Luận văn Động cơ mua bán các chất ma túy của phạm nhân ở trại giam Z30D - Cục V26 - Bộ Công An

pdf 113 trang vuhoa 25/08/2022 4860
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Động cơ mua bán các chất ma túy của phạm nhân ở trại giam Z30D - Cục V26 - Bộ Công An", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_dong_co_mua_ban_cac_chat_ma_tuy_cua_pham_nhan_o_tra.pdf

Nội dung text: Luận văn Động cơ mua bán các chất ma túy của phạm nhân ở trại giam Z30D - Cục V26 - Bộ Công An

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ___ VŨ TUẤN NAM ĐỘNG CƠ MUA BÁN CÁC CHẤT MA TÚY CỦA PHẠM NHÂN Ở TRẠI GIAM Z30D - CỤC V26 - BỘ CÔNG AN LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC TÂM LÝ HÀ NỘI - 2007
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ___ VŨ TUẤN NAM ĐỘNG CƠ MUA BÁN CÁC CHẤT MA TÚY CỦA PHẠM NHÂN Ở TRẠI GIAM Z30D - CỤC V26 - BỘ CÔNG AN CHUYÊN NGÀNH: TÂM LÝ HỌC MÃ SỐ: 60.31.80 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC TÂM LÝ Người hướng dẫn khoa học: PGS .TS NGUYỄN HỒI LOAN HÀ NỘI - 2007
  3. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 5 1.1. Vài nét tổng quan lịch sử nghiên cứu vấn đề. 5 1.1.1. Nghiên cứu về động cơ 5 1.1.2. Nghiên cứu động cơ phạm tội và tội phạm về ma túy 6 1.2. Khái niệm về động cơ 7 1.2.1. Định nghĩa động cơ 7 1.2.2. Bản chất xã hội của động cơ 13 1.2.3. Đặc điểm của động cơ 14 1.2.3.1. Đặc trưng của động cơ là tính ý thức 14 1.2.3.2. Tính thứ bậc của động cơ 14 1.2.3.3. Tính hiệu lực của động cơ 15 1.2.3.4. Tính biến đổi của động cơ 15 1.2.4. Chức năng của động cơ 16 1.2.5. Phân loại động cơ 16 1.2.6. Cấu trúc của động cơ 16 1.2.7. Mối quan hệ giữa động cơ và ý thức 21 1.2.8. Động cơ và quá trình hình thành nhân cách 24 1.3. Một số khái niệm liên quan đến hành vi phạm tội 26 1.3.1. Tội phạm 26 1.3.2. Hành vi phạm tội 27 1.3.3. Người phạm tội 28 1.3.4. Nhân cách người phạm tội 29 1.4. Quá trình hình thành hành vi phạm tội 29 1.4.1. Nhu cầu, lợi ích 30 1.4.1.1. Nhu cầu 30 1.4.1.2. Lợi ích 30 1.4.2. Động cơ, mục đích, ý định phạm tội 31 1.4.2.1. Động cơ phạm tội 31 1.4.2.2. Mục đích phạm tội 32 1.4.2.3. Ý định phạm tội 32 1.4.3. Quyết định thực hiện hành vi phạm tội 33 1.4.4. Phương thức thực hiện hành vi phạm tội 34 1.4.5. Diễn biến tâm lý của người phạm tội sau khi thực hiện hành vi phạm tội 34 1.5. Ma túy và tội phạm mua bán các chất ma túy 35
  4. 1.5.1. Ma túy 35 1.5.2. Tội phạm mua bán các chất ma túy 38 1.5.3. Đặc tính hình sự của tội phạm mua bán các chất ma túy 39 1.5.3.1. Khái niệm đặc điểm hình sự của tội phạm về ma túy 39 1.5.3.2. Đặc điểm hình sự của tội phạm mua bán các chất ma túy 39 1.5.3.3. Phương thức, thủ đoạn phạm tội mua bán các chất ma túy 39 Chương 2: TỔ CHỨC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 42 2.1. Khái quát tình hình về tội phạm ma túy trong giai đoạn hiện nay 42 2.2. Vài nét về địa bàn nghiên cứu 44 2.3. Tổ chức nghiên cứu 45 2.3.1. Nội dung nghiên cứu 45 2.3.2. Tiến trình nghiên cứu 45 2.3.2.1. Tiến trình nghiên cứu lý luận và nghiên cứu thăm dò 45 2.3.2.2. Tiến trình khảo sát thực trạng 46 2.4. Phƣơng pháp nghiên cứu 49 2.4.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu 49 2.4.2. Phương pháp điều tra viết 49 2.4.2.1. Cách thức xây dựng phiếu hỏi và phiếu tham khảo ý kiến 49 2.4.2.2. Nội dung của phiếu hỏi và phiếu tham khảo ý kiến 50 2.4.3. Phương pháp quan sát 52 2.4.4. Phương pháp phỏng vấn sâu 52 2.4.5. Phương pháp thống kê toán học 52 Chương 3: PHÂN TÍCH KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 53 3.1. Một số đặc điểm về nhân thân của phạm nhân 53 3.1.1. Về lứa tuổi 53 3.1.2. Về trình độ văn hóa 53 3.1.3. Về điều kiện kinh tế 54 3.1.4. Về nghề nghiệp 55 3.1.5. Về tình trạng hôn nhân 56 3.1.6. Về hộ khẩu thường trú 56 3.1.7. Trường hợp bị bắt 57 3.2. Khái quát động cơ phạm tội mua bán các chất ma túy của phạm nhân ở trại giam Z30D - Cục V26 - Bộ Công an 58 3.3. Khía cạnh nội dung và khía cạnh lực của động cơ phạm tội mua bán các chất ma túy của phạm nhân ở trại giam Z30D 61 3.3.1. Khía cạnh nội dung của động cơ phạm tội mua bán các chất
  5. ma túy ủa phạm nhân 62 3.3.1.1. Những nhu cầu nổi trội của phạm nhân phạm tội mua bán các chất ma túy 62 3.3.1.2. Sự xuất hiện những nhu cầu nổi trội của phạm nhân phạm tội mua bán các chất ma túy 63 3.3.1.3. Lựa chọn phương thức thỏa mãn những nhu cầu của phạm nhân 72 3.2.2. Khía cạnh lực của động cơ phạm tội mua bán các chất ma túy 87 3.2.2.1. Quá trình đấu tranh động cơ của phạm nhân trước khi quyết định thực hiện hành vi phạm tội mua bán các chất ma túy . 87 3.2.2.2. Những biểu hiện về động cơ phạm tội mua bán các chất ma túy của phạm nhân ở trại giam Z30D 91 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 98 1. Kết luận 98 2. Kiến nghị 98 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 100 PHỤ LỤC
  6. PHẦN MỞ ĐẦU. 1. Lý do chọn đề tài. Trong thời gian qua, cùng với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội, những thành tựu mà chúng ta đã đạt được như: ổn định về chính trị, phát triển về kinh tế - xã hội, an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội được giữ vững thì mặt trái của nền kinh tế thị trường cũng tác động rất lớn và ảnh hưởng xấu đến đời sống xã hội, đó là những vấn đề về tội phạm và tệ nạn xã hội. Đặc biệt là tệ nạn ma túy, diễn ra hết sức phức tạp, đã và đang là vấn đề nhức nhối của cả xã hội. Hậu quả do tệ nạn ma túy đem lại về mặt kinh tế là vô cùng lớn đối với bản thân, gia đình và xã hội, bên cạnh đó kéo theo hàng loạt những loại tội phạm khác về trật tự an toàn xã hội cũng như sự suy thoái trầm trọng về đạo đức, nhân cách, sức khỏe của bản thân kẻ phạm tội. Trước tình hình đó, Nhà nước ta đã có những biện pháp như: điều chỉnh, bổ sung, sửa đổi một số điều trong Bộ luật hình sự; tăng cường sự quản lý của Nhà nước bằng các văn bản, qui phạm pháp luật; xử lý bằng những bản án nghiêm khắc với những kẻ phạm tội; đẩy mạnh công tác giáo dục, tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng Những năm gần đây, chúng ta đã phát hiện, khám phá và xử lý rất nhiều những vụ án về mua bán các chất ma túy, pháp luật đã xử lý những kẻ phạm tội bằng những bản án nghiêm khắc, trong số đó, rất nhiều tên đã phải chịu mức án cao nhất của khung hình phạt, đó là tử hình. Mặc dù vậy, tình hình tội phạm mua bán các chất ma túy không những chưa giảm mà còn có xu hướng gia tăng mạnh mẽ, xét trên mọi phương diện về: tính chất, mức độ, phương thức, thủ đoạn cũng như quy mô của hoạt động phạm tội. Vấn đề đặt ra là: tại sao người ta lại thực hiện việc mua bán ma túy dù biết rằng đó là phạm pháp và sẽ bị pháp luật trừng phạt rất nghiêm khắc? Cái gì khiến con người ta hành động tới mức bất chấp tất cả: chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực 1
  7. pháp luật, thậm chí bất chấp cả mạng sống của chính mình? Tâm lí học hoạt động đã chỉ ra rằng: bất cứ hoạt động có ý thức nào của con người diễn ra cũng đều do những động cơ nhất định thúc đẩy nhằm thỏa mãn nhu cầu hoạt động của mình, hoạt động phạm tội mua bán các chất ma túy cũng vậy. Do đó, theo chúng tôi, muốn trả lời câu hỏi trên chúng ta phải nghiên cứu xem những động cơ nào đã thúc đẩy phạm nhân phạm tội mua bán các chất ma túy? Những động cơ ấy được hình thành như thế nào, thúc đẩy phạm nhân thực hiện hành vi phạm tội ra sao? Nghiên cứu những vấn đề đó sẽ giúp chúng ta xác định được: mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, khung hình phạt, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội và dự báo khả năng tái phạm tội trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp phù hợp góp phần nâng cao hiệu quả của công tác phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn các loại tội phạm về ma túy nói chung và tội phạm mua bán các chất ma túy nói riêng. Vấn đề động cơ là vấn đề cơ bản, trung tâm trong Tâm lý học. Đây là lĩnh vực đã được nghiên cứu trên nhiều bình diện khác nhau, nhưng vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau, luôn là vấn đề thời sự trong Tâm lý học. Với những lý do trên tôi chọn đề tài nghiên cứu: Động cơ mua bán các chất ma túy của phạm nhân ở trại Z30-D thuộc Cục V26- Bộ Công an, làm luận văn tốt nghiệp của mình. Bản thân tôi xác định đây là một đề tài phù hợp với chuyên môn cũng như khả năng của mình, đồng thời cũng thấy rằng nó hết sức có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn đối với công tác giảng dạy, học tập, nghiên cứu môn Tâm lí học tội phạm trong các trường CAND, trong công tác quản lý, giáo dục và cải tạo phạm nhân, cũng như góp phần tích cực và hiệu quả vào công tác phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn các loại tội phạm, tệ nạn xã hội nói chung, tội phạm về ma túy nói riêng trong giai đoạn hiện nay. 2. Mục đích nghiên cứu. 2
  8. Nghiên cứu quá trình hình thành động cơ phạm tội thông qua phân tích khía cạnh nội dung và khía cạnh lực của động cơ phạm tội mua bán các chất ma túy ở phạm nhân. Trên cơ sở đó đưa ra những đề xuất, kiến nghị nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, phòng ngừa, ngăn chặn tệ nạn ma túy ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. 3. Đối tƣợng nghiên cứu. Một số động cơ chủ yếu thúc đẩy hành vi mua bán các chất ma túy của phạm nhân. 4. Khách thể nghiên cứu. 300 phạm nhân phạm tội mua bán các chất ma túy hiện đang thi hành án phạt tù và tham khảo ý kiến của một số cán bộ quản giáo, cán bộ giáo dục - hồ sơ, cán bộ trinh sát. 5. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu. Trong đề tài này chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu một số động cơ gắn với những nhu cầu nổi trội và sự lựa chọn phương thức thỏa mãn những nhu cầu đó thông qua phân tích quá trình hình thành hành vi phạm tội của phạm nhân phạm tội mua bán các chất ma túy ở trại giam Z30D – Cục V26 – Bộ Công an. 6. Giả thuyết nghiên cứu. Có nhiều động cơ khác nhau thúc đẩy phạm nhân ở trại giam Z30D phạm tội mua bán các chất ma túy, trong đó động cơ xuất phát từ lý do túng quẫn và bị nghiện là chủ yếu. 7. Nhiệm vụ nghiên cứu. 7.1. Nghiên cứu lý luận. Tìm hiểu những vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài làm cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu. 7.2. Nghiên cứu thực tiễn. 3
  9. - Nghiên cứu thực trạng quá trình hình thành động cơ thúc đẩy phạm nhân phạm tội mua bán các chất ma túy đang thi hành án phạt tù ở trại giam Z30D. - Trên cơ sở đó đưa ra những đề xuất, kiến nghị nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của công tác phòng ngừa, đấu tranh và ngăn chặn loại tội phạm này. 8. Các phƣơng pháp nghiên cứu. Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng phối hợp những phương pháp sau: - Phương pháp nghiên cứu tài liệu. - Phương pháp quan sát. - Phương pháp phỏng vấn sâu. - Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi. - Phương pháp thống kê toán học. 4
  10. Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI. 1.1. Vài nét tổng quan lịch sử nghiên cứu vấn đề. 1.1.1.Nghiên cứu về động cơ. Động cơ hoạt động là vấn đề vô cùng phức tạp trong đời sống tâm lý của con người. Việc nghiên cứu động cơ đã được các nhà tâm lý học, các nhà khoa học khác nghiên cứu từ rất lâu. Một số nhà tâm lý học phương Tây như: ; S.Freud; W.McDougall; I.Braun; G.Murphy; S.H.Schwartz; W.Bilsky đã đi sâu nghiên cứu những lý luận cơ bản về khái niệm động cơ. Một số nghiên cứu về động cơ thành đạt của H.A.Murray; McClelland; Janes V.McConnell, các nghiên cứu này chỉ ra rằng động cơ thành đạt là động cơ thôi thúc con người vươn tới sự điêu luyện, thành thạo, đạt kết quả cao nhất trong thực hiện công việc Ở Liên Xô (cũ), vấn đề động cơ đã được nhiều tác giả bàn đến, đó là: X.L.Rubinstêin; A.N.Lêonchiev; A.V.Pêtrôpxki; A.R.Luria , ở các nước khác như: Đức, Tiệp Khắc, Ba Lan cũng có nhiều công trình nghiên cứu về động cơ như: động cơ học tập, động cơ chọn nghề, động cơ tự khẳng định Trong những năm gần đây ở nước ta đã chú ý nghiên cứu về động cơ: động cơ học tập, động cơ chọn nghề được thể hiện trong nhiều cuốn sách, bài báo, kỷ yếu, hội nghị chuyên ngành của các nhà tâm lý học như: Nguyễn Ánh Tuyết, Trần Trọng Thủy, Nguyễn Quang Uẩn, Phạm Tất Dong, Nguyễn Ngọc Bích và một số công trình nghiên cứu của các tác giả như: Phạm Thị Nguyệt Lãng, Trần Thế Linh, Phan Thị Tố Oanh, Đoàn Văn Băng, Nguyễn Thị Bích Hồng nhưng chủ 5
  11. yếu là trong lĩnh vực tâm lý - giáo dục, nhiều tác giả đi sâu nghiên cứu động cơ của hoạt động nhận thức, các quá trình sư phạm Trong thời gian khoảng hơn 10 năm trở lại đây, đã có một số nghiên cứu đề cập một cách gián tiếp hoặc trực tiếp đến động cơ thành đạt của thanh niên, sinh viên và người lao động. Chẳng hạn kết quả của Đề tài cấp nhà nước KX- 07 cho thấy rằng, định hướng giá trị nghề nghiệp của người Việt Nam đầu những năm 90 của thể kỷ XX có phần thực dụng và an phận, “thu nhập cao” và “nghề ổn định suốt đời” được coi trọng, còn giá trị “có cơ hội làm nên sự nghiệp lớn” bị đánh giá thấp [22; 251]. 1.1.2. Nghiên cứu động cơ phạm tội và tội phạm ma túy. Trong một số giáo trình về tâm lý học pháp lý và tâm lý học tội phạm, một số tác giả như: Trương Công Am, Nguyễn Hồi Loan, Đặng Thanh Nga có đề cập và phân tích về động cơ phạm tội nói chung và thống nhất rằng: động cơ phạm tội là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội. Trong cuốn sách chuyên khảo: “Mại dâm, ma túy, cờ bạc, tội phạm thời hiện đại” của tác giả Nguyễn Xuân Yêm đã nêu lên hàng loạt những nguyên nhân và điều kiện của các tội phạm về ma túy ở Việt Nam, trong đó khẳng định: lợi nhuận do sản xuất và buôn bán ma túy ngày càng cao là nguyên nhân, động lực thúc đẩy gia tăng tội phạm về ma túy. Trong những năm gần đây có một số đề tài cấp Bộ, luận án tiến sỹ và luận văn thạc sỹ luật học trong ngành Công an nghiên cứu về tội phạm ma túy như: - “Ma túy trong thanh thiếu niên tại Thành phố Hồ Chí Minh. Thực trạng và giải pháp phòng chống”. Đề tài khoa học cấp Bộ, 2005. - “Phát hiện và điều tra tội phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy của lực lượng cảnh sát nhân dân”. (Luận án tiến sỹ luật học, 2000) của Trần Văn Luyện. - “Hoạt động phòng ngừa các tội phạm ma túy của lực lượng cảnh sát nhân dân”. (Luận án tiến sỹ luật học, 2002) của Vũ Quang Vinh. 6
  12. - “Vận dụng đặc điểm tâm lý tội phạm phục vụ cho hoạt động điều tra, khám phá tội phạm về ma túy”. (Luận văn thạc sỹ luật học, 2006) của Hoàng Đức Mạnh. Nói chung, các đề tài, luận án, luận văn trên cũng đã ít nhiều đề cập đến động cơ phạm tội về ma túy nhưng dưới góc độ luật học và tội phạm học nhằm phục vụ cho công tác phát hiện, điều tra, khám phá và xử lý các loại tội phạm về ma túy chứ chưa nghiên cứu động cơ một cách hệ thống theo cấu trúc của nó dưới góc độ tâm lý học. 1.2. Khái niệm về động cơ. 1.2.1. Định nghĩa động cơ. Động cơ là thuật ngữ chung cho tất cả các quá trình có liên quan đến việc khởi sự, hướng tới và duy trì các hoạt động thể lực và tâm lý. Động cơ bao hàm các cơ chế nội tại liên quan đến sự thích hoạt động này hơn hoạt động khác. Người có động cơ mạnh đi tìm và thực hiện các hành động này chứ không phải các hành động khác, thực hiện các ứng xử và hoàn thiện các kỹ năng cần để đạt tới mục tiêu. Từ motivation (động cơ) xuất phát từ từ Latinh movere có nghĩa là chuyển động. Động cơ không thể nhìn thấy được, mặt khác, ứng xử được quan sát thấy. Để lý giải những thay đổi ứng xử có thể quan sát thấy, ta phải suy đoán hoặc dựa vào những giả định đã học hỏi được về các biến thái tâm lý và sinh lý cơ bản đã ảnh hưởng những thay đổi đó. Những suy đoán này về các mục tiêu, các nhu cầu, các mong muốn, các ý định và các mục đích của một cá nhân được chính thức hóa thành khái niệm động cơ. Thuật ngữ động cơ (motive) chỉ các nhu cầu tâm lý và xã hội được cho là tập nhiễm thông qua trải nghiệm cá nhân. Các nhà tâm lý học đã đưa ra vấn đề là liệu động cơ xuất phát từ cá nhân, những phẩm chất nội tại của cá nhân hay là đáp ứng với các tình huống từ bên ngoài - những mong đợi về mặt văn hóa và những áp lực xã hội. Trong tâm lý học, để giải quyết vấn đề nghiên cứu cơ bản và xác định 7
  13. những thành phần tâm lý thúc đẩy hành động của con người trong việc giải quyết những nhiệm vụ đối với thực tiễn thì vấn đề động cơ luôn được quan tâm nghiên cứu dưới những góc độ khác nhau. Trường phái “tâm lý học hành vi” do nhà tâm lý học J.Watson khởi xướng đã đề cập nghiên cứu hành vi con người trên cơ sở sơ đồ: kích thích - phản ứng “S - R” (Stimular - Raection), xem hành vi con người được hình thành trên cơ sở những kích thích trực tiếp từ môi trường. Trường phái này đã quy tất cả những vấn đề về tâm lý, ý thức bên trong mỗi cá nhân dưới dạng hành vi cũng giống như các phản ứng của cơ thể trả lời các kích thích từ môi trường. Như vậy, theo quan niệm này có thể thấy rằng: Thứ nhất: cái tạo nên hành vi, thúc đẩy hành vi (phản ứng) nếu xét về nguyên nhân bên ngoài là những kích thích từ môi trường bên ngoài. Thứ hai: cái tạo nên hành vi từ môi trường bên trong là những kích thích từ môi trường bên trong, là những hành vi tâm lý dưới dạng suy nghĩ, ngôn ngữ, tư tưởng Ở đây có thể thấy rằng chủ nghĩa hành vi đã coi cái thúc đẩy hành vi, nguyên nhân khởi phát hành vi là cái đồng thời vừa là kích thích, vừa là phản ứng. Động cơ của hành vi chính là những hành vi kích thích. Trường phái “Phân tâm học” của nhà tâm lý học người Áo, S.Freud lại đi giải quyết nguyên nhân của hành động với một cách tiếp cận khác, ông cho đó là những năng lượng tinh thần sẵn có, gắn liền với các dạng bản năng nguyên thủy của con người nằm trong thế giới vô thức. Trong tất cả những yếu tố tạo nên năng lượng bẩm sinh đó, năng lượng tính dục là cơ bản và quan trọng nhất, được gọi là “Libido”. Theo ông, đây chính là động cơ chủ yếu trong hoạt động của con người. Lý thuyết về động cơ của con người của A.Maslow cắt nghĩa cả những hành động làm giảm căng thẳng lẫn hành động làm tăng căng thẳng. A.Maslow đối lập khái niệm động cơ do thiếu hụt, trong đó con người tìm kiếm để phục hồi thế cân 8
  14. bằng sinh lý hoặc tâm lý với khái niệm động cơ muốn thăng tiến, trong đó con người làm nhiều hơn so với điều chỉ để làm thiếu hụt là vì con người tìm kiếm nhằm thể hiện đầy đủ nhất tiềm năng của mình. Người có động cơ muốn thăng tiến có thể chấp nhận sự bấp bênh, sự căng thẳng và thậm chí sự đau đớn nếu họ nhìn thấy đó là một cách thể hiện đầy đủ tiềm năng của mình và là một cách hoàn thành các mục tiêu. Theo lý thuyết của A.Maslow thì các nhu cầu cơ bản của chúng ta hình thành nên một hệ thứ bậc các nhu cầu, các nhu cầu bẩm sinh được sắp xếp trong một chuỗi các giai đoạn từ nguyên thủy đến tiến bộ. Các nhu cầu sinh học cơ bản nằm ở phần đáy của hệ này, chúng phải được thỏa mãn trước khi những nhu cầu khác được khởi sự tác động. Khi các nhu cầu sinh học bị thúc ép, những nhu cầu khác phải gạt sang bên và không chắc có ảnh hưởng gì đến hoạt động của ta, song nếu chúng được thỏa mãn một cách hợp lý thì những nhu cầu ở tầm gần đó – những nhu cầu an toàn - sẽ thúc đẩy chúng ta. Khi không còn bận tâm đến nỗi nguy hiểm nữa thì ta bị thúc đẩy bởi các nhu cầu gắn bó, nhu cầu được quy thuộc, được sát nhập với những người khác, nhu cầu yêu thương và được yêu thương. Nếu nhu cầu dinh dưỡng và an toàn được thỏa mãn và nếu cảm thấy một ý thức quy thuộc về mặt xã hội, thì ta chuyển lên các nhu cầu tự trọng. Chúng ta bị thúc đẩy bởi các nhu cầu mạnh mẽ về nhận thức muốn biết quá khứ của mình để hiểu những bí ẩn của cuộc sống hiện tại và để đoán trước tương lai. Ở tầm tiếp theo của hệ thứ bậc nhu cầu của A.Maslow là ham muốn của con người với cái đẹp, cái trật tự dưới dạng các nhu cầu thẩm mỹ, làm nảy sinh phương diện sáng tạo của con người .Đối với A.Maslow, sức mạnh trung tâm của động cơ đối với con người là nhu cầu lớn lên mang tính bẩm sinh và mong muốn thể hiện những tiềm năng cao nhất của mình. Trong nghiên cứu về quá trình phát triển tâm lý trẻ em thông qua hành vi học tập, nhà tâm lý học người Thụy Sỹ, J.Piaget cho rằng: Tính định hướng có chọn lọc của hành vi tạo thành bản chất của hiện tượng được xác định là động cơ. Động cơ chính là cái thúc đẩy, định hướng cho hành vi [22; 210]. 9
  15. Ronald E.Smith định nghĩa động cơ như là một quá trình bên trong có ảnh hưởng đến hướng, tính bền vững và sức mạnh của hành vi có mục đích [22; 210]. Maurice Reuchlin cho rằng nghiên cứu động cơ chính là phân tích các yếu tố gây ra hoạt động, hướng nó vào mục đích nào đó, cho phép nó kéo dài nếu chưa đạt được mục đích hoặc ngưng lại đúng lúc và phân tích các cơ chế cắt nghĩa tác dụng của các yếu tố đó [22; 211]. Trong Từ điển Tâm lý học của Raymond. J.Corsini (Anh), động cơ được xem là cái thúc đẩy, nuôi dưỡng và định hướng các hành động tâm lý hay sinh lý. Động cơ bao gồm các lực thúc đẩy nội tâm (bên trong) như các xung năng, các hứng khởi và mong muốn cần thiết trong quá trình này [22; 210]. Tóm lại: Quan niệm của các nhà tâm lý học phương Tây có khuynh hướng cho rằng cái gì kích thích con người hành động, hoạt động thì đều gọi là động cơ và nó gắn liền với hành động bản năng, còn gọi là động cơ bản năng, hay nói cách khác là sinh vật hóa động cơ. Do đề cao cái sinh học nên theo họ, yếu tố xã hội chỉ bàn theo hướng là yếu tố kích thích để các đặc điểm tâm lý triển khai ra mà thôi. Trên cơ sở xem động cơ là cái thúc đẩy, định hướng cho hoạt động của mỗi cá nhân, tâm lý học Xô viết đã đưa vấn đề động cơ hoạt động lên một tầm cao mới trong nghiên cứu tâm lý học. Bắt đầu từ L.X.Vưgôtxki, sau đó là X.L.Rubinstêin và đặc biệt là A.N.Leonchiev đã nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống về động cơ hoạt động của con người. Trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng, coi con người là một thực thể có ý thức, có ngôn ngữ và là chủ thể của hoạt động xã hội, hoạt động cải tạo thế giới, A.N.Leonchiev đã cho rằng động cơ là thành phần tâm lý cơ bản, thúc đẩy và định hướng cho hoạt động của con người. Tuy nhiên, không phải tất cả những gì kích thích con người hoạt động đều là động cơ mà phải là cái gì đó được con người ý thức rất đầy đủ thì mới có khả năng trở thành động cơ, động cơ là một phạm trù của ý thức chứ không phải của vô thức. Động cơ về thực chất là 10
  16. những nhu cầu được ý thức hóa, chủ thể hóa về đối tượng trở thành động lực thúc đẩy quá trình hoạt động nhằm chiếm lĩnh đối tượng của con người. Như vậy, động cơ phải gắn bó chặt chẽ với nhu cầu và phải có quá trình nhu cầu chuyển hóa thành động cơ, nhu cầu phát triển đến mức độ nào đó sẽ trở thành động cơ. Khi gặp đối tượng của nhu cầu, con người ý thức rất đầy đủ, lúc đó nhu cầu có sức mạnh tâm lý kích thích con người hành động (hay tạo ra một hành động có hướng) kích thích con người hoạt động để thỏa mãn thì lúc đó chuyển hóa thành động cơ (nhưng nhu cầu không biến mất). Theo B.Ph.Lomov, động cơ là mặt chủ quan của nhu cầu nên động cơ là một hiện tượng tinh thần (chứ không phải hiện tượng vật chất). Như vậy, phải đặt động cơ trong mối quan hệ với nhu cầu, mà nhu cầu phải có đối tượng. Theo A.N.Leonchiev, nhu cầu bắt đầu xuất hiện từ trạng thái thiếu thốn, nó phải có quá trình phát triển bộc lộ đối tượng của nhu cầu và càng ngày càng hình thành đầy đủ đối tượng nhu cầu trong đầu. Quan trọng là quá trình chuyển hóa từ nhu cầu trần trụi (chưa có nội dung tâm lý) sang nhu cầu tâm lý (có đối tượng) ngày càng đầy đủ thành sức mạnh tâm lý thúc đẩy con người hành động (phải có hành động), đó là động cơ. Quá trình hình thành động cơ diễn ra trong suốt quá trình hoạt động. Một động cơ cụ thể hoàn thiện khi hành động, hoạt động kết thúc. Đương nhiên, không phải bất kỳ sự kích thích, thúc đẩy nào cũng là động cơ. Trong hoạt động có rất nhiều kích thích, nhưng không phải bất cứ kích thích nào cũng trở thành động cơ. Bắt đầu từ trạng thái thiếu thốn (chưa chỉ ra đối tượng là cái gì) xuất hiện ở con người. Vấn đề là: cái gì có thể giải quyết trạng thái thiếu thốn đó? Trạng thái thiếu thốn làm cho con người suy nghĩ, tưởng tượng (hoạt động trí óc) và làm xuất hiện biểu tượng của nhu cầu (hoạt động bắt đầu từ đó). Như vậy cũng có quá trình chuyển hóa từ trạng thái thiếu thốn thành nhu cầu thực sự về mặt tâm lý (phải có đối tượng cụ thể - đây là biểu tượng về nhu cầu), đó là nhu cầu đích thực. Lúc đó, biểu tượng về đối tượng của nhu cầu có sức mạnh tâm lý thúc đẩy người ta hoạt động, chính là động cơ được hình thành nhằm để 11
  17. hiện thực hóa cái “đối tượng của nhu cầu” thành sản phẩm của hoạt động - chính là cái có khả năng thỏa mãn nhu cầu. Như vậy, không phải đối tượng nào cũng có thể trở thành động cơ. Nếu nhu cầu thỏa mãn sẽ làm xuất hiện xúc cảm dương tính, nếu nhu cầu không được thỏa mãn sẽ làm xuất hiện xúc cảm âm tính. Một hoạt động của con người được tổ chức là do định hướng giá trị (thước đo, hệ thống và thang giá trị) - đây chính là căn cứ để cá nhân tổ chức hoạt động của mình để hướng tới một giá trị nào đó cũng chính là do động cơ thúc đẩy hoạt động. Nói đến nhân cách, cuối cùng là nói đến giá trị xã hội của con người, cho nên, động cơ là hiện tượng tinh thần (sức mạnh tinh thần), là hiện thân của vật chất. Do đó, nếu không làm xuất hiện biểu tượng của đối tượng thì động cơ sẽ không xuất hiện và lúc đó hoạt động cũng không thể diễn ra được. Khi chủ thể tham gia vào hành động, hoạt động sẽ xuất hiện xúc cảm dương tính hoặc âm tính. Đồng thời, cảm xúc cũng chính là kết quả của ước ao, mong muốn của con người nên ước ao, mong muốn của con người cũng có thể trở thành động cơ thúc đẩy con người hành động. Xúc cảm, tình cảm phụ thuộc vào hoạt động. Hành động bị chi phối bởi động cơ nào của hoạt động thì sẽ chi phối xúc cảm, tình cảm. Như vậy, theo A.N.Leonchiev nói đến động cơ thì nhất thiết phải nói đến nhu cầu, hay nói cách khác nghiên cứu động cơ không thể tách rời khỏi nhu cầu. Động cơ là phản ánh chủ quan về đối tượng có khả năng thỏa mãn nhu cầu. Động cơ có chức năng thúc đẩy, định hướng cho con người hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu khi nhu cầu được nhận thức rất đầy đủ, có ý thức, trong thời điểm đó động cơ xuất hiện. Hoạt động có quá trình hình thành, trong hoạt động có rất nhiều kích thích, nhưng không phải bất cứ kích thích nào cũng trở thành động cơ. Từ những quan niệm trên, trên tinh thần của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chúng tôi cho rằng cách tiếp cận và nghiên cứu động cơ của các nhà tâm lý học 12
  18. Xôviết là đúng đắn hơn cả. Đây chính là cơ sở khoa học đúng dắn để giải quyết vấn đề nguyên nhân tâm lý của hoạt động. Khi nghiên cứu, xem xét con người phải trên cơ sở con người là một thực thể sinh vật - xã hội, là chủ thể cải tạo thế giới, do đó nghiên cứu động cơ của con người phải trên cơ sở nền tảng của hoạt động có ý thức, phải thấy được sự khác biệt về chất trong hoạt động của con người với những hành vi bản năng mang tính sinh vật, hay con người với vai trò là một chủ thể tích cực hoạt động để cải tạo thế giới chứ không phải là những cá thể thụ động trước hoàn cảnh. Như vậy, khái niệm động cơ phải thể hiện được những điểm cơ bản sau: Thứ nhất: Động cơ phải gắn liền với đối tượng của nhu cầu, hay nói cách khác, động cơ chính là nhu cầu được chủ thể ý thức, được phản ánh vào trong nhận thức làm cơ sở định hướng cho hoạt động của con người. Thứ hai: Động cơ là nguyên nhân tâm lý, là động lực thúc đẩy con người tích cực hoạt động nhằm chiếm lĩnh đối tượng, thỏa mãn nhu cầu. Thứ ba: Sự tồn tại của con người trong sự đa dạng của các mối quan hệ xã hội, trong sự đa dạng phong phú và có thứ bậc của hệ thống nhu cầu. Vì vậy động cơ cũng tồn tại trong sự đa dạng theo hệ thống và có thứ bậc. Một hoạt động có thể có nhiều động cơ thúc đẩy, trong đó có một động cơ đóng vai trò chủ đạo. Tùy vào mỗi cá nhân tham gia hoạt động mà sự cấu kết trong hệ thống động cơ thúc đẩy, định hướng khác nhau. Điều này thể hiện tính phong phú, đa dạng trong hệ thống động cơ ở mỗi cá nhân, tạo nên giá trị xã hội của nhân cách. Từ đây, để làm cơ sở lý luận cho luận văn, chúng tôi đưa ra định nghĩa về động cơ như sau: Động cơ là động lực thúc đẩy, định hướng cho hoạt động của con người nhằm thỏa mãn những nhu cầu đa dạng của cuộc sống. 1.2.2. Bản chất xã hội của động cơ. Động cơ của con người mang bản chất xã hội. Các động cơ nhằm thỏa mãn nhu cầu tinh thần, nhận thức, tình cảm, giao lưu là đặc trưng nổi bật của con 13
  19. người. Các động cơ đặc trưng ở con người nảy sinh, hình thành trong quá trình hoạt động của chủ thể trong các mối quan hệ mà nó tham gia vào chứ không phải là một cái gì đó có sẵn từ lúc đứa trẻ mới sinh ra. Hầu hết các nhà tâm lý học đều khẳng định rằng hệ thống động cơ của con người được hình thành trên cơ sở hoạt động và giao tiếp của chủ thể trong hệ thống các quan hệ xã hội, các nhóm xã hội nhất định mà ở đó chủ thể thực hiện vai trò, vị thế của mình. Kể cả những động cơ đáp ứng những nhu cầu tự nhiên, bản năng thì ở con người, những động cơ ấy cũng có bản chất lịch sử - xã hội. Sở dĩ như vậy là vì kể cả những nhu cầu tự nhiên của con người cũng có nội dung và phương thức thỏa mãn đều là sản phẩm phát triển của xã hội do con người sáng tạo ra, phụ thuộc vào điều kiện sống, đặc biệt là lối sống - văn hóa đặc trưng cho mỗi nhóm người, mỗi dân tộc, phụ thuộc vào trình độ phát triển, kinh tế xã hội của thời đại họ đang sống và đồng thời phụ thuộc vào quá trình giáo dục mà họ đang được thụ hưởng. Bộ mặt tâm lý xã hội của cá nhân đều thể hiện tập trung trong động cơ. Tất cả các thành tố nhân cách đều có quan hệ chặt chẽ với động cơ chung của cuộc sống, cũng như động cơ cụ thể của từng hành động. 1.2.3. Đặc điểm của động cơ. 1.2.3.1. Đặc trưng của động cơ là tính ý thức. Ý thức là phản ánh tâm lý cao nhất chỉ riêng con người mới có, phản ánh bằng ngôn ngữ, là khả năng con người hiểu được các tri thức mà con người tiếp thu được. Để một nhu cầu trở thành động cơ thúc đẩy hoạt động thì trước hết nó phải được đối tượng hóa (tức là đối tượng của nhu cầu phải được chủ thể ý thức một cách đầy đủ), nghĩa là chủ thể phải hình dung ra đối tượng nào có thể có khả năng thỏa mãn nhu cầu của mình. Nói cách khác, chủ thể phải xây dựng được một biểu tượng cụ thể về nó, khi đó nhu cầu mới có chức năng thúc đẩy, chức năng hướng dẫn hoạt động - tức là trở thành động cơ. “Sự ý thức được các động cơ là một hiện tượng có sau (thứ phát) chỉ nảy sinh ở mức độ nhân cách và thường xuyên được tái tạo trong quá trình phát triển 14
  20. nhân cách” [20; 239]. Các động cơ chỉ lộ ra trước ý thức một cách khách quan bằng cách phân tích hoạt động, phân tích động thái hoạt động, còn trong chủ quan thì động cơ chỉ thể hiện dưới dạng gián tiếp của nó, tức là thông qua các hình thức trải nghiệm như: mong ước, ý muốn, nguyện vọng đạt tới mục tiêu. 1.2.3.2. Tính thứ bậc của động cơ. Một hoạt động bao giờ cũng do nhiều động cơ thúc đẩy, chi phối. Theo A.N.Leonchiev, hệ thống động cơ của nhân cách bao gồm động cơ tạo ý và động cơ kích thích hành động. Động cơ nào cũng thúc đẩy hành động, nhưng có những động cơ trong khi thúc đẩy hành động thì đồng thời có ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành và phát triển nhân cách. Động cơ này được gọi là tạo ý, còn động cơ kích thích thì chỉ có chức năng thúc đẩy hành động. Sự phân chia chức năng động cơ của hoạt động tạo nên tính thứ bậc của động cơ. Quan hệ thứ bậc của động cơ cũng hết sức tương đối, có thể trong trường hợp này một động cơ nào đó có chức năng tạo ý, song trong trường hợp khác lại có chức năng kích thích. Động cơ tạo ý bao giờ cũng chiếm vị trí thứ bậc cao, mặc dù có thể không trực tiếp có tính chất gợi cảm xúc. 1.2.3.3. Tính hiệu lực của động cơ. A.N.Leonchiev chia động cơ ra làm hai mức độ: động cơ chỉ được ý thức và động cơ có tác dụng thực tế (tức là động cơ có hiệu lực). Động cơ chỉ được ý thức thì sức mạnh thúc đẩy của nó còn ở dạng tiềm tàng; động cơ có tác dụng thực tế thì có sức mạnh kích thích hoạt động. Độ hiệu lực của động cơ thể hiện ở tính ưu thế, độ mạnh, độ bền của động cơ và ảnh hưởng của động cơ đến thái độ, kết quả hành động. Độ mạnh của động cơ được biểu hiện trực tiếp ở mức độ tích cực vượt qua khó khăn trong khi hoạt động. Độ bền (tương đối) của động cơ là khả năng lặp lại thường xuyên, liên tục trong nhiều tình huống hoạt động. Mức độ thúc đẩy hoạt động mạnh hay yếu, bền vững hay không phụ thuộc vào độ hiệu lực của động cơ. 15