Luận văn Giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Long An
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Long An", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_giai_quyet_khieu_nai_ve_thi_hanh_an_dan_su_tu_thuc.pdf
Nội dung text: Luận văn Giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Long An
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ HUỆ ĐÀO GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH LONG AN LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2017
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ HUỆ ĐÀO GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH LONG AN Chuyên ngành: Luật hiến pháp và luật hành chính Mã số: 60.38.01.02 LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. BÙI THỊ ĐÀO HÀ NỘI – 2017
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của tôi, có sự hỗ trợ từ Giáo viên hướng dẫn là PGS.TS. Bùi Thị Đào. Các nội dung nghiên cứu và kết quả trong đề tài này là trung thực. Những số liệu phục vụ cho việc phân tích, nhận xét, đánh giá cũng như số liệu của các tác giả, cơ quan, tổ chức khác cũng thể hiện trong phần tài liệu tham khảo có nguồn gốc và trích dẫn rõ ràng. Nếu phát hiện có bất cứ sự gian lận nào, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước hội đồng cũng như kết quả luận văn của mình. Hà Nội, ngày 27 tháng 02 năm 2017 Tác giả Lê Huệ Đào
- MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 6 1.1. Khái niệm khiếu nại, giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự 6 1.2.Đối tượng, thời hiệu, thời hạn của giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự 12 1.3. Quyền và nghĩa vụ của người khiếu nại, người bị khiếu nại và người giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự 18 1.4.Nguyên tắc giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự 21 1.5.Quy trình giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự 23 CHƢƠNG 2. THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI TỈNH LONG AN GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 2012 ĐẾN NĂM 2016 36 2.1. Sơ lược lịch sử về giải quyết khiếu nại ở nước ta qua các thời kỳ 36 2.2.Các yếu tố ảnh hưởng đến giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự tại tỉnh Long An 40 2.3.Thực tiễn giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự tại tỉnh Long An giai đoạn năm 2012 đến năm 2016 49 CHƢƠNG 3. GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI TỈNH LONG AN 66 3.1.Nhu cầu tăng cường hiệu quả giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự 66 3.2.Kiến nghị liên quan đến việc giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự 69 3.3. Các giải pháp tăng cường hiệu quả giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự 72 KẾT LUẬN 76 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 78
- DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng 2.1 Kết quả giải quyết đơn khiếu nại về thi hành án dân sự cả 52 nước từ năm 2012 đến năm 2016 2.2 Kết quả giải quyết đơn khiếu nại về thi hành án dân sự từ 54 năm 2012 đến năm 2016 của tỉnh Long An
- LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thi hành án dân sự là giai đoạn cuối cùng của quá trình tố tụng, là một hoạt động nhằm đưa Bản án, Quyết định về phần dân sự của Toà án, quyết định của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và quyết định của Trọng tài thương mại đã có hiệu lực pháp luật ra thi hành trên thực tế. Công tác thi hành án dân sự là công tác phức tạp vì nó liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực trong đời sống xã hội, trực tiếp ảnh hưởng đến quyền về tải sản, nhân thân của các bên đương sự và những người có liên quan. Khi quá trình thi hành án diễn ra sẽ làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ về tài sản của các bên đương sự. Do tính chất phức tạp như vậy nên việc khiếu nại trong quá trình thi hành án dân sự là điều khó tránh khỏi. Nhờ có sự quan tâm của các cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành về thi hành án dân sự ở Trung ương, các cấp chính quyền đại phương và các cơ quan hữu quan khác. Công tác giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự thời gian qua đã đạt được nhiều kết quả tích cực, góp phần bảo vệ kịp thời quyền, lợi ích chính đáng của các bên đương sự, công dân, cơ quan, tổ chức. Do nhiều yếu tố khác nhau: yếu tố chủ quan, yếu tố khách quan, nên công tác giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự còn những bất cập khó khăn cần giải quyết. Để giải quyết vấn đề đặt ra và nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự chúng ta cần phải nghiên cứu đề ra giải pháp đồng bộ thống nhất trong công tác thi hành án dân sự, đặc biệt là công tác giải quyết khiếu nại. Vì công tác này là một trong những nhiệm vụ thiết yếu, thường xuyên của các cơ quan thi hành án dân sự từ trung ương đến địa phương, mà cụ thể là thi hành án dân sự tỉnh Long An. Thông qua đó phát 1
- hiện mặc chưa hoàn thiện về xây dựng hệ thống văn bản pháp luật thi hành án dân sự và hệ thống pháp luật khiếu nại và các văn bản pháp luật có liên quan. Với tất cả những lý do trên, tôi chọn Đề tài “Giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Long An ” làm luận văn thạc sĩ luật chuyên ngành Luật hiến pháp và luật hành chính 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Nội dung nghiên cứu xoay quanh khiếu nại về thi hành án dân sự đã nhận được sự quan tâm của giới khoa học pháp lý. Những năm gần đây đã có một số công trình nghiên cứu, sách báo pháp lý, đề tài và các bài viết liên quan đến vấn đề này dưới gốc độ lý luận và thực tiễn. Đề tài nghiên cứ cấp Bộ " Mô hình quản lý thống nhất công tác thi hành án", mã số 96-98-027/ĐT do Cục thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện; " Luận cứ khoa học của việc đổi mới tổ chức và hoạt động Thi hành án dân sự ở Việt Nam trong giai đoạn mới" Đề tài cấp nhà nước đang thực hiện; Tài liệu học tập thi hành án dân sự- NXB Đại học Quốc gia – Tp. Hồ Chí Minh của tác giải Huỳnh Thị Nam Hải; Sách tiếp tục hoàn thiện pháp luật về khiếu nại của tác giả Bùi Thị Đào. Liên quan đến giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự còn có một số luận văn thạc sĩ như: Khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự của tác giả Lê Thị Duyên; Giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự từ thực tiễn Thành phố Hà Nội của tác giả Nguyễn Thị Hải Yến; Giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Nghệ An của tác giả Lưu Thị Huyền Ngoài ra còn một số bài báo đăng trên các tạp chí như: Chất lượng thẩm định, thẩm tra nhìn từ Luật khiếu nại tố cáo của tác giả Bùi Thị Đào đăng trên tạp chí dân chủ và pháp luật Bộ Tư Pháp số chuyên đề tháng 2
- 5/2011; Gặp gỡ, đối thoại trực tiếp với người khiếu nại, người bị khiếu nại – hoạt động có ý nghĩa bảo đảm quyền khiếu nại của công dân của tác giả Bùi Thị Đào đăng trên trang của Trường Đại học luật Hà Nội số 7/2009; khiếu nại và giải quyết khiếu nại dưới gốc nhìn dân chủ của tác giả Bùi Thị Đào đăng trên báo Dân chủ và pháp luật Bộ Tư Pháp số 11/2008; Pháp luật về khiếu nại trong thi hành án dân sự của tác giả Nguyễn Thị Thu Hằng đăng trên tạp chí dân chủ và pháp luật số tháng 5/2016; Những nội dung cơ bản và những điểm mới của Thông tư quy định quy trình giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo, đề nghị, kiến nghị phản ánh trong thi hành án dân sự của tác giả Nguyễn Hằng- vụ giải quyết khiếu nại tố cáo –Tổng cục thi hành án dân sự đăng trên trang Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp; Quy trình giải quyết đơn khiếu nại tố cáo, đề nghị, kiến nghị, phản ánh trong thi hành án dân sự của Thạc sĩ Vũ Tiến Đức – Tổng cục thi hành án dân sự đăng trên tạp chí dân chủ và Pháp luật ngày 25/5/2016; Khiếu nại tố cáo bồi thường nhà nước trong thi hành án dân sự của tác giả Nguyễn Thanh Thủy – Tổng cục thi hành án dân sự đăng trên tạp chí Dân chủ và Pháp luật ngày 25/5/2016 Các công trình trên đã có nội dung nghiên cứu liên quan đến giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự ở những gốc độ, khía cạnh và mức độ khác nhau, nhưng chưa có công trình nào chuyên nghiên cứu một cách cơ bản, hệ thống công tác giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Long An. Vì vậy đề tài “Giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Long An” của luận văn này không trùng lắp với các công trình đã được công bố ở nước ta trong những năm gần đây. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là phân tích những vấn đề lý luận, pháp lý và thực trạng giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Long An. Qua đó người nghiên cứu đề xuất các giải pháp góp phần hoàn 3
- thiện pháp luật khiếu nại về thi hành án dân sự, nhằm nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự nói chung và tại địa bàn tỉnh Long An- nơi tác giả đang công tác nói riêng trong giai đoạn hiện nay. Để đạt được mục đích trên đề tài có nhiệm vụ: -Nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý liên quan đến việc giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự . - Nghiên cứu thực trạng hoạt động giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Long An, nơi tác giả đang công tác. - Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự đối với cơ quan Thi hành án dân sự nói chung, ở tỉnh Long An nói riêng. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ luật học chuyên ngành luật hành chính, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu về cơ sở lý luận, pháp lý và thực trạng liên quan đến công tác giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Long An Luận văn tập trung khảo sát thực tiễn công tác giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Long An, nơi tác giả đang công tác và trong thời gian những năm gần đây (từ năm 2012 đến năm 2016), kể từ khi Luật Thi hành án dân sự năm 2008 có hiệu lực thi hành (01/7/2009). 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Trên cơ sở quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, tác giả sử dụng các phương pháp cụ thể như: Phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, v.v. để giải quyết những vấn đề đặt ra của đề tài. 4
- 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Luận văn là công trình nghiên cứu cơ bản, có tính hệ thống công tác giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Long An - Một số kiến nghị của tác giả nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật và thực tiễn công tác giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự nếu được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tham khảo, tiếp thu sẽ góp phần đổi mới và tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự ở nước ta nói chung và ở tỉnh Long An nói riêng. - Luận văn còn là tài liệu tham khảo cho giảng viên, học viên, sinh viên chuyên ngành luật hiến pháp và luật hành chính và những người làm công tác thực tiễn giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự, cũng như ai quan tâm đến đề tài này. 7. Cơ cấu của Luận văn Luận văn ngoài Lời mở đầu, Kết luận, các Phụ lục và Danh mục tài liệu tham khảo, gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp lý của giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự . Chương 2: Thực tiễn giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự tại tỉnh Long An giai đoan từ năm 2012 đến năm 2016 Chương 3: Giải pháp tăng cường hiệu quả giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự tại tỉnh Long An 5
- Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 1.1. Khái niệm khiếu nại, giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự 1.1.1.Khái niệm khiếu nại về thi hành án dân sự 1.1.1.1.Khái niệm thi hành án dân sự Thi hành án dân sự là một giai đoạn độc lập của quá trình tố tụng dân sự, giai đoạn kết thúc quá trình bảo vệ quyền lợi của đương sự, trong đó các bản án, quyết định của tòa án có hiệu lực pháp luật mà không được thi hành thì quyền lợi của đương sự chưa được đảm bảo, nguyên tắc pháp chế bị vi phạm. Để đảm bảo nguyên tắc pháp chế thì các bản án, quyết định của tòa án phải được thi hành trên thực tế. Trường hợp các đương sự không tự nguyện thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì cơ quan thi hành án dân sự sẽ đảm bảo bản án, quyết định được thi hành theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, thi hành án dân sự là một thủ tục tố tụng dân sự hay là thủ tục hành chính đã có một thời có nhiều ý kiến khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng thi hành án dân sự không phải là thủ tục tố tụng dân sự, mà là hoạt động mang tính chấp hành và điều hành như vậy thi hành án dân sự là một thủ tục hành chính. Ngược lại với quan điểm thứ nhất quan điểm thứ hai cho rằng thi hành án dân sự là một thủ tục tố tụng dân sự. Đây là giai đoạn tiếp theo của giai đoạn xét xử không thể thiếu trong quá trình bảo vệ quyền lợi của đương sự. Quan điểm thứ ba lại cho rằng thi hành án dân sự là một thủ tục tố tụng đặc biệt bởi nó vừa mang tính chất hành chính-tư pháp Cả ba quan điểm đều có điểm hợp lý nhưng quan điểm thứ ba là phù hợp hơn cả bởi những lý do như sau: Thứ nhất thi hành án dân sự mang tính hành chính 6
- Thi hành án dân sự là dạng hoạt động chấp hành, quản lý. Là dạng hoạt động chấp hành vì thi hành án dân sự chỉ được tiến hành trên cơ sở các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và trong khuôn khổ luật định; toàn bộ quá trình thi hành án dân sự với những hoạt động, biện pháp, cách thức khác nhau đều nhằm thực hiện những nội dung đã được thể hiện trong các bản án, quyết định của Tòa án và theo các quy định cụ thể của pháp luật. Là dạng hoạt động quản lý vì thi hành án dân sự là sự tác động của pháp luật, của các cơ quan thi hành án tới đối tượng phải thi hành án để họ tự giác thi hành hoặc áp dụng các biện pháp buộc họ phải thi hành nghĩa vụ đã được xác định trong các bản án, quyết định của Tòa án; phải tuân theo các quy định của pháp luật; giáo dục họ có ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng lợi ích của cá nhân, tôn trọng kỉ luật nhà nước và trở thành người lương thiện (đối với những người bị kết án phạt tù). Thứ hai Thi hành án dân sự mang tính tư pháp Căn cứ để thi hành án dân sự là các bản án và quyết định của Tòa án và có sự tham gia của các cơ quan tư pháp vào quá trình thi hành án dân sự. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng tính tư pháp trong thi hành án dân sự là tư pháp hiểu theo nghĩa rộng. Trong thực tiễn ở nước ta, cơ quan tư pháp thường được hiểu bao gồm Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án. Theo tác giả điều này là không đúng. Về mặt lý luận, nhiều quốc gia trên thế giới đều xem quyền tư pháp là quyền xem xét và phán quyết về các vi phạm pháp luật, các tranh chấp; Tòa án là cơ quan tư pháp độc lập duy nhất. Viện Kiểm sát nhân dân chỉ là cơ quan tham gia các hoạt động tư pháp. Ngay cả Bộ Tư pháp về tên gọi là như thế nhưng vẫn không có quyền tư pháp (quyền phán quyết) mà chỉ là cơ quan quản lý nhà nước về một số lĩnh vực liên quan trong hoạt động tư pháp (luật sư, thi hành án dân sự ). Tương tự như vậy, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án dân sự cũng thuộc nhóm cơ 7
- quan hành pháp. Hệ quả là không thể dựa vào tính tư pháp trong thi hành án dân sự để cho rằng thi hành án dân sự là một giai đoạn của tố tụng hành chính. Vì vậy, có thể dùng "cái gạch ngang" giữa hành chính và tư pháp để phản ánh bản chất của thi hành án. Tính chất hành chính - tư pháp là một đặc điểm rất quan trọng cần lưu ý trong khi quy định về tổ chức và hoạt động của thi hành án dân sự. Là hoạt động thuộc trách nhiệm của hệ thống cơ quan hành pháp nên trong các quy định của pháp luật thi hành án dân sự phải xác định rõ trách nhiệm chính trong tổ chức, quản lý, chỉ đạo công tác thi hành án dân sự phải thuộc về Chính phủ và Ủy ban nhân dân các địa phương. Với đặc điểm là hoạt động mang tính chất tư pháp thì những tổ chức và cá nhân có thẩm quyền trực tiếp thi hành án (Chi cục trưởng, chấp hành viên) phải có tính độc lập tương đối, hoạt động theo luật và chịu trách nhiệm trước Nhà nước. Thật khó có thể xác định rõ được mức độ (liều lượng) của tính hành chính và tính tư pháp trong thi hành án dân sự. Tuy nhiên, trong thực tiễn, dữa vào đặc điểm của thi hành án dân sự cũng như của mỗi nhóm vụ việc trong từng loại hình thi hành án sẽ quy định mức độ của tính hành chính và tính tư pháp và thông thường trong thi hành án, tính tư pháp luôn thể hiện ở mức độ hạn chế hơn so với tính hành chính. 1.1.1.2.Khái niệm khiếu nại và khiếu nại về thi hành án dân sự Nhà nước ra đời trở thành công cụ bạo lực của giai cấp thống trị, thông qua việc sử dụng Nhà nước, giai cấp thống trị đã điều hòa được những mâu thuẩn giai cấp trong xã hội, bảo vệ được quyền lợi của giai cấp mình. Tuy nhiên bất kì Nhà nước nào muốn tồn tại và phát triển đều phải an dân và ổn định xã hội. Bởi, nếu không có dân thì cũng không có Nhà nước. Do vậy trong hoạt động của mình, mọi Nhà nước đều có những quy định trong luật việc bảo vệ công dân của mình. Về phía người dân, dù có hiểu biết cao hay 8
- hiểu biết thấp đều nhận thức rằng: dưới sự bảo hộ của Nhà nước thì mọi quyền lợi của mình mới được đảm bảo, được bảo vệ. Song, do bản chất của Nhà nước khác nhau nên mức độ bảo hộ khác nhau. Mặt khác, bản thân Nhà nước cũng luôn mong muốn bộ máy do mình lập ra, trong đó có đội ngũ quan chức Nhà nước phải tuân thủ sự điều khiển quản lý của Nhà nước, không muốn bất kỳ ai, tổ chức nào trong bộ máy Nhà nước lại phá vỡ những quy định pháp luật mà Nhà nước đã đặt ra. Thế nhưng, trong thực tiễn thì hoạt động của bản thân từng người dân dù ít, dù nhiều đều có mối quan hệ với bộ máy chính quyền Nhà nước, với tổ chức xã hội và các công dân khác. Trong các quan hệ đó, có lúc, có nơi với nhiều lý do khác nhau, những người trong bộ máy công quyền cũng đã vi phạm đến lợi ích hợp pháp của công dân và như vậy xuất hiện khiếu nại Khoản 1 Điều 2 Luật khiếu nại năm 2011 quy định “khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức theo thủ tục do Luật này quy định, đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình” [17, tr.1] Khi người dân cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm hại thì họ có quyền khiếu nại. Cũng có thể hiểu rằng lĩnh vực nào trong phạm vi quản lý xã hội của nhà nước cũng có thể bị khiếu nại: đất đai, công chứng, hải quan trong đó có thi hành án dân sự. Và khiếu nại về thi hành án dân sự là một khái niệm cần được tìm hiểu khi hoạt động thi hành án dân sự trong những năm gần đây đang được xã hội quan tâm nhiều Song song với sự quan tâm đó thì Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến việc mở rộng dân chủ và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa bảo vệ 9
- quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Việc mở rộng dân chủ phải gắn liền với xây dựng hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến tận cơ sở. Đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới đất nước. Khiếu nại là một trong những quyền lợi cơ bản của công dân đã được ghi nhận tại Hiến pháp năm 2013. Điều 30 Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam quy định: “1. Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân. 2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp luật. 3. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác”.[16, tr.7] Trên cơ sở quy định của Hiến pháp và các văn bản hướng dẫn thi hành, thì ngành thi hành án dân sự cũng có quy định tại khoản 1 Điều 3 Thông tư số 02/2016/TT-BTP ngày 01 tháng 02 năm 2016 của Bộ Tư pháp quy định quy trình giải quyết khiếu nại, tố cáo, đề nghị, kiến nghị, phản ánh trong thi hành án dân sự như sau: Khiếu nại về thi hành án dân sự là việc đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án dân sự đề nghị người có thẩm quyền xem xét lại quyết định, hành vi của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên nếu có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.[5,tr.2] 1.1.2.Khái niệm giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự Khoản 11 Điều 2 Luật khiếu nại năm 2011 quy định: “giải quyết khiếu nại là việc thụ lý, xác minh, kết luận và ra quyết định giải quyết khiếu 10
- nại”[17, tr.1]. Căn cứ vào các quy đinh của Luật khiếu nại, Luật tố cáo và đặc trưng của của hoạt động quản lý hành chính nhà nước, TS Trần Văn Sơn đã đưa ra khái niệm giải quyết khiếu nại của các cơ quan hành chính nhà nước “là hoạt động kiểm tra, xác minh, kết luận về tính hợp pháp, tính hợp lý của quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan hành chính nhà nước để có biện pháp giải quyết theo quy định của pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức và lợi ích chung của nhà nước và xã hội.” Luật thi hành án dân sự năm 2008 sửa đổi bổ sung năm 2014 không đưa ra khái niệm giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự. Tuy nhiên ở các văn bản khác thì có quy định: Khoản 6 Điều 3 Quy chế Giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự (Ban hành kèm theo Quyết định số 1318/QĐ-TCTHADS ngày 30/9/2013 của Tổng Cục trưởng Tổng cục thi hành án dân sự) quy định “Giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự là việc thụ lý, xác minh và ra quyết định giải quyết khiếu nại” [21, tr. 1] Căn cứ vào các quy định liên quan đến giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự mà tác giải đã nghiên cứu, theo ý chí chủ quan của mình tác giả tạm đưa ra khái niệm giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự như : Giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự là việc cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền tiếp nhận, xem xét đơn khiếu nại của công dân về quyết định hoặc hành vi của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên, khi công dân đó có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên là trái pháp luật xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tóm lại giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự là việc cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền tiếp nhận, xem xét đơn khiếu nại của công dân 11
- về quyết định hoặc hành vi của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên. Sau đó tổ chức xác minh và đi đến kết luận cuối cùng về tính đúng, sai của quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính đó nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên có liên quan 1.2.Đối tƣợng, thời hiệu, thời hạn của giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự 1.2.1. Đối tượng khiếu nại về thi hành án dân sự Khoản 1 Điều 1 Luật Khiếu nại năm 2011 “ Luật này quy định về khiếu nại và giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước ” [17, tr. 1]. Luật thi hành án dân sự năm 2008 sửa đổi bổ sung năm 2014 quy định đối tượng bị khiếu nại về thi hành án dân sự là các quyết định, hành vi của thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên. Trong Luật Thi hành án dân sự năm 2008, đối tượng bị khiếu nại về thi hành án dân sự là các quyết định hoặc các hành vi của Thủ trưởng cơ quan Thi hành án, của Chấp hành viên, gồm: * Quyết định về thi hành án: Các quyết định về thi hành án thuộc thẩm quyền ban hành của Chấp hành viên hoặc Thủ trưởng cơ quan thi hành án đều là đối tượng của khiếu nại về thi hành án. Khi nhận được một trong các quyết định nói trên mà có căn cứ cho rằng quyết định đó là xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì những người có quyền khiếu nại được thực hiện quyền khiếu nại. Quyết định bị khiếu nại có thể là quyết định thi hành án của Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự (nội dung không đúng với đơn yêu cầu thi hành án; không đúng với bản án, quyết định của Tòa án ); các quyết định cưỡng chế về thi hành án; 12
- quyết định hoãn, tạm đình chỉ, đình chỉ thi hành án nếu có căn cứ cho rằng quyết định đó là trái pháp luật. * Hành vi về thi hành án: Nếu có căn cứ cho rằng hành vi của Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự và Chấp hành viên trái pháp luật hoặc hành vi của Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự và Chấp hành viên là trái pháp luật như: Những hành vi mà Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự và Chấp hành viên đã không làm hoặc làm không đúng quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự về quy trình, thủ tục thi hành án trong quá trình tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án. Các hành vi bao gồm cả hành động, tức là đã thực hiện hành vi theo quy định là phải thực hiện nhưng thực hiện không đúng, không đủ; hoặc không thực hiện hành vi mà theo quy định là phải thực hiện, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Đó là các hành vi như không ra các quyết định về thi hành án, chậm ra quyết định thi hành án, không xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án; không thông báo đầy đủ theo quy định của pháp luật các quyết định, giấy tờ về thi hành án; thiếu căn cứ trong việc ban hành công văn đề nghị người có thẩm quyền xem xét lại bản án; không hướng dẫn thực hiện các quyền của các đương sự và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan mà Luật Thi hành án dân sự đòi hỏi Chấp hành viên phải hướng dẫn; bán đấu giá khi không có căn cứ xác lập thẩm quyền bán của Chấp hành viên; tiến hành các hoạt động nhưng không lập biên bản cho người được nhận theo quy định của pháp luật; không triệu tập người phải thi hành án để thực hiện việc thi hành án; không chứng kiến việc thỏa thuận của các đương sự khi luật yêu cầu Chấp hành viên phải chứng kiến, không áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án khi người phải thi hành án có điều kiện thi hành. 13
- Luật Thi hành án dân sự năm 2008 đã phân loại các quyết định, hành vi bị khiếu nại thành các nhóm khác nhau, tùy thuộc vào tính chất, giai đoạn thi hành án. Theo đó, các quyết định, hành vi được phân thành bốn nhóm quyết định, hành vi sau đây: Thứ nhất, nhóm quyết định, hành vi thuộc giai đoạn trước khi áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế; Thứ hai, nhóm quyết định, hành vi về áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản và biện pháp khác; Thứ ba, nhóm quyết định, hành vi về áp dụng biện pháp cưỡng chế; Thứ tư, nhóm quyết định, hành vi sau khi áp dụng biện pháp cưỡng chế. Việc phân chia như trên nhằm mục đích tùy thuộc vào nhóm quyết định, hành vi bị khiếu nại, Luật Thi hành án dân sự quy định các thời hiệu khiếu nại của đương sự cũng như thời hạn giải quyết khiếu nại của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại một cách hợp lý hơn, kịp thời hơn. Tất cả các quyết định và hành vi của Thủ trưởng cơ quan thi hành án và chấp hành viên trong suốt quá trình tác nghiệp hồ sơ thi hành án đều là đối tượng bị khiếu nại, khi người khiếu nại có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền lợi ích hợp pháp của mình. 1.2.2.Thời hiệu khiếu nại về thi hành án dân sự Theo quy định tại Điều 9 Luật khiếu nại năm 2011 thời hiệu khiếu nại là “90 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hành chính hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính” [17,tr.5] Do đặc thù riêng hoạt động thi hành án dân sự là hoạt động rất phức tạp, quá trình thi hành án Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên phải thực hiện rất nhiều trình tự thủ tục để thi hành dứt điểm bản án, quyết định của tòa án, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, phán quyết, quyết định của Trọng tài thương mại. Bất kỳ 14
- quyết định, hành vi nào của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên cũng bị người được thi hành án, người phải thi hành án và người có quyền, nghĩa vụ liên quan khiếu nại. Do đó, Luật Thi hành án dân sự đã được cân nhắc cho phép thiết kế thời hiệu khiếu nại đối với quyết định, hành vi của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên ở mỗi thời điểm ra quyết định, thực hiện hành vi thi hành án khác nhau thì thời hiệu khiếu nại cũng khác nhau tùy thuộc vào tính chất của quyết định, hành vi, cụ thể: khoản 2 Điều 140 của Luật thi hành án dân sự năm 2008 sửa đổi bổ sung năm 2014 quy định quyết định, hành vi của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên tại 4 thời điểm bị khiếu nại gồm: (1) trước khi áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế; (2) áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản, áp dụng biện pháp bảo đảm khác; (3)áp dụng biện pháp cưỡng chế; (4) sau khi áp dụng biện pháp cưỡng chế. Thời hiệu khiếu nại tương ứng với quyết định, hành vi của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên ở các thời điểm này được quy định như sau: a) Đối với quyết định, hành vi về thi hành án trước khi áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế là 15 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hoặc biết được hành vi đó b) Đối với quyết định về áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản là 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định Đối với quyết định, hành vi về áp dụng biện pháp bảo đảm khác là 10 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hoặc biết được hành vi đó c) Đối với quyết định, hành vi về áp dụng biện pháp cưỡng chế là 30 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hoặc biết được hành vi đó d) Đối với quyết định, hành vi sau khi áp dụng biện pháp cưỡng chế là 30 ngày, từ ngày nhận được quyết định hoặc biết được hành vi đó 15
- Trường hợp do trở ngại khách quan hoặc do sự kiện bất khả kháng mà người khiếu nại không thực hiện được quyền khiếu nại theo đúng thời hạn thì thời gian có trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng không tính vào thời hạn khiếu nại Lần khiếu nại tiếp theo, thời hiệu là 15 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại của người có thẩm quyền”[14, tr. 346] Lưu ý theo quy định tại khoản 3 Điều 38 Nghị định số 62/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính Phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự “quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án có hiệu lực thi hành thì đối với quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án có hiệu lực thi hành” [11, tr.21] nghĩa là đương sự không có quyền tiếp tục khiếu nại lần hai đối với quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án. Nếu cho rằng hành vi tiếp theo (hành vi xử lý đối với tài sản, giấy tờ) sau khi áp dụng biện pháp bảo đảm mà trái pháp luật thì đương sự được quyền khiếu nại đối với các quyết định đó như các trường hợp bình thường khác. 1.2.3.Thời hạn giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự Thời hạn là một khoản thời gian được xác định từ thời điểm này đến thời điểm khác. Vậy thời hạn giải quyết khiếu nại được tính từ ngày ban hành thông báo thụ lý đơn khiếu nại đến khi người khiếu nại nhận được kết quả giải quyết đơn khiếu nại Theo quy định tại Điều 146 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2014 thì thời hạn giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự được quy định cụ thể như sau: 16