trong tố tụng dân sự cụ thể đến thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh, thương mại tại Tòa án trong phạm vi của một địa phương cụ thể là Đà Nẵng. Vì thế, Đề tài Luận văn có tính độc đáo riêng của mình 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu của Đề tài là trên cơ sở nghiên cứu lý luận, phân tích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn, nắm rõ các đặc điểm của hình thức giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh, thương mại theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam. - Biết được trình tự giải quyết vụ án tranh chấp hợp đồng kinh doanh, thương mại theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam. - Phân tích và rút ra được các ưu và nhược điểm của hình thức tố tụng dân sự Tòa án Việt Nam về giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh, thương mại theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam. 3
- Để đạt được các mục đích này, Đề tài có các nhiệm vụ sau đây: 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tìm hiểu lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật kinh doanh thương mại. Làm sáng tỏ các dấu hiệu pháp lý về tranh chấp hợp đồng kinh doanh, thương mại theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam. - Giúp người đọc và các doanh nghiệp hiểu được quy trình, cách thức thực hiện của tố tụng dân sự Tòa án về giải quyết các tranh chấp hợp đồng kinh doanh, thương mại để có thể ứng dụng vào thực tiễn khi có phát sinh tranh chấp. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của Đề tài này là công tác giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh, thương mại theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam từ thực tiễn tại Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng và các vấn đề liên quan đến Luật Thương mại, Luật Doanh nghiệp, Luật tố tụng dân sự và Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2013; đồng thời đề xuất các giải pháp để nâng cao hiệu quả trong công tác giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của Đề tài này là tìm hiểu các qui định của pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh, thương mại theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam và các qui định của pháp luật có liên quan trên địa bàn thành phố Đà Nẵng qua các năm từ năm 2012 đến năm 2016. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Phương pháp luận của Đề tài dựa trên lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta trong công tác giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh, thương mại trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền tại Việt Nam. 4
- 5.2. Phương pháp nghiên cứu Để đạt được những mục tiêu trên thì một số phương pháp đã được áp dụng và được tổng hợp để nghiên cứu đề tài là: - Phương pháp thực tiễn, tổng hợp đánh giá và nhận định các vấn đề liên quan; - Phân tích tài liệu, thông tin về Luật Thương mại và thông tin thông qua các vụ án cụ thể tại Tòa án nhân cấp cao tại Đà Nẵng; - Phương pháp xã hội học pháp luật và luật học so sánh cũng được sử dụng để làm rõ những kết luận, đánh giá thực tiễn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Đề tài đã khái quát được lịch sử hình thành và quá trình hoàn thiện của công tác giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh, thương mại theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam. Tại Chương 2 và Chương 3 của Đề tài trên cơ sở lý luận tác giả đã nghiên cứu và phân tích công tác giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh, thương mại theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam (từ năm 2012 đến năm 2016). Những kết quả nghiên cứu của Đề tài sẽ góp phần giúp các cơ quan tiến hành tố tụng tại thành phố Đà Nẵng nói riêng và các thành phố khác có điều kiện tương tự nói chung có thêm những cơ sở khoa học để từ đó thực hiện tốt hơn các nội dung trong công tác giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh, thương mại theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu trong luận văn này sẽ là một tài liệu làm cơ sở cho các cơ sở đào tạo, nghiên cứu pháp luật sử dụng tham khảo trong quá trình học tập, nghiên cứu, giảng dạy. Đề tài có thể được các cơ quan tiến hành tố tụng, đặc biệt là Tòa án, vận dụng trong quá trình giải quyết vụ án đối với các vụ án tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam. 5
- 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn có cơ cấu gồm 3 Chương: + Chương 1: Khái quát chung về giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh, thương mại theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam. + Chương 2: Thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh, thương mại tại Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng. + Chương 3: Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh, thương mại. 6
- CHƢƠNG 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG KINH DOANH, THƢƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm tranh chấp hợp đồng kinh doanh, thƣơng mại và Khái niệm giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh, thƣơng mại: Song song với nền kinh tế thị trường và sự hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới của nước ta trong thời gian gần đây diễn ra trong bối cảnh sự phát triển theo chiều rộng và chiều sâu của các quan hệ kinh tế với một tốc độ nhanh chóng chưa từng có. Tranh chấp trong kinh tế nói chung và trong kinh doanh nói riêng với tính cách là hệ quả tất yếu của quá trình này cũng trở nên phong phú hơn về chủng loại, và gay gắt, phức tạp hơn về tính chất và quy mô. Bởi vậy, yêu cầu phải áp dụng các hình thức và phương thức giải quyết tranh chấp phù hợp, có hiệu quả là một đòi hỏi khách quan để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh tế, bảo đảm nguyên tắc pháp chế, thông qua đó góp phần tạo lập môi trường pháp lý lành mạnh để thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Hiện nay, ở Việt Nam chưa có cách hiểu chuẩn xác và thống nhất về khái niệm tranh chấp kinh doanh, thương mại (TCKDTM). Việc xác định phạm vi của tranh chấp được coi là TCKDTM chủ yếu căn cứ vào các qui định của pháp luật. Tuy còn nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm TCKDTM, song nhiều nhà hoa học đã đưa ra khái niệm như sau: Tranh chấp kinh doanh, thương mại là những bất đồng, xung đột, mâu thuẫn hay bất đồng chính kiến chủ yếu về lợi ích kinh tế, về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể có liên quan đến lĩnh vực hợp đồng kinh doanh thương mại hoặc các hoạt động kinh tế khác được pháp luật qui định là tranh chấp kinh tế, thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan tài phán kinh tế. 7
- Qua đó, chúng ta có thể hiểu TCKDTM là một dạng tranh chấp kinh tế được hiểu là sự bất đồng chính kiến hay xung đột về quyền, nghĩa vụ giữa các nhà đầu tư, các doanh nghiệp với tư cách là chủ thể kinh doanh; là những phát sinh trong các khâu từ đầu tư, sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi phát sinh trong cả quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội. Đặc trưng nhất của TCKDTM là gắn liền với hoạt động kinh doanh và chủ thể tham gia chủ yếu là các nhà doanh nghiệp và bản chất của TCKDTM là phản ánh những xung đột về lợi ích kinh tế giữa các bên. Khái niệm tranh chấp thương mại lần đầu tiên được quy định trong Luật Thương mại năm19971. Tại Điều 238 Luật Thương mại quy định: Tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh do việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng trong hoạt động thương mại. Theo đó, nội hàm hoạt động thương mại theo quy định của Luật Thương mại năm 1997 rất hẹp so với quan niệm quốc tế về thương mại. Hoạt động thương mại chỉ bao gồm ba nhóm: Hoạt động mua bán hàng hóa; cung ứng dịch vụ thương mại và các hoạt động xúc tiến thương mại2. Tranh chấp thương mại và hoạt động thương mại theo quy định của Luật Thương mại năm 1997 đã loại bỏ rất nhiều tranh chấp mà xét về bản chất thì các tranh chấp đó có thể được coi là các tranh chấp thương mại. Vì vậy đã dẫn đến các xung đột pháp luật trong hệ thống pháp luật, giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế, trong đó có cả những Công ước quốc tế quan trọng mà Việt Nam đã là thành viên (Công ước New York năm 1958) gây không ít những trở ngại, rắc rối trong thực tiễn áp dụng và chính sách hội nhập3. Luật Thương mại năm 2005 được Quốc hội thông qua ngày 14/6/2005 đã đưa ra một khái niệm về hoạt động thương mại tương đối giản đơn. Tuy nhiên, 1 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994 và Nghị định số 116/1994/NĐ-CP chủ yếu liệt kê các tranh chấp được gọi là các tranh chấp kinh tế như tranh chấp về hợp đồng kinh tế, tranh chấp giữa công ty với thành viên công ty, thành viên công ty với nhau hoặc tranh chấp liên quan đến mua bán cổ phiếu, trái phiếu 2 Khoản 2 Điều 5 Luật Thương mại năm 2005. 3 PGS.TS. Lê Hồng Hạnh, “Khái niệm thương mại trong pháp luật Việt Nam và những bất cập dưới góc độ thực tiễn áp dụng và chính sách hội nhập”; Tạp chí Luật học, số 2/2000. 8
- khái niệm này cũng đã hàm chứa và lột tả được nội hàm của hoạt động thương mại. Khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005 quy định: Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác. Theo khái niệm này, quan niệm về hoạt động thương mại được mở rộng bao gồm mọi hoạt động có mục đích sinh lợi. Hướng tiếp cận này của Luật Thương mại cho thấy, khái niệm về hoạt động thương mại đã thể hiện sự tương đồng với khái niệm kinh doanh trong Luật Doanh nghiệp năm 1999, Luật Doanh nghiệp năm 2005 cũng như Luật Doanh nghiệp năm 2014. Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, sửa đổi bổ sung năm 2015 cũng đã liệt kê các tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án4. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 không sử dụng thuật ngữ “tranh chấp thương mại” độc lập mà sử dụng chung thuật ngữ “tranh chấp kinh doanh, thương mại” nhưng nội dung của các tranh chấp về kinh doanh, thương mại được quy định tại Điều 29 Bộ luật Tố tụng dân sự thực chất là các tranh chấp thương mại theo hướng tiếp cận của Luật Thương mại năm 2005. Điều này cho thấy, mặc dù có sự khác nhau về cách thức biểu đạt và ngôn ngữ sử dụng nhưng nhìn chung quan niệm về hoạt động thương mại và tranh chấp thương mại được thể hiện qua các quy định trong các văn bản pháp luật tương đối nhất quán. Tranh chấp kinh doanh, thương mại có các loại như sau: - Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận. - Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận . 4 Điều 29 Bộ luật Dân sự năm 2004 (sửa đổi bổ sung năm 2011) 9
- - Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, sáp nhập, giải thể, chuyển đổi hình thức tổ chức - Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định. Khái niệm giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh, thương mại Tranh chấp hợp đồng kinh doanh, thương mại là hệ quả tât yếu xảy ra trong hoạt động kinh doanh. Do đó, giải quyết các tranh chấp phát sinh dược coi là đòi hỏi tự thân của các quan hệ kinh tế. Theo hiểu biết chung, giải quyết tranh chấp trong kinh doanh là việc lựa chọn các hình thức, biện pháp thích hợp để giải tỏa các mâu thuẫn, bất đồng, xung đột lợi ích giữa các bên, tạo lại sự cân bằng về mặt lợi ích mà các bên có thể chấp nhận được. Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường phải đáp ứng các yêu cầu: - Nhanh chóng, thuận lợi, không làm hạn chế, cản trở các hoạt động kinh doanh. - Khôi phục và duy trì các quan hệ hợp tác, tín nhiệm giữa các bên trong kinh doanh. - Giữ bí mật kinh doanh, uy tín của các bên trên thương trường. - Kinh tế nhất (ít tốn kém nhất). Sự tác động của những đặc điểm riêng biệt về phong tục, tập quán, truyền thống, trình độ phát triển kinh tế - xã hội, đã làm cho các cơ chế giải quyết tranh chấp trong kinh doanh của các quốc gia rất khác nhau. Mặc dù vậy, căn cứ vào nhu cầu điều chỉnh pháp luật có sự phân hoá đối với các hoạt động kinh doanh trong điêù kiện kinh tế thị trường, cho tới thời điểm hiện tại, các hình thức giải quyết tranh chấp chủ yếu được áp dụng rộng rãi trên thế giới bao gồm: thương lượng, hoà giải, trọng tài (phi chính phủ) và giải quyết thông qua Toà án. Qua đó, chúng ta có thể hiểu khái niệm giải quyết TCKDTM là việc các bên tranh chấp thông qua các hình thức, thủ tục, các phương pháp cũng như các hoạt động để giải quyết các mâu thuẫn, bất đồng về quyền lợi và nghĩa vụ, khắc 10
- phục và loại trừ các tranh chấp phát sinh giữa các bên trong quá trình hoạt động thương mại, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của các chủ thể kinh doanh. Còn đối với giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Toà án là hình thức giải quyết thông qua hoạt động của cơ quan tài phán Nhà nước, nhân danh quyền lực Nhà nước để đưa ra phán quyết buộc các bên phải có nghĩa vụ thi hành, kể cả bằng sức mạnh cưỡng chế. Hay nói khác đi, các tranh chấp kinh doanh, thương mại được giao cho Tòa án giải quyết theo trình tự thủ tục tố tụng gọi là Tố tụng dân sự Tòa án. 1.2. Đặc điểm pháp lý và các yêu cầu của quá trình giải quyết tranh chấp kinh doanh, thƣơng mại theo tố tụng dân sự Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại theo tố tụng dân sự là một hoạt động đặc thù do pháp luật tố tụng dân sự qui định cho cơ quan Tòa án và chỉ có Tòa án mới được có đủ thẩm quyền để thực thi nhiệm vụ đó. Đi sâu vào nghiên cứu, chúng ta thấy có các đặc điểm pháp lý sau: - Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương mại là các vấn đề do các bên tranh chấp tự định đoạt. - Các bên tranh chấp thương mại thường là chủ thể kinh doanh có tư cách thương nhân hoặc tư cách doanh nghiệp. - Tranh chấp kinh doanh, thương mại là những tranh chấp mang yếu tố vật chất và thường có giá trị lớn. Đặc điểm của phương thức giải quyết tranh chấp tại Tòa án là: - Phán quyết của Toà án được bảo đảm thi hành bằnh sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. - Việc giải quyết tranh chấp của Toà án phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định mang tính hình thức của pháp luật tố tụng. - Toà án xét xử theo nguyên tắc công khai. - Việc giải quyết tranh chấp thông qua quyết định của Toà án có thể qua nhiều cấp độ xét xử. Nguyên tắc này đảm bảo cho quyết định của Toà án được 11
- chính xác, công khai, khách quan và đúng pháp luật. - Toà án giải quyết các tranh chấp theo nguyên tắc xét xử tập thể và theo nguyên tắc đa số. Từ các đặc điểm pháp lý của việc giải quyết TCKDTM như nêu trên, dẫn đến cho chúng ta nhận thấy rõ các yêu cầu trong giải quyết TCKDTM là cách thức, phương pháp cũng như các hoạt động để khắc phục và loại trừ các tranh chấp đã phát sinh nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh doanh, bảo vệ trật tự, kỷ cương xã hội. Cụ thể, có các yêu cầu trong giải quyết tranh chấp trong kinh doanh như sau: - Nhanh chóng, thuận lợi, không hạn chế, cản trở hoạt động kinh doanh; - Khôi phục và duy trì các quan hệ hợp tác, tín nhiệm giữa các bên trong kinh doanh; - Giữ bí mật kinh doanh và uy tín của các bên trên thương trường; - Chi phí ít tốn kém nhất; - Phán quyết phải chính xác và có khả năng thi hành cao. 1.3. Những nguyên tắc cơ bản trong giải quyết tranh chấp kinh doanh, thƣơng mại bằng tố tụng Tòa án Các nguyên tắc cơ bản trong giải quyết vụ án kinh doanh, thương mại là những tư tưởng chỉ đạo, hướng dẫn việc giải quyết vụ án kinh doanh, thương mại và được ghi nhận trong các quy phạm pháp luật về thủ tục giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại. Tòa kinh tế là một bộ phận của Tòa án nhân dân cũng phải tuân theo các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của cơ quan Tòa án nói chung được ghi nhận trong Hiến pháp và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân. Cụ thể, đó là các nguyên tắc như: Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, nguyên tắc xét xử công khai, xét xử tập thể và quyết định theo đa số, Tòa án đảm bảo cho nhân dân được dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình trước Tòa Ngoài ra, là một Tòa chuyên trách độc lập, trong hoạt động xét xử các vụ án kinh doanh, thương mại, Tòa kinh tế cũng phải tuân thủ những nguyên 12
- tắc riêng. Dưới đây, chúng ta cùng xem xét các nguyên tắc này 1.3.1. Nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự Tôn trọng quyền tự do định đoạt của các đương sự bắt nguồn từ nguyên tắc bảo đảm quyền tự do kinh doanh. Nguyên tắc này được ghi nhận tại Điều 5 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 (BLTTDS): “ 1. Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó. 2. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội”5. Nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự còn là nguyên tắc rất căn bản của tố tụng vụ án kinh doanh, thương mại. Trên cơ sở đảm bảo quyền tự do kinh doanh, Nhà nước không can thiệp vào hoạt động kinh doanh của các các nhà kinh doanh nếu họ kinh doanh trong khuôn khổ theo pháp luật quy định, hay được phép kinh doanh các lĩnh vực mà pháp luật không cấm. Khi xảy ra tranh chấp, Tòa án chỉ tham gia giải quyết khi đương sự có yêu cầu. Nhà nước không tự mình đưa các tranh chấp của các bên ra Tòa án để giải quyết. Cá nhân, pháp nhân, theo thủ tục do pháp luật quy định, có quyền khởi kiện vụ án kinh doanh, thương mại để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của mình. Nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của các đương sự được thể hiện trong suốt các giai đoạn của quá trình tố tụng: họ có thể khởi kiện hoặc không khởi kiện; trong quá trình giải quyết vụ việc, các đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi các yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Việc thực hiện quyền này của đương sự không chỉ dừng lại việc giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, 5 Điều 5, Bộ Luật tố tụng dân sự 13
- thủ tục phúc thẩm mà còn được thực hiện cả trong các giai đoạn của quá trình thi hành bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. 1.3.2. Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật Quyền bình đẳng trước pháp luật là quyền cơ bản của công dân đã được ghi nhận trong Hiến Pháp 1992, được sửa đổi, bổ sung năm 2013. Quyền này đã được cụ thể hoá trong nhiều văn bản pháp luật, trong đó có BLTTDS: “1. Trong tố tụng dân sự mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, địa vị xã hội. Mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân đều bình đẳng trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng trước Tòa án. 2. Tòa án có trách nhiệm bảo đảm nguyên tắc bình đẳng trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong tố tụng dân sự”6. . Việc cụ thể hoá quyền bình đẳng trước pháp luật trong tố tụng kinh tế có ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì nó còn thể hiện sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, các thành viên thương trường và các chủ thể của quan hệ pháp luật kinh doanh, thương mại. 1.3.3. Nguyên tắc Tòa án không tiến hành điều tra mà chỉ xác minh thu thập chứng cứ Nguyên tắc này thể hiện bản chất dân sự trong việc giải quyết các tranh chấp trong kinh doanh, thương mại. Khác với giải quyết các vụ án hình sự, giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương mại thì Tòa án không tiến hành điều tra mà đương sự phải cung cấp chứng cứ, Tòa án chỉ xác minh, thu thập chứng cứ trong những trường hợp cần thiết nhất định (Điều 6 BLTTDS). “ 1. Đương sự có quyền và nghĩa vụ chủ động thu thập, giao nộp chứng cứ cho Tòa án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện, yêu cầu để bảo vệ quyền và lợi ích 6 Điều 8, Bộ luật Tố tụng dân sự 14
- hợp pháp của người khác có quyền và nghĩa vụ thu thập, cung cấp chứng cứ, chứng minh như đương sự. 2. Tòa án có trách nhiệm hỗ trợ đương sự trong việc thu thập chứng cứ và chỉ tiến hành thu thập, xác minh chứng cứ trong những trường hợp do Bộ luật này quy định”. Việc quy định đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình, trong trường hợp đương sự không thể tự mình thu thập được chứng cứ và có yêu cầu thì Thẩm phán mới tự mình thu thập chứng cứ hoặc trong các trường hợp khác mà pháp luật có quy định. Để đảm bảo cho các đương sự khả năng chủ động trong việc tự bảo vệ quyền lợi của mình, kể cả Luật Tố tụng dân sự sửa đổi bổ sung (Số 92/2015/QH13; áp dụng từ 01/7/2016) cũng duy trì và mở rộng quyền và nghĩa vụ của các đương sự. Theo đó đương sự được phép yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu trữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ đó cho mình để giao nộp cho Tòa án (Điều 7 - BLTTDS). Tại Điều 7 – BLTTDS 2014, bổ sung thêm Viện kiểm sát là cơ quan tham gia nguồn tài liệu, chứng cứ được cung cấp để tăng tính khách quan của vụ việc: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ và đúng thời hạn cho đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát nhân dân (sau đây gọi là Viện kiểm sát) tài liệu, chứng cứ mà mình đang lưu giữ, quản lý khi có yêu cầu của đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát theo quy định của Bộ luật này và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc cung cấp tài liệu, chứng cứ đó; trường hợp không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát”. 1.3.4. Nguyên tắc hòa giải Hoà giải là hình thức giải quyết tranh chấp mà trong đó các bên trong quá trình thương lượng có sự tham gia của bên thứ ba độc lập do hai bên cùng chấp nhận hay chỉ định làm vai trò trung gian để hỗ trợ cho các bên nhằm tìm kiếm những giải pháp thích hợp cho việc giải quyết xung đột nhằm chấm dứt các 15