Luận văn Giá trị pháp lý của văn bản công chứng trong pháp luật Việt Nam

pdf 97 trang vuhoa 25/08/2022 3380
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Giá trị pháp lý của văn bản công chứng trong pháp luật Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_gia_tri_phap_ly_cua_van_ban_cong_chung_trong_phap_l.pdf

Nội dung text: Luận văn Giá trị pháp lý của văn bản công chứng trong pháp luật Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ HỒNG NGỌC GI¸ TRÞ PH¸P Lý CñA V¡N B¶N C¤NG CHøNG TRONG PH¸P LUËT VIÖT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2020
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ HỒNG NGỌC GI¸ TRÞ PH¸P Lý CñA V¡N B¶N C¤NG CHøNG TRONG PH¸P LUËT VIÖT NAM Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự Mã số: 8380101.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. ĐỖ GIANG NAM HÀ NỘI - 2020
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyễn Thị Hồng Ngọc
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁ TRỊ PHÁP LÝ CỦA VĂN BẢN CÔNG CHỨNG 6 1.1. Vai trò và đặc điểm của công chứng 6 1.1.1. Vai trò của công chứng 6 1.1.2. Đặc điểm của công chứng 15 1.2. Khái niệm và đặc điểm của văn bản công chứng 22 1.2.1. Khái niệm văn bản công chứng 22 1.2.2. Đặc điểm của văn bản công chứng 28 1.3. Giá trị pháp lý của văn bản công chứng 32 1.3.1. Về giá trị chứng cứ của văn bản công chứng 33 1.3.2. Về giá trị thi hành của văn bản công chứng 37 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GIÁ TRỊ PHÁP LÝ CỦA VĂN BẢN CÔNG CHỨNG 45 2.1. Quy định pháp luật về giá trị pháp lý của văn bản công chứng 45 2.1.1. Về giá trị chứng cứ không phải chứng minh 45 2.1.2. Về giá trị thi hành của văn bản công chứng 51 2.2. Quy định về cơ chế, thủ tục bảo đảm thực thi quy định về giá trị thi hành của văn bản công chứng 58 2.3. Một số quy định pháp luật có liên quan tác động tới giá trị pháp lý của văn bản công chứng 63 2.3.1. Về tiêu chuẩn công chứng viên 63 2.3.2. Về trình tự, thủ tục công chứng 64
  5. 2.3.3. Về cơ sở dữ liệu công chứng và lưu trữ hồ sơ công chứng 65 2.3.4. Về thời điểm có hiệu lực của văn bản công chứng và hiệu lực của hợp đồng, giao dịch 67 CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ GIÁ TRỊ PHÁP LÝ CỦA VĂN BẢN CÔNG CHỨNG 68 3.1. Về hoàn thiện quy định về giá trị văn bản công chứng 71 3.2. Xây dựng và hoàn thiện cơ chế bảo đảm giá trị thi hành của văn bản công chứng 75 3.3. Về các vấn đề có liên quan, tác động đến giá trị pháp lý của văn bản công chứng 77 KẾT LUẬN 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 81 PHỤ LỤC 88
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Công chứng trên thế giới có nguồn gốc từ lâu, trải qua những thăng trầm lịch sử luôn giữ một vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội, thể hiện rất rõ không chỉ trong các quan hệ về bất động sản, kinh doanh, lao động mà còn trong các quan hệ gia đình, thừa kế. Theo đó do nhiều yếu tố trong các mối quan hệ trên tranh chấp xảy ra ngày càng nhiều lên. Khi phát sinh tranh chấp sinh ra một loạt các hậu quả như: mất thời gian, chi phí, tổn hại đến uy tín, danh dự của cá nhân, tổ chức tham gia. Vậy cơ chế nào cần được hình thành và phát triển để có thể phòng ngừa, ngăn chặn tranh chấp phát sinh trong các các quan hệ về bất động sản, kinh doanh, lao động mà còn trong các quan hệ gia đình, thừa kế. Đây là những vấn đề đang được tranh luận sôi nổi với nhiều quan niệm khác nhau và rất được quan tâm không chỉ bởi các nhà lãnh đạo, các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý, mà còn bởi các công chứng viên và những người đang công tác trong lĩnh vực công chứng. Song song với chính sách phát triển kinh tế, mỗi nước đã bắt đầu chương trình cải cách thể chế của hệ thống tư pháp và pháp luật, sự nảy sinh và phát triển mạnh mẽ những quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại, đòi hỏi có sự an toàn pháp lý cao và thể chế công chứng ở các nước này phải được nhanh chóng cải cách phù hợp với nền kinh tế thị trường, trong xu thế đó Công chứng Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Công chứng là hoạt động có ý nghĩa quan trọng nhằm duy trì trật tự pháp luật ổn định trong các giao dịch, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia giao dịch, bảo đảm ổn định trật tự xã hội, phòng ngừa 1
  7. tranh chấp xảy ra, đồng thời cung cấp chứng cư đáng tin cậy khi xảy ra các tranh chấp. Việc tham gia vào các giao dịch của công chứng viên được thực hiện theo nhiều cách khác nhau nhưng kết quả cuối cùng là được thể hiện dưới một hình thức chung nhất là hợp đồng, giao dịch đã được công chứng hay còn được gọi là văn bản công chứng. Ở mỗi quốc gia tùy theo đặc điểm hệ thống pháp luật mà văn bản công chứng được thể hiện khác nhau, nhưng việc quy định về giá trị pháp lý của văn bản công chứng luôn được coi là giá trị cốt lõi trong pháp luật về công chứng. Trong công cuộc cải cách đổi mới toàn diện đất nước hiện nay, cải cách tổ chức và hoạt động tư pháp đang được Đảng và Chính phủ rất quan tâm trong đó có cải cách về tổ chức và hoạt động của công chứng - một lĩnh vực quản lý tư pháp quan trọng trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Cùng với việc hoàn thiện pháp luật về công chứng các quy định về giá trị pháp lý của văn bản công chứng cũng từng bước được bổ sung hoàn thiện cho phù hợp. Tại văn bản pháp lý đầu tiên Nghị định 45/HĐBT quy định về công chứng chỉ mới đề cấp đến “Các hợp đồng và giấy tờ được công chứng có giá trị chứng cứ” (Điều 1) thì đến Luật Công chứng 2014 các quy định giá trị pháp lý của văn bản công chứng (Điều 5) đã được quy định đầy đủ hơn là giá trị như một chứng cứ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể, phòng ngừa tranh chấp, là bằng chứng xác thực, có giá trị sử dụng như bản gốc. Sự thay đổi này đã giúp cho luật Công chứng thể hiện được vai trò của mình với chức năng đảm bảo an toàn pháp lý cho các bên tham gia hợp đồng, giao dịch. Tuy nhiên, qua thực tiễn cho thấy quy định về giá trị pháp lý của văn bản công chứng mặc dù đã có nhiều tiến bộ nhưng trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện nay vẫn còn mang tính hình thức, chưa có cơ chế đề thực hiện trên thực tế làm ảnh hưởng đến vị thế của công chứng trong điều kiện 2
  8. đẩy mạnh cải cách tư pháp, cải cách hành chính phục vụ việc xây dựng nhà nước pháp quyền. Việc nghiên cứu giá trị pháp lý của văn bản công chứng để làm cơ sở tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật về vấn đề này là một nhu cầu cấp thiết. Ngoài ra do thực tiễn công tác tại Văn phòng công chứng, trực tiếp chịu sự tác động của luật công chứng cũng là lý do tôi lựa chọn đề tài: "Giá trị pháp lý của văn bản công chứng trong pháp luật Việt Nam" làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sỹ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Mặc dù có thời gian phát triển chưa dài những đã có nhiều đề tài, bài viết nghiên cứu về công chứng với tư cách là một thiết chế bổ trợ tư pháp như: "Một số vấn đề về công chứng giao dịch tài sản ở Việt Nam", Luận văn Thạc sĩ Luật học của Đỗ Xuân Hòa; "Công chứng nhà nước những vấn đề lý luận và thực tiễn ở nước ta", Luận văn Thạc sĩ Luật học của Trần Ngọc Nga; Luận án Tiến sĩ Luật học của Đặng Văn Khanh; "Thẩm quyền của Ủy ban nhân dân trong lĩnh vực thực hiện các việc công chứng", Luận văn Thạc sĩ Luật học của Lê Thị Thúy; "Tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước ở nước ta hiện nay", Luận án Tiến sĩ Luật học của Dương Khánh; "Xã hội hóa công chứng ở Việt Nam hiện nay", Luận văn thạc sĩ luật học của Lê Thị Phương Hoa; "Công chứng Việt Nam trong nền kinh tế thị trường theo mô hình công chứng Latinh", Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Văn Toàn; “Xã hội hóa công chứng ở Việt Nam hiện nay, thực trạng và giải pháp”, Luận văn thạc sĩ của Phạm Thị Mai Trang. Với tinh thần nghiên cứu, học hỏi một cách nghiêm túc, kế thừa những quan điểm tư tưởng tiến bộ của các công trình nghiên cứu trên, luận văn "Giá trị pháp lý của văn bản công chứng trong pháp luật Việt Nam" là đề tài nghiên cứu tương đối hệ thống mặt lý luận về công chứng, văn bản công chứng, giá trị pháp lý của văn bản công chứng và thực tiễn quy định của pháp luật về loại 3
  9. văn bản này để đề xuất những kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và các biện pháp bảo đảm đối với giá trị của văn bản công chứng. 3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu vai trò của công chứng, những quy định của pháp luật Việt Nam có liên quan đến công chứng, văn bản công chứng và giá trị pháp lý của văn bản công chứng với tính chất của một văn bản xác thực (văn bản công). Tuy chưa đi sâu chi tiết phân tích về pháp luật của nhiều quốc gia, nhưng với phạm vi nghiên cứu mở rộng ngoài lãnh thổ quốc gia Việt Nam, luận văn đã khái quát một cách chung nhất về tình hình pháp luật điều chỉnh cũng như thực tiễn áp dụng các quy định về giá trị pháp lý của văn bản công chứng ở Việt Nam hiện nay. Đối tượng nghiên cứu của luận văn là văn bản công chứng và giá trị pháp lý của văn bản công chứng, trong đó tập trung vào một số nội dung chủ yếu như: xác định rõ vai trò của công chứng, khái niệm văn bản công chứng và những nội dung cơ bản của văn bản công chứng; làm rõ nội hàm giá trị chứng cứ không phải chứng minh và hiệu lực thi hành của văn bản công chứng; đề xuất quan điểm, định hướng nhằm tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật về văn bản công chứng, giá trị pháp lý của văn bản công chứng, đồng thời xây dựng cơ chế bảo đảm các quy định của pháp luật về hiệu lực thi hành của văn bản công chứng. 4. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử được sử dụng như những phương pháp chủ đạo, đảm bảo tính khách quan và tính khoa học. Ngoài ra, luận văn còn áp dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể khác: Phương pháp lịch sử học: Các vấn đề tiếp cận đều gắn liền với từng giai đoạn lịch sử, từ những tiến triển của quy định pháp luật công chứng, đến sự phát triển của văn bản công chứng. 4
  10. Phương pháp phân tích tổng hợp: Việc phân tích các quy định của pháp luật trong lĩnh vực công chứng cho phép hiểu rõ giá trị của văn bản công chứng; thông qua đó đưa ra nhưng nhận định, kết luận có liên quan. Phương pháp so sánh: Luật so sánh luôn đóng một vai trò rất quan trọng trong việc nghiên cứu. Hiện nay, trong mối quan hệ hợp tác quốc tế giữa công chứng các nước, rất nhiều kinh nghiệm hay được phố biến, trao đổi và nhiều bài học được rút ra trong việc thiết kế quy định liên quan tới văn bản công chứng. 5. Cơ cấu của luận văn Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn gồm 3 chương, cụ thể: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về giá trị pháp lý của văn bản công chứng Chương 2: Thực trạng quy định của pháp luật Việt Nam về giá trị pháp lý của văn bản công chứng. Chương 3: Giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về giá trị pháp lý của văn bản công chứng. 5
  11. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁ TRỊ PHÁP LÝ CỦA VĂN BẢN CÔNG CHỨNG 1.1. Vai trò và đặc điểm của công chứng 1.1.1. Vai trò của công chứng Nguồn gốc của hoạt động công chứng được tìm thấy trong văn hóa La mã cổ đại, xuất hiện vào khoảng giữa thế kỷ thứ 2 và thế kỷ thứ 3 sau công nguyên. Công chứng viên, trong luật La Mã đó là người với vai trò ghi chép, thư ký, tốc ký, người ghi chép các hoạt động trong nghị viện của Tòa án, hoặc ghi chép theo lời người khác đọc, người soạn các di chúc và giấy chuyển nhượng sở hữu và làm chứng [1, tr.40-47]. Theo đó, xét về nguồn gốc, công chứng là nghề sớm xuất hiện trong lịch sử loài người với vai trò ghi chép, soạn thảo văn bản và làm chứng [55, tr.18]. Pháp luật dân sự đã trải qua thời kỳ trung cổ đến thời kỳ phục hưng từ thế kỷ 12 trở đi, thời kỳ này, công chứng phát triển thành tổ chức nghề luật ở hầu hết các nước Châu Âu và Châu Mỹ. Theo Pierre-Francois Real, một trong những nhà biên soạn Luật Ventôse năm 1804 làm cơ sở cho việc thiết lập nghề công chứng ở nhiều quốc gia khác ngoài Cộng hòa Pháp như Bỉ, Đức, Áchentina, Áo và Thụy sĩ thì: Những người tư vấn cho các bên đương sự một cách vô tư, giúp họ hiểu được phạm vị nghĩa vụ hợp đồng mà họ đã giao kết, soạn thảo các hợp đồng này một cách rõ ràng, làm chứng cho chúng có tính xác thực và có giá trị như một phán quyết chung thẩm, đóng vai trò bộ nhớ của đương sự và lưu giữ tuyệt đối hồ sơ của họ, hạn chế tranh chấp có thể nảy sinh giữa các bên một cách ngay tình: những người làm công việc như vậy chính là công chứng viên [41]. Nghiên cứu các tài liệu về lịch sử công chứng cho thấy, trên thế giới có 6
  12. ba hệ thống hệ thống công chứng, đó là hệ thống công chứng dân luật (hay còn gọi là công chứng latinh), hệ thống công chứng thông luật (hay còn gọi là hệ thống công chứng Anglo - Saxon) và hệ thống công chứng Collectiviste (công chứng tập thể) - hệ thống công chứng mà ở đó công chứng được coi như một hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức công chứng là cơ quan nhà nước, công chứng viên là công chức nhà nước. Hệ thống công chứng Latinh: (chịu ảnh hưởng sâu sắc của hệ thống luật La mã, còn gọi là hệ thống pháp luật dân sự - Civil Law). Hệ thống này tồn tại ở hầu hết các nước thuộc cộng đồng châu Âu (trừ Đan Mạch và Anh); Châu Phi (các nước thuộc địa cũ của Pháp); các nước châu Mỹ - La tinh, bang Quebec của Canada, một số nước châu Á (Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản ). Tại các nước trong hệ thống công chứng Latinh, nhà nước thừa nhận thể chế công chứng chuyên nghiệp, đề ra các quy định pháp lý để tổ chức và quản lý thiết chế công chứng một cách chặt chẽ. Phạm vi hoạt động của công chứng thường bao gồm các hợp đồng, giao dịch về bất động sản, thừa kế và các thỏa thuận về tài sản trong hôn nhân gia đình. Ở Cộng hòa Pháp (một điển hình của trường phái công chứng Latinh), Điều 1 Pháp lệnh số 45-2500 ngày 02/11/1945 về Điều lệ công chứng của Cộng hòa Pháp quy định: "Công chứng viên là viên chức công, được bổ nhiệm để lập các hợp đồng và văn bản mà theo đó, các bên phải hoặc muốn đem lại tính xác thực giống như các văn bản của các cơ quan công quyền và để đảm bảo ngày, tháng chắc chắn, lưu giữ và cấp các bản sao văn bản công chứng" [55, tr.19]. (Điều 1) Điều lệ công chứng được ban hành kèm theo Lệnh số 48/FR ngày 29/8/1968 của Cộng hòa Bê-nanh cũng chép lại gần như nguyên văn điều luật trên) [66, tr.125]. Nhìn chung các nước thuộc hệ thống Latinh đều quy định công chứng là hoạt động của cơ quan công chứng xác nhận tính xác thực và tính hợp pháp 7
  13. của các hành vi pháp lý dân sự, sự kiện pháp lý và các văn bản pháp lý theo các trình tự quy định của pháp luật. Hệ thống công chứng Anglo-Sacxon (còn được gọi là hệ thống pháp luật công chứng hình thức): Gắn liền với hệ thống pháp luật Common Law, tồn tại ở các quốc gia: Vương quốc Anh, Mỹ (trừ bang Luisane), Canada (trừ bang Quebec), Singapore, Thái Lan, Đài Loan Đặc điểm nổi bật của hệ thống này là việc công chứng chỉ mang tính hình thức, chú trọng đến tính xác thực về mặt hình thức như: nhận diện đúng khách hàng, xác định đúng thời gian, địa điểm giao kết hợp đồng, ghi nhận sự kiện pháp lý mà không cần quan tâm đến tình trạng pháp lý của đối tượng. Ở Vương quốc Anh (một trong các điển hình của trường phái công chứng Anglo - Saxon), quy chế công chứng năm 1801, 1833, 1834 quy định: Công chứng viên là viên chức được bổ nhiệm để thực hiện các hành vi công chứng sau: Soạn thảo, chứng nhận hoặc xác lập chứng thư và các giấy tờ khác có liên quan đến việc: chuyển nhượng hoặc xác lập giấy tờ khác có liên quan đến việc chuyển nhượng bất động sản và tài sản cá nhân, giấy ủy quyền liên quan đến bất động sản và tài sản cá nhân ở Anh, xứ Wales, các nước khác thuộc khối cộng đồng Anh hoặc ở nước ngoài; chứng nhận hoặc xác nhận các giấy tờ liên quan đến di chúc, lập kháng nghị hàng hải về sự cố xảy ra đối với tàu và hàng hóa trên tàu trong thời gian tàu đi trên biển [62, tr.90]. Hệ thống công chứng Collectiviste (công chứng tập thể) tồn tại ở các nước XHCN trước đây và phát triển mạnh vào các năm 70 của thế kỷ XX đến trước năm 1990, bao gồm: Liên Xô, Ba Lan, Đông Đức, Bungari, Hungari, Rumani, Cu Ba, Trung Quốc, Việt nam [30] lại có quan niệm về công chứng khác với hệ thống công chứng Latinh và hệ thống công chứng Anglo - Saxon. Ở hệ thống công chứng Collectiviste, công chứng viên là công chức nhà nước, 8
  14. kiêm nhiệm cả việc chứng thực (thị thực hành chính; việc công chứng được giao cho cả các chủ thể không phải là công chứng viên đảm nhiệm; công chứng viên không có chứng chỉ hành nghề, không phải chịu trách nhiệm dân sự trước khách hàng, chỉ phải chịu trách nhiệm hành chính trước Nhà nước về những sai phạm trong hoạt động của mình. Tuy nhiên, hiện nay trong hệ thống công chứng Collectiviste, hầu hết các nước đã chuyển đổi xác định công chứng là một nghề tự do đặt dưới sự quản lý của Nhà nước và đang từng bước tiến hành cải cách công chứng từ mô hình công chứng nhà nước sang mô hình công chứng tư. Ví dụ: ở Ba Lan, Điều 1 Luật số 176 ngày 14/02/1991 về công chứng quy định: "Công chứng viên được bổ nhiệm để lập những văn bản mà trong đó, các bên phải hoặc muốn đem lại một tính đích thực" [66, tr.99]. Mặc dù hình thành ba hệ thống công chứng như trên, song chung quy lại, chỉ có hai mô hình công chứng: mô hình công chứng tự do (ở hệ thống công chứng Latinh và hệ thống công chứng Anglo-Sacxon) và mô hình công chứng nhà nước (chỉ tồn tại ở hệ thống công chứng Collectiviste). Ở mô hình công chứng nhà nước, cơ quan công chứng là thiết chế nhà nước, công chứng viên là công chức nhà nước, do nhà nước bổ nhiệm, với sự bao cấp toàn bộ của nhà nước, mô hình công chứng nhà nước chỉ phù hợp với cơ chế kế hoạch hóa tập trung và nền kinh tế hiện vật, trong đó, các giao lưu dân sự, kinh tế, thương mại không phát triển, ở đó, vai trò công chứng chủ yếu là nhằm bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa và tài sản cá nhân [30]. Ở mô hình công chứng tự do, các công chứng viên được Nhà nước bổ nhiệm, hành nghề tự do theo quy định của pháp luật đối với các hình thức văn phòng công chứng tư nhân hoặc văn phòng công chứng tập thể, tự chủ trong tổ chức, hoạt động, tự hạch toán và đóng thuế cho nhà nước. 9
  15. Tóm lại, có thể thấy rõ ưu thế vượt trội của mô hình công chứng tự do so với mô hình công chứng nhà nước. Đó là sự đề cao, phát huy trách nhiệm cá nhân của công chứng viên, tạo ra cơ chế cạnh tranh lành mạnh, tạo động lực để các công chứng viên phát huy tính tích cực, chủ động nhiệt tình trong hoạt động của mình, giảm nhẹ sự bao cấp của nhà nước. Về mặt tổ chức và hoạt động, mô hình công chứng tự do tạo ra sự linh hoạt về mặt tổ chức bảo đảm đáp ứng kịp thời nhu cầu công chứng của nhân dân. Về vai trò, mô hình công chứng tự do có hai chức năng chính. Thứ nhất, là để ngăn chặn các tranh chấp pháp lý: việc chuẩn bị các văn bản công chứng mang lại bằng chứng rõ ràng liên quan đến các quyền lợi hợp pháp và giúp ngăn chặn tranh chấp pháp lý. Thứ hai, là để giải quyết các tranh chấp pháp lý: các văn bản công chứng đáp ứng được những yêu cầu nhất định sẽ cấu thành văn bản quy phạm có hiệu lực thi hành hoặc là cơ sở để một bên có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết khi một bên không thực hiện nghĩa vụ của mình [8]. Ở Việt Nam hoạt động công chứng xuất hiện từ những năm 80 của thế kỷ XIX [4, tr.12], hoạt động công chứng của nước ta ở giai đoạn này đều áp dụng theo mô hình của Pháp, một hợp đồng giữa hai bên là người Việt Nam có thể làm dưới hình thức: (i) Do hai bên đương sự thỏa thuận và ký (được gọi là tư chứng thư); (ii) Do chính quyền thị thực tức là do trưởng phố ở các thành thị và lý trưởng ở nông thôn thị thực hoặc do Công chứng viên lập (công chứng thư). Cách mạng Tháng 8 thành công, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Cùng với việc xây dựng bộ máy nhà nước kiểu mới, ngày 01/10/1945 chính quyền cách mạng đã quyết định về một số vấn đề liên quan đến hoạt động công chứng. Hệ thống công chứng nhà nước của Việt Nam được hình thành trên cơ sở Thông tư số 574/QLTPK ngày 10/10/1987 của Bộ Tư pháp về công tác công chứng nhà nước và Thông tư số 858/QLTPK ngày 10
  16. 15/10/1987 của Bộ Tư pháp về hướng dẫn thực hiện các việc công chứng; Quyết định số 90/HĐBT ngày 19/07/1989 của Hội đồng Bộ trưởng về con dấu của phòng công chứng nhà nước. Tính đến thời điểm 27/02/1991 thời điểm ban hành Nghị định số 45/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước, trên cả nước đã thí điểm thành lập 29 phòng công chứng nhà nước ở 29 tỉnh, thành phố. Theo Thông tư số 574/QLTPK ngày 10/10/1987 của Bộ Tư pháp, công chứng nhà nước được xác định: Là một hoạt động của Nhà nước với mục đích giúp các công dân, cơ quan, tổ chức lập và xác nhận các văn bản, sự kiện có ý nghĩa pháp lý, hợp pháp hóa các văn bản, sự kiện đó, làm cho các văn bản, sự kiện đó có hiệu lực thực hiện. Bằng hoạt động trên, công chứng nhà nước tạo ra những bảo đảm pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, các cơ quan, tổ chức phù hợp với Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngăn ngừa vi phạm pháp luật, giúp cho việc giải quyết tranh chấp được thuận lợi, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa [2]. Lần đầu tiên kể từ khi thành lập nước (02/9/1945), khái niệm công chứng nhà nước được đưa ra ở Việt Nam, đánh dấu sự đổi mới về tư duy pháp lý, bước đầu đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế ở giai đoạn đầu của thời kỳ chuyển đổi. Cùng với quá trình đổi mới, Đảng và Nhà nước ta chủ trương xóa bỏ triệt để cơ chế kế hoạch hóa tập trung, chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường. Trong vòng 10 năm (1991-2000), Chính phủ đã ban hành ba nghị định về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước, đó là: Nghị định số 45/HĐBT ngày 27/2/1991 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về 11
  17. tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước (sau đây gọi tắt là Nghị định số 45/HĐBT); Nghị định số 31/CP ngày 18/5/1996 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước (sau đây gọi tắt là Nghị định số 31/CP) và Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 của Chính phủ về công chứng, chứng thực (sau đây gọi tắt là Nghị định số 75/2000/NĐ-CP). Theo Nghị định số 45/HĐBT, thuật ngữ công chứng được xác định như sau: Công chứng nhà nước là việc chứng nhận tính xác thực của các hợp đồng và giấy tờ theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội (sau đây gọi chung là các tổ chức) góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa [31, Điều 1]. Đến Nghị định số 31/CP, công chứng được xác định: Công chứng là việc chứng nhận tính xác thực của các hợp đồng và giấy tờ theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội (sau đây gọi chung là các tổ chức) góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa [11]. Chỉ đến Nghị định số 75/2000/NĐ-CP, khái niệm công chứng ở Nghị định này đã được xác định khoa học hơn, tiệm cận gần hơn với quan niệm chung của thế giới về công chứng. Theo Nghị định này: Công chứng là việc phòng công chứng chứng nhận tính xác thực của hợp đồng được giao kết hoặc giao dịch khác được xác lập trong quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại và quan hệ xã hội khác (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch) và thực hiện các việc khác theo quy định của Nghị định này [12, Điều 2, khoản 1]. 12
  18. Luật Công chứng số 82/2006/QH11 được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2006 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2007. Luật Công chứng đã quy định tại Điều 2 như sau: Công chứng là việc công chứng viên chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch khác (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch) bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng. Về cơ bản định nghĩa công chứng vẫn không thay đổi so với các Nghị định trên. Hiện này, tổ chức và hoạt động công chứng ở Việt Nam đang chịu sự điều chỉnh trực tiếp của Luật Công chứng số 53/2014/QH13 được được Quốc Hội thông qua ngày 20/06/2014 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2915. Theo Khoản 1 Điều 2 Luật Công chứng 2014 quy định: Công chứng là việc công chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn bản (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch), tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt (sau đây gọi là bản dịch) mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng. Qua phân tích về khái niệm công chứng của nước ta qua các thời kỳ có thể thấy cách thể hiện khái niệm có sự khác nhau, nhưng tất cả có sự giống nhau cơ bản là xác định công chứng là việc chứng nhận tính xác thực của hợp đồng, giao dịch và nhằm bảo đảm cho hợp đồng, giao dịch được giao kết hoặc xác lập không vi phạm pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Nó cũng thể hiện rõ việc công chứng tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch 13
  19. (công chứng nội dung) đã được xác lập ở Việt Nam ngay từ khi được hình thành và được kế thừa trong nhiều văn bản pháp luật quy định về tổ chức và hoạt động công chứng. Việc xác định mô hình công chứng theo hướng nêu trên xuất phát từ việc nước ta là một nước có hệ thống luật thành văn, hơn nữa thực tiễn hoạt động công chứng cho thấy công chứng tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch đã phát huy một ưu điểm quan trọng đó là bảo đảm tính chặt chẽ, an toàn về mặt pháp lý của hợp đồng, giao dịch, phòng ngừa tranh chấp, vi phạm pháp luật nhất là trong điều kiện hệ thống pháp luật nước ta còn chưa đồng bộ, trình độ hiểu biết pháp luật của người dân còn chưa cao, đồng thời đây cũng là xu hướng chung của công chứng thế giới hiện nay. Chính vì vậy, thực hiện chủ trương được xác định tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đó là “hoàn thiện chế định công chứng. Xác định rõ phạm vi của công chứng và chứng thực, giá trị pháp lý của văn bản công chứng. Xây dựng mô hình quản lý nhà nước về công chứng theo hướng nhà nước chỉ tổ chức cơ quan công chứng thích hợp; có bước đi phù hợp để xã hội hóa công việc này” [28]. Với việc cách xác định nội hàm của thuật ngữ “công chứng” trong Luật Công chứng 2014, hoạt động công chứng ở Việt Nam dần trở về đúng bản chất là một hoạt động dịch vụ công, đồng thời là một nghề do công chứng viên thực hiện, nhằm mang lại tính xác thực cho các hợp đồng, giao dịch qua đó bảo đảm an toàn pháp lý cho các bên giao kết, phòng ngừa tranh chấp, vi phạm pháp luật. Xét dưới góc độ hội nhập thì khái niệm này cơ bản phù hợp với quan niệm về công chứng theo hệ thống Latinh và cùng với đó, cơ chế quản lý công chứng cũng được xác định một cách cụ thể hơn cho phù hợp với tình hình mới. Như vậy bản chất hoạt động công chứng là loại hoạt động mang tính chất dịch vụ công. Bằng hành vi công chứng của mình, công chứng viên đã 14
  20. cung cấp một dịch vụ về an toàn pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức bảo đảm tính hợp pháp và an toàn về mặt pháp lý cho các giao dịch, hợp đồng, phòng ngừa các tranh chấp có thể xảy ra về sau giữa các bên. Điểm đặc biệt trong dịch vụ mà Công chứng viên cung cấp cho các bên là dịch vụ mang yếu tố quyền lực nhà nước, có quyền nhân danh nhà nước để chứng nhận tính xác thực và tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch, như vậy nhà nước đã gắn cho văn bản công chứng một giá trị giống như một quyết định, một bản án của Toà án nếu xét trên góc độ thi hành. Các học giả phương Tây khi nghiên cứu một cách tổng thể pháp luật công chứng của Việt Nam và các nước phương Tây đã đánh giá rằng Việt Nam hiện nay đang phải đối mặt với nhiều tranh chấp về quyền sở hữu đất đai. Ở các nước theo truyền thống luật thành văn, các tranh chấp này không tồn tại bởi Nhà nước đã trao thẩm quyền duy nhất cho các công chứng viên để thực hiện toàn bộ các giao dịch chuyển đổi bất động sản (như mua bán, chia tách hay thừa kế). Công chứng viên là người bảo đảm, là chủ thể của hệ thống tài sản đất đai và là thẩm phán của hợp đồng. Công chứng viên biết rằng họ trực thuộc một cơ quan thống nhất đặt dưới thẩm quyền của Nhà nước. Vấn đề ở đây không phải là trao lợi thế cho một ngành nghề cụ thể, mà là để xã hội có được những “thẩm phán hợp đồng” độc lập, đáng tin cậy và công bằng. Đó là cơ sở để có được sự hài hòa trong xã hội. Có thể thấy rằng những giá trị, ý nghĩa, vai trò của công chứng và công chứng viên vừa nêu của hệ thống công chứng Latinh chưa được thể hiện hoặc thể hiện còn khá mờ nhạt trong pháp luật Việt Nam. 1.1.2. Đặc điểm của công chứng Từ việc phân tích vai trò của công chứng, có thể thấy công chứng có các đặc điểm cơ bản: 15
  21. Thứ nhất, công chứng là một hoạt động mang tính chuyên môn nghề nghiệp của công chứng viên Ngày nay, an ninh luật pháp có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong các xã hội phương tây và công chứng viên là nguồn đảm bảo cho sự an ninh này. Mặc dù cách thể hiện khác nhau, song về cơ bản công chứng viên tại các nước theo truyền thống luật thành văn được hiểu là viên chức công được bổ nhiệm để lập các hợp đồng và văn bản mà theo đó các bên phải hoặc muốn đảm bảo tính xác thực của văn bản đó giống như văn bản của các cơ quan công quyền khác và đảm bảo việc lưu giữ, cấp bản sao của văn bản đó (Pháp, Đức, Ba Lan, Tây Ban Nha ) bởi vậy hoạt động công chứng là hoạt động mang tính chuyên môn nghề nghiệp của công chứng viên. Chỉ có công chứng viên, người được đào tạo về chuyên môn và được cơ quan nhà nước trao quyền mới được thực hiện hoạt động này. Đặc điểm này của hoạt động công chứng được biểu hiện như sau: Các phòng công chứng, văn phòng công chứng thực hiện hoạt động công chứng bằng kiến thức chuyên môn nghề nghiệp của các công chứng viên là những người do Nhà nước bổ nhiệm với đầy đủ các điều kiện, tiêu chuẩn quy định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người yêu cầu công chứng. Công chứng viên bằng sự kiến thức pháp luật và kinh nghiệm nghề nghiệp, với sự khách quan, vô tư phải đảm bảo xác định đúng chủ thể, đối tượng, nội dung, tính chất của hợp đồng giao dịch, xác định các quan hệ pháp lý phát sinh xung quanh yêu cầu công chứng, hậu quả pháp lý có thể xảy ra. Xét trên một khía cạnh khác, công chứng viên tham gia nhằm giúp các bên thể hiện sự thỏa thuận nhất trí của mình theo quy định của pháp luật chứ không phải là người tham gia giải quyết tranh chấp giữa các bên. Với ý nghĩa đó công chứng viên còn được coi là "thẩm phán phòng ngừa" [39, tr.2] Nếu so sánh về vai trò của công chứng viên giữa hệ thống công chứng 16