Luận văn Định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_dinh_toi_danh_trong_truong_hop_pham_nhieu_toi_theo.pdf
Nội dung text: Luận văn Định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐÀO THỊ KIỀU VÂN ĐỊNH TỘI DANH TRONG TRƯỜNG HỢP PHẠM NHIỀU TỘI THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2017
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐÀO THỊ KIỀU VÂN ĐỊNH TỘI DANH TRONG TRƯỜNG HỢP PHẠM NHIỀU TỘI THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự Mã số: 60.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN THỊ QUANG VINH HÀ NỘI - 2017
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH TỘI DANH TRONG TRƯỜNG HỢP PHẠM NHIỀU TỘI 6 1.1. Khái niệm và các trường hợp phạm nhiều tội 6 1.2. Khái niệm, ý nghĩa của định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội 14 Chương 2: THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH TRONG TRƯỜNG HỢP PHẠM NHIỀU TỘI TẠI TỈNH ĐỒNG NAI 23 2.1. Khái quát hoạt động định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội tại tỉnh Đồng Nai 23 2.2. Thực tiễn định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội thực tế tại tỉnh Đồng Nai 29 2.3. Thực tiễn định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội tư tưởng tại tỉnh Đồng Nai 45 Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ĐỊNH TỘI DANH ĐÚNG TRONG TRƯỜNG HỢP PHẠM NHIỀU TỘI 58 3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện Bộ luật Hình sự và nâng cao hiệu quả định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội 58 3.2. Kiến nghị hoàn thiện Bộ luật Hình sự quy định về định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội 64 3.3 Giải pháp nâng cao hiệu quả định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội 66 KẾT LUẬN 72 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 75
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật Hình sự BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự CTTP : Cấu thành tội phạm HĐXX : Hội đồng xét xử TAND : Tòa án nhân dân TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao TNHS : Trách nhiệm hình sự VKSND : Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao XHCN : Xã hội chủ nghĩa
- DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1: Thống kê số liệu xét xử án hình sự trên địa bàn tỉnh Đồng Nai 23 Bảng 2.2: Thống kê số bị cáo phạm nhiều tội phổ biến trên địa bàn tỉnh Đồng Nai 27 Bảng 2.3: Thống kê kết quả xét xử phúc thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh đối với Tòa án nhân dân cấp huyện của tỉnh Đồng Nai 43
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay, việc nghiên cứu để làm sáng tỏ về mặt lý luận chế định nhiều tội phạm của Luật Hình sự Việt Nam có ý nghĩa khoa học và thực tiễn. Chế định nhiều (đa) tội phạm là một vấn đề rất phức tạp trong khoa học luật hình sự cũng như trong thực tiễn hoạt động áp dụng pháp luật. Tuy nhiên, Bộ luật hình sự hiện hành vẫn chưa ghi nhận chính thức định nghĩa pháp lý của khái niệm nhiều tội phạm. Việc xác định trường hợp nhiều tội phạm làm nảy sinh một loạt vấn đề pháp lý có tính chất đặc biệt ở tất cả các giai đoạn tố tụng của vụ án. Trong số những vấn đề đó thì việc định tội danh đối với trường hợp nhiều tội phạm có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Trường hợp phạm nhiều tội với tính chất là một dạng của chế định nhiều (đa) tội phạm giữ một vị trí quan trọng trong lý luận Luật Hình sự và thực tiễn xét xử ở nước ta. Từ trước đến vấn đề phạm nhiều tội cũng chưa được sự điều chỉnh chính thức bằng một quy phạm riêng biệt nào trong Phần chung của BLHS Việt Nam mà thuật ngữ “phạm nhiều tội” chỉ được đề cập trong tên gọi của một điều luật “Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội” tại BLHS năm 1985 trước đây và Điều 50 BLHS năm 1999 (hiện hành). Trong lý luận Luật Hình sự Việt Nam từ trước đến nay chưa được quan tâm một cách thỏa đáng, chưa có một công trình nghiên cứu nào đưa ra một cách chính thức, đầy đủ khái niệm phạm nhiều tội.Điều đó đương nhiên ảnh hưởng đến quan điểm, nhận thức trong hoạt động lập pháp và thực tiễn hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Chính vì vậy, việc nghiên cứu để đảm bảo nhận thức thống nhất, đúng đắn trong khoa học và thực tiễn bản chất pháp lý của trường hợp này để từ đó xác định đường lối xử lý phù hợp có tác dụng tích cực trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Trên thực tế, người thực hiện hành vi phạm tội thuộc trường hợp phạm nhiều tội cũng có nhiều dạng khác nhau. Chủ thể có lỗi khi thực hiện tội phạm có thể bằng một hành vi hoặc nhiều hành vi xâm phạm đến nhiều khách thể khác nhau được luật hình sự bảo vệ. Việc nhận diện trong trường hợp phạm nhiều tội mà các tội phạm 1
- khác nhau lại liên quan mật thiết với nhau trong thực tế còn nhiều vấn đề cần đặt ra để giải quyết vì không phải khi chủ thể thực hiện nhiều hành vi mà được BLHS quy định thì đều là phạm nhiều tội và ngược lại không phải thực hiện một hành vi là thuộc trường hợp phạm tội đơn lẻ. Việc giải quyết đúng đắn vấn đề đó về mặt nhận thức lý luận và nhận thức lập pháp sẽ có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong thực tiễn điều tra, truy tố và xét xử. Tỉnh Đồng Nai là một trong những điểm nóng của vùng Đông Nam Bộ về tội phạm nói chung, cũng như phạm nhiều tội nói riêng. Tình hình tội phạm trên địa bàn luôn diễn biến phức tạp, tình hình phạm nhiều tội, phạm tội nhiều lần, tái phạm, tái phạm nguy hiểm gia tăng đối với một số tội, nhóm tội trong những năm gần đây và ngày càng trở nên phổ biến hơn. Qua đánh giá kết quả thực tiễn hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Nai thời gian qua cho thấy việc giải quyết các vụ án trong trường hợp phạm nhiều tội còn gặp khó khăn và có nhiều sai sót xảy ra, đặc biệt là vấn đề định tội danh và quyết định hình phạt. Trước sự đòi hỏi mới của cuộc đấu tranh phòng, ngừa tội phạm, việc nghiên cứu chế định phạm nhiều tội trong Luật Hình sự Việt Nam hiện nay có ý nghĩa quan trọng không chỉ về mặt lý luận mà còn là yêu cầu của thực tiễn áp dụng nhằm đưa ra những giải pháp hoàn thiện chế định này trong BLHS Việt Nam. Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: “Định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai” có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn đối với ngành TAND nói riêng và các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung trong tình hình hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Định tội danh đối với trường hợp phạm nhiều tội là vấn đề khó trong thực tiễn áp dụng pháp luật và chưa được nghiên cứu nhiều.Trong khoa học luật hình sự tuy đã có một số bài viết về vấn đề này nhưng chủ yếu vẫn ở mức độ một số bài viết trên các tạp chí khoa học nghiên cứu về một vài khía cạnh của vấn đề như “Về một số trường hợp phạm nhiều tội” của TS. Nguyễn Ngọc Hoà (Tạp chí Toà án nhân dân số 2/1984); “Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội” của PGS. 2
- TS Võ Khánh Vinh và Nguyễn Văn Hoàn (Tạp chí Luật học số 3/1996); “Trường hợp phạm nhiều luật trong luật hình sự Việt Nam” của PGS.TS Nguyễn Ngọc Hoà (Tạp chí Luật học năm 2003) v.v Một số ít công trình đã viết thành sách: Nghiên cứu về chế định đa (nhiều) tội phạm (trong sách Các nghiên cứu chuyên khảo của phần chung luật hình sự tập IV, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, năm 2002) của TSKH Lê Cảm; Sách chuyên khảo sau đại học, Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật hình sự, phần chung, chương IV Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2005 của TSKH.PGS Lê Cảm; Nhiều tội phạm (chương XV, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam); Lý luận chung về định tội danh của GS.TS Võ Khánh Vinh, Nxb Khoa học xã hội, năm 2013; “Chế định phạm nhiều tội trong luật hình sự Việt Nam” của tác giả Lê Văn Đệ.Một số Luận án, Luận văn nghiên cứu của một số tác giả về chế định nhiều tội phạm như: “Quyết định hình phạt trong những trường hợp đặc biệt” của tác giả Đặng Thị Thanh v.v Bằng việc phân tích khoa học dưới góc độ luật hình sự và tố tụng hình sự, các tác giả đã đưa ra những lý luận cơ bản về định tội danh và quyết định hình phạt đối với các loại tội phạm trong đó có trường hợp phạm nhiều tội. Tuy nhiên, định tội danh và quyết định hình phạt nói chung và trong trong trường hợp phạm nhiều tội nói riêng luôn là vấn đề rộng lớn, phức tạp và đa dạng, hiện vẫn còn được tranh luận trên diễn đàn pháp lý. Qua quá trình tham khảo các công trình nghiên cứu khoa học nói trên, cũng như từ thực tiễn áp dụng pháp luật, chúng tôi thấy rằng để thực hiện việc định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội được chính xác, cụ thể, các nhà nghiên cứu luật học cần nghiên cứu sâu hơn, toàn diện và có hệ thống hơn; kết hợp hài hoà giữa lý luận và thực tiễn trong quá trình nghiên cứu mới đáp ứng được yêu cầu và đòi hỏi của việc xây dựng, hoàn thiện và áp dụng luật hình sự về phạm nhiều tội. Bản thân đang công tác tại một cơ quan tiến hành tố tụng (TAND) nhận thấy thực tiễn áp dụng về chế định phạm nhiều tội trên địa bàn còn nhiều bất cập. Trên cơ sở các tài liệu khoa học, công trình, luận văn, luận án đã tạo điều kiện cho tác giả tham khảo, kế thừa và tiếp tục nghiên cứu, đánh giá đúng thực trạng của việc định tội danh 3
- trong trường hợp phạm nhiều tội, để từ đó hoàn thiện pháp luật và hướng dẫn áp dụng những quy định của luật hình sự về phạm nhiều tội được thống nhất. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục tiêu: Trên cơ sở phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật hiện hành về định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội, thực tiễn áp dụng quy định các quy định này; làm sáng tỏ những vấn đề bất cập, vướng mắc để có kiến nghị hoàn thiện của pháp luật về phạm nhiều tội và góp phần nâng cao hiệu quả của định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn tập trung làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về định tội danh đối với trường hợp phạm nhiều tội như khái niệm và các trường hợp phạm nhiều tội, phân biệt trường hợp phạm nhiều tội với trường hợp phạm tội đơn lẻ; vấn đề định tội danh, khái niệm, ý nghĩa của định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội. Luận văn tổng hợp và đánh giá thực tiễn định tội danh đối với trường hợp phạm nhiều tội tại tỉnh Đồng Nai, làm sáng tỏ những bất cập, hạn chế và nguyên nhân. Luận văn đưa ra kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về phạm nhiều tội và một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định đó trên thực tế. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là quy định của pháp luật và thực tiễn định tội danh đối với trường hợp phạm nhiều tội Luận văn nghiên cứu đề tài dưới góc độ Luật Hình sự, gắn với thực tiễn áp dụng pháp luật tại tỉnh Đồng Nai trong phạm vi thời gian 05 năm (từ năm 2012 – 2016). 5. Phương pháp nghiên cứu Đề tài này được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin với phép biện chứng duy vật. Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp phân tích, tổng hợp, giải thích quy phạm pháp luật; phương pháp thống kê số liệu; phương pháp so sánh pháp luật để đối chiếu với các 4
- quy định của pháp luật với nhau nhằm chỉ ra những điểm mới trong quá trình nghiên cứu. 6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn Trong công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay, việc nghiên cứu để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về định tội danh nói chung và định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội nói riêng luôn là một trong những hướng cơ bản, đồng thời cũng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của khoa học luật hình sự. Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện lý luận và thực tiễn, vì đây là một công trình đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu có hệ thống ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội từ thực tiễn áp dụng pháp luật trên địa bàn một địa phương mà cụ thể là tỉnh Đồng Nai. - Về mặt lý luận: Với những nội dung của Luận văn đưa ra sẽ góp phần làm phong phú thêm lý luận về chế định phạm nhiều tội, đồng thời nâng cao nhận thức về chế định phạm nhiều tội trong luật hình sự Việt Nam. - Về mặt thực tiễn: Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong thực tiễn áp dụng pháp luật. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội. Chương 2: Thực tiễn định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội tại tỉnh Đồng Nai. Chương 3: Hoàn thiện pháp luật hình sự và giải pháp bảo đảm định tội danh đúng trong trường hợp phạm nhiều tội. 5
- Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH TỘI DANH TRONG TRƯỜNG HỢP PHẠM NHIỀU TỘI 1.1. Khái niệm và các trường hợp phạm nhiều tội 1.1.1. Khái niệm phạm nhiều tội Trong thực tế, một người có thể thực hiện tội phạm đơn lẻ hoặc nhiều tội phạm. Với tư cách là một chế định của Luật Hình sự Việt Nam, nhiều tội phạm cần bao hàm tất cả các hình thức (trường hợp) phạm tội khi một người thực hiện một số tội phạm trong điều kiện nếu người đó chưa được xóa án tích về các tội phạm đó và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Trong việc thực hiện nhiều tội phạm, có trường hợp một người thực hiện nhiều tội phạm khác nhau nhưng tất cả các tội phạm đó chưa được xét xử lần nào, nay đưa ra xét xử cùng một lần. Nhưng cũng có trường hợp người phạm tội thực hiện nhiều tội phạm khác nhau nhưng khi đang chấp hành một bản án lại bị đưa ra xét xử về một tội phạm khác. Vậy phạm nhiều tội là gì, khi nào được coi là phạm nhiều tội, điều đó cũng cần có những tiêu chí nhất định để phân biệt. Theo Từ điển giải thích thuật ngữ luật học đã xây dựng khái niệm phạm nhiều tội như sau:“Chủ thể có nhiều hành vi phạm tội độc lập hoặc chỉ có một hành vi mà hành vi đã thực hiện đó thỏa mãn cấu thành tội phạm khác nhau thì phạm nhiều tội” [39, tr. 45]. Dưới góc độ lý luận luật hình sự về khái niệm phạm nhiều tội, trong lịch sử khoa học pháp lý nước ta, từ năm 1943 trong cuốn “Đại Nam hình pháp” của tiến sỹ Lê Trung Chánh đã đưa ra khái niệm phạm nhiều tội mà ông gọi là “Luỹ phạm” và phân biệt với khái niệm tái phạm như sau: “Luỹ phạm là phạm một trong một thời gian nhiều tội, mà trong thời gian ấy chưa có án nào đã chung thẩm đã thành bất canh cải rồi. Còn tái phạm là phạm tội đã có án chung thẩm rồi, đã thành bất canh cải rồi mà lại phạm một tội nữa” [7, tr. 202]. Lý do cần phân biệt tái phạm với luỹ phạm, bởi vì một người đã phạm tội, đã có án chung thẩm rồi, thế mà không sợ, lại 6
- còn phạm tội nữa, vậy pháp luật phải trừng trị kẻ bị tội tái phạm nặng hơn kẻ bị tội luỹ phạm, vì những kẻ bị tội luỹ phạm chưa có lệnh toà án quở trách và trừng phạt. Vào đầu những năm 80, lần đầu tiên trong các sách báo pháp lý của nước ta suất hiện danh từ “Phạm nhiều tội” và khái niệm “Phạm nhiều tội”. Theo cuốn Hình luật của Trường Cao đẳng Kiểm sát xuất bản cho rằng: “Phạm nhiều tội là trường hợp một người phạm nhiều tội được nêu trong các điều luật khác nhau, tức không cùng tội danh, mà trong thời gian phạm tội ấy họ chưa bị xét xử và bị kết án một tội nào trong số các tội ấy” [33, tr. 302]. BLHS năm 1985 cũng như BLHS năm 1999 chưa quy định khái niệm phạm nhiều tội. Điều 50 BLHS 1999 chỉ mới dừng lại ở việc quy định quy tắc quyết định hình phạt đối với trường hợp phạm nhiều tội. Trong Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam của các cơ sở đào tạo luật dù dành dung lượng rất ít nhưng cũng đã đưa ra khái niệm về phạm nhiều tội. Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội đã đưa ra khái niệm về phạm nhiều tội như sau: “Phạm nhiều tội là trường hợp người có nhiều hành vi phạm tội hoặc chỉ có một hành vi phạm tội nhưng thỏa mãn nhiều cấu thành tội phạm khác nhau và bị đưa ra xét xử cùng một lần về các tội phạm đó” [35, tr. 285]. Trong tài liệu chuyên khảo “Lý luận chung về định tội danh” do GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên của Học viện Khoa học Xã hội thì “phạm nhiều tội được hiểu là trường hợp các hành vi của người phạm tội do một người thực hiện được quy định không những trong các điều luật khác nhau mà còn được quy định trong các khoản các khác nhau thuộc phần các tội phạm của BLHS và người phạm tội chưa bị xét xử về tội nào trong số tội ấy” [41, tr. 211]. Dù diễn đạt khác nhau nhưng các nhà nghiên cứu đều thống nhất xác định các dấu hiệu cơ bản của “phạm nhiều tội” là: - Phạm nhiều tội là trường hợp một người có lỗi trong việc thực hiện hai hoặc nhiều tội phạm; - Các hành vi phạm tội được quy định trong Phần các tội phạm cụ thể của BLHS; - Người phạm tội chưa bị xét xử về tội phạm nào trong số các tội phạm đó. 7
- Trong lý luận Luật hình sự, người ta phân biệt hai trường hợp phạm nhiều tội: phạm nhiều tội thực tế và phạm nhiều tội tư tưởng (còn gọi là tổng hợp trừu tượng). 1.1.2. Các trường hợp của phạm nhiều tội Để bảo đảm chính xác trong việc định tội danh trường hợp phạm nhiều tội, trong lý luận hình sự và lý luận định tội danh, người ta phân chia phạm nhiều tội thành hai dạng là phạm nhiều tội tổng hợp thực tế và phạm nhiều tội tư tưởng (tổng hợp trừu tượng). Việc nhận thức đúng các trường hợp này là cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu định tội danh đối với “phạm nhiều tội”. Phạm nhiều tội thực tế: là trường hợp khi một người thực hiện nhiều hành vi nguy hiểm cho xã hội độc lập khác nhau và cách nhau một khoảng thời gian nhất định và những hành vi đó cấu thành hai hoặc nhiều tội phạm được quy định trong các điều luật khác nhau hoặc trong những khoản khác nhau của điều luật thuộc phần các tội phạm BLHS [41, tr. 211]. Như vậy, đặc trưng của phạm nhiều tội thực tế tập trung ở các dấu hiệu sau: - Thực hiện nhiều hành vi có khoảng cách về thời gian. Trong trường hợp phạm nhiều tội tổng hợp thực tế các tội phạm được hiện trong những thời gian khác nhau. Khoảng cách thời gian giữa việc thực hiện các tội phạm đó có thể là dài hoặc không đáng kể. - Các hành vi đó cấu thành hai hoặc nhiều tội phạm được quy định trong phần các tội phạm BLHS. Trong tài liệu pháp lý hình sự có sự phân biệt hai trường hợp phạm nhiều tội thực tế là 1) trường hợp người phạm tội thực hiện nhiều hành vi phạm tội, mỗi hành vi cấu thành một tội độc lập và không liên quan với nhau; 2) trường hợp người phạm tội thực hiện nhiều hành vi phạm, mỗi hành vi tuy cấu thành các tội phạm khác nhau nhưng chúng có liên quan với nhau [36, tr. 357]. Trường hợp phạm nhiều tội thực tế mà các hành vi phạm tội độc lập, không có quan hệ với nhau. Đây là trường hợp, ở các thời điểm khác nhau, người phạm tội thực hiện từng tội phạm độc lập, không liên quan với nhau. Ví dụ: người phạm tội ở các thời điểm khác nhau đã phạm tội trộm cắp tài sản và tội cướp giật tài sản. Do 8
- tính độc lập và không liên quan nên việc xác định phạm nhiều tội trong trường hợp đầu tiên khá dễ dàng và thường thống nhất trong định tội danh. Trường hợp phạm nhiều tội mà các tội phạm khác nhau lại liên quan mật thiết với nhau. Mối liên hệ mật thiết giữa các tội phạm trong trường hợp này thường thể hiện ở các dạng sau: - Tội phạm này là hành vi chuẩn bị phạm tội của tội kia. Ví du: người phạm tội mua vũ khí quân dụng để giết người và người đó đã thực hiện hành vi giết người. Đây là trường hợp phạm nhiều tội, trong đó hành vi mua vũ khí quân dụng là hành vi chuẩn bị phạm tội giết người. Dù các hành vi phạm tội nêu trên có mối liên hệ mật thiết nhưng chúng đều thỏa mãn dấu hiệu nội dung của tội phạm (nguy hiểm đáng kể cho xã hội) và dấu hiệu hình thức của tội phạm (thỏa mãn các dấu hiệu pháp lý của một tội phạm) nên đây là trường hợp phạm nhiều tội; - Tội phạm này là điều kiện để thực hiện tội phạm kia. Ví dụ, hành vi sử dụng vũ khí trái phép giết người. Đây là trường hợp phạm nhiều tội thực tế khi cả hai hành vi nêu trên đều nguy hiểm đáng kể cho xã hội và vi phạm quy định của PLHS - Tội phạm này là phương thức che dấu một tội phạm kia. Ví dụ: ngay sau khi hiếp dâm thì giết người để bịt đầu mối, che dấu hành vi hiếp dâm. Đây cũng là trường hợp phạm nhiều tội thực tế; - Tội phạm này là hành vi tiếp theo của một tội phạm khác. Ví dụ: người phạm tội mua bán trái phép chất ma túy đã có hành vi rửa tiền. Hành vi phạm tội rửa tiền để hợp thức hóa tài sản do phạm tội mà có. Bằng cách ấy, người phạm tội đã che dấu tội mua bán trái phép chất ma túy. Tuy nhiên, việc xác định có phạm nhiều tội hay không đối với trường hợp thứ hai dựa trên lý luận về tội phạm và có nét đặc thù riêng. Theo lý luận, tội phạm là hành vi nguy hiểm đáng kể cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt. Do vậy, đối với trường hợp người phạm tội thực hiện nhiều hành vi được quy định ở các điều luật khác nhau hoặc các khoản khác nhau của một điều luật của BLHS (thỏa mãn dấu hiệu hình thức của tội phạm) và chúng đều nguy hiểm đáng kể cho xã hội (thỏa mãn dấu hiệu nội dung) thì thuộc trường hợp phạm nhiều tội. Nếu 9
- trong số các hành vi được thực hiện tuy được quy định trong BLHS nhưng xét về dấu hiệu nội dung thì có hành vi nguy hiểm đáng kể cho xã hội, có hành vi nguy hiểm không đáng kể cho xã hội thì không phải là phạm nhiều tội. Trong trường hợp này, lý luận coi đây là trường hợp phạm tội đơn lẻ về tội phạm có hành vi nguy hiểm đáng kể cho xã hội. Hành vi nguy hiểm không đáng kể cho xã hội được coi là tình tiết của vụ án. Do vậy, đối với phạm nhiều tội thực tế thuộc trường hợp thứ hai, việc xác định có phải là phạm nhiều tội hay là phạm một tội đơn lẻ ngoài việc xác định dấu hiệu hình thức của tội phạm thì còn phải xác định dấu hiệu nội dung của tội phạm – các hành vi phải đều nguy hiểm đáng kể cho xã hội. Phạm nhiều tội tư tưởng (tổng hợp trừu tượng): là trường hợp khi một người thực hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội và hành vi đó cấu thành hai hoặc nhiều tội phạm được quy định trong các điều luật khác nhau hoặc trong những khoản khác nhau của điều luật thuộc phần các tội phạm của BLHS [41.tr. 213]. Đặc trưng của phạm nhiều tội tư tưởng là bằng một hành vi đơn nhất, người phạm tội đã thực hiện nhiều tội phạm được quy định trong các điều luật khác nhau hoặc các khoản khác nhau của một điều luật thuộc Phần các tội phạm BLHS. Đây là cơ sở để phân biệt với các trường hợp phạm tội nhiều lần, tái phạm, tái phạm nguy hiểm. GS.TS Võ Khánh Vinh đã chỉ ra rằng: “Sự tồn tại phạm nhiều tội tư tưởng là do một hành vi nguy hiểm cho xã hội có khả năng gây ra một số hậu quả có hại BLHS [41, tr. 213]. Ví dụ: bằng hành vi dùng vũ lực, người phạm tội đã cướp tài sản và cố ý gây chết người. Trong trường hợp này, hành vi dùng vũ lực đó cấu thành hai tội cướp tài sản và tội giết người. Theo GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa, một hành vi phạm tội cấu thành nhiều tội còn có thể xảy ra trong các trường hợp sau: - Một hành vi phạm tội vừa thỏa mãn một cấu thành tội phạm cụ thể này, vừa thỏa mãn một cấu thành của hành vi đồng phạm của một tội cụ thể khác.Ví dụ: Một cán bộ Hải Quan đã nhận hối lộ của đối tượng buôn lậu để cho họ đưa hàng hóa, tiền tệ qua biên giới trái phép. Trong trường hợp này, hành vi phạm tội của nhân viên Hải Quan vừa thỏa mãn dấu hiệu của cấu thành Tội “nhận hối lộ” theo Điều 10
- 279 BLHS năm 1999, vừa thỏa mãn dấu hiệu của hành vi giúp sức trong Tội “buôn lậu” theo Điều 153 BLHS năm 1999 [13, tr. 77]. - Một hành vi phạm tội đồng thời thỏa mãn hai cấu thành của hai hành vi đồng phạm của hai tội khác nhau. Ví dụ: Một người cố ý cho người khác mượn súng mà mình biết rõ là để sử dụng nhằm chiếm đoạt tài sản bằng cách tước đoạt tính mạng của chủ tài sản. Trong trường hợp này, hành vi phạm tội của người cho mượn súng đồng thời thỏa mãn các dấu hiệu của hành vi đồng phạm Tội “giết người” (theo Điều 93 BLHS năm 1999) và của hành vi đồng phạm Tội “cướp tài sản” (Điều 133 BLHS năm 1999) [13,tr. 77]. Như vậy, trong trường hợp phạm nhiều tội tổng hợp trừu tượng, hành vi phạm tội của bị cáo có thể đồng thời là những hành vi thực hành của hai tội khác nhau, có thể vừa là hành vi thực hành của tội này, vừa là hành vi đồng phạm của tội khác, hoặc có thể đồng thời là hành vi đồng phạm của hai tội khác nhau. 1.1.3. Phân biệt phạm nhiều tội với các trường hợp khác Trong lý luận luật hình sự nước ta khái niệm nhiều tội phạm hay gọi cách khác là đa tội phạm chưa được làm sáng tỏ. Dưới góc độ khoa học luật hình sự, các trường hợp phạm nhiều tội, phạm tội nhiều lần, tái phạm, tái phạm nguy hiểm là các hình thức biểu hiện của trường hợp nhiều tội phạm. Đây là những tình tiết có nhiều dấu hiệu giống nhau, nếu không phân biệt được sẽ dẫn đến việc hiểu sai và áp dụng sai. Do vậy, muốn định tội danh chính xác đối với từng trường hợp cụ thể cần phải chú ý tới các dấu hiệu cơ bản nhất của từng trường hợp. * Phân biệt phạm nhiều tội với các trường hợp phạm một tội có quan hệ cấu thành tội phạm đặc biệt Trên thực tế thì một hành vi phạm tội đã thỏa mãn một cấu thành tội phạm thì cũng đồng thời thỏa mãn cấu thành tội phạm kia. Thế nhưng, trong trường hợp này, hành vi phạm tội tuy thỏa mãn nhiều cấu thành tội phạm nhưng không thể áp dụng tất cả các điều luật quy định các cấu thành tội phạm đó mà chỉ được phép chọn một trong số đó để áp dụng. Cụ thể: 11
- - Quan hệ giữa trường hợp bình thường với trường hợp tăng nặng hoặc giảm nhẹ. Ví dụ: Quan hệ giữa Điều 93 (Tội giết người) với Điều 94 (Tội giết con mới đẻ), với Điều 95 (Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh), với Điều 96 (Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng) là quan hệ giữa tội giết người bình thường và tội giết người giảm nhẹ; quan hệ giữa Điều 111 (Tội hiếp dâm) với Điều 112 (Tội hiếp dâm trẻ em) là quan hệ giữa tội hiếp dâm bình thường và tội hiếp dâm tăng nặng Trong trường hợp này, khi hành vi thoả mãn CTTP của tội tăng nặng hoặc giảm nhẹ thì cũng thoả mãn CTTP của tội bình thường nhưng chỉ được chọn CTTP của tội tăng nặng hoặc giảm nhẹ để áp dụng [14, tr. 86]. - Quan hệ giữa trường hợp chung với trường hợp riêng. Ví dụ: Quan hệ giữa Điều 98 (Tội vô ý làm chết người) với Điều 202 (Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ - trong trường hợp hậu quả làm chết người) là quan hệ giữa tội vô ý làm chết người chung và tội vô ý làm chết người trong lĩnh vực cụ thể - lĩnh vực an toàn giao thông đường bộ. Trong trường hợp này, khi hành vi thoả mãn CTTP trong lĩnh vực cụ thể thì cũng thoả mãn CTTP chung nhưng chỉ được chọn CTTP trong lĩnh vực cụ thể để áp dụng [14, tr. 86]. - Quan hệ thu hút, ví dụ: Quan hệ giữa Điều 103 (Tội đe doạ giết người) với Điều 133 (Tội cướp tài sản) là quan hệ giữa CTTP bị thu hút và CTTP thu hút. Trong trường hợp này, khi hành vi thoả mãn CTTP tội cướp tài sản - trong trường hợp đe doạ dùng vũ lực tước đoạt tính mạng thì cũng thoả mãn CTTP tội đe doạ giết người nhưng chỉ được chọn CTTP tội cướp tài sản (CTTP thu hút) để áp dụng [14, tr. 87]. - Quan hệ giữa CTTP của một tội với CTTP tăng nặng của một tội khác. Đây là trường hợp nhà làm luật đã dùng dấu hiệu định tội của một tội quy định thành dấu hiệu định khung tăng nặng cho tội phạm khác. Ví dụ: Dấu hiệu định tội của Tội buôn lậu qua biên giới (Điều 153) được quy định là dấu hiệu định khung tăng nặng của Tội mua bán trái phép chất ma tuý (khoản 2 Điều 194) nên trong trường hợp này, khi hành vi thoả mãn CTTP tăng nặng thì cũng thoả mãn CTTP của tội còn lại nhưng chỉ được chọn CTTP tăng nặng để áp dụng [14, tr. 87]. 12
- - Quan hệ giữa CTTP của hành vi đồng phạm với CTTP của tội độc lập khác. Đây là trường hợp nhà làm luật đã quy định hành vi đồng phạm nhất định thành tội danh riêng. Ví dụ: Hành vi giúp sức đưa, nhận hối lộ (các Điều 279, 289 trong mối liên hệ với Điều 20) được quy định thành Tội làm môi giới hối lộ (Điều 290); hành vi Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý (Điều 199 trong mối liên hệ với Điều 20) được quy định thành Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý (Điều 197) Trong trường hợp này, khi hành vi thoả mãn CTTP của tội độc lập thì cũng thoả mãn CTTP của hành vi đồng phạm nhưng chỉ được chọn CTTP của tội độc lập để áp dụng [14, tr. 87]. *Phân biệt phạm nhiều tội thực tế với phạm tội nhiều lần Cũng như phạm nhiều tội, BLHS cũng chưa có khái niệm về phạm tội nhiều lần. Về mặt lý luận, dưới góc độ khoa học luật hình sự các nhà nghiên cứu đã đưa ra khái niệm về phạm tội nhiều lần là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội từ hai lần trở lên mà những hành vi ấy được quy định tại cùng một điều luật (hoặc tại cùng một khoản của Điều) tương ứng trong Phần các tội phạm của BLHS, đồng thời đối với những tội ấy vẫn còn thời hiệu truy cứu TNHS và người phạm tội chưa bị xét xử. Hành vi phạm tội trong trường hợp này là sự lặp lại tội đã phạm trước đó nên có mức độ nguy hiểm cao hơn bình thường. Sự giống nhau giữa phạm nhiều tội thực tế với phạm nhiều lần là trong cả hai trường hợp này, người phạm tội đã thực hiện nhiều hành vi phạm tội trong các khoảng thời gian khác nhau. Sự khác biệt giữa hai trường hợp này chính là ở chỗ trong phạm nhiều tội, các hành vi phạm tội cấu thành các tội phạm khác nhau, còn trong phạm tội nhiều lần thì các hành vi phạm tội chỉ phạm một tội được quy định tại một điều luật. Như vậy, phạm tội nhiều lần thì những hành vi phạm tội chỉ cấu thành một tội còn với trường hợp phạm nhiều tội thì có thể một hành vi hoặc nhiều hành vi nhưng cấu thành hai tội trở lên và các khách thể bị xâm hại không phải là một khách thể như phạm tội nhiều lần. Đây là đặc điểm rõ ràng nhất để phân biệt đối với hai trường hợp này. 13
- Sự phân biệt này có ý nghĩa quan trọng vì đóng vai trò là cơ sở định tội danh được chính xác, bảo đảm xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, bảo đảm công bằng xã hội. *Phân biệt phạm nhiều tội với trường hợp tái phạm, tái phạm nguy hiểm Tái phạm, tái phạm nguy hiểm là những trường hợp một người phạm tội mới trong thời gian người phạm tội đó chưa được xóa án tích. Trường hợp phạm nhiều tội cũng giống với trường hợp tái phạm, tái phạm nguy hiểm ở chỗ người phạm tội đều có hơn một lần thực hiện các tội phạm nhưng lại có những điểm khác biệt như: - Thứ nhất, Tái phạm và tái phạm nguy hiểm được nhà làm luật ghi nhận về mặt lập pháp là một chế định độc lập tại (Điều 49 BLHS năm 1999), là tình tiết tăng nặng TNHS chung, vừa là tình tiết tăng nặng định khung thì đối với phạm nhiều tội là trường hợp được đặt ra để cơ quan xét xử tổng hợp hình phạt đối với nhiều tội mà người phạm tội đã gây ra. - Thứ hai, nếu như ở trường hợp phạm nhiều tội, người phạm tội có thể thực hiện nhiều hành vi phạm tội cụ thể, hoặc cũng có thể là một hành vi nhưng các hành vi đó có dấu hiệu của nhiều tội phạm thì ở trường hợp tái phạm, tái phạm nguy hiểm người phạm tội phải luôn thực hiện hành vi phạm tội ở nhiều thời gian khác nhau. - Thứ ba, người phạm tội trong trường hợp tái phạm, tái phạm nguy hiểm đã bị kết án về tội phạm trước, chưa được xóa án tích lại phạm tội mới còn ở trường hợp phạm nhiều tội thì người phạm tội chưa bị xét xử về tội nào trong các tội phạm mà họ đã gây ra. - Thứ tư, trong trường hợp tái phạm, tái phạm nguy hiểm đặt ra dấu hiệu hình thức lỗi của người phạm tội còn trường hợp hợp phạm nhiều tội thì không đặt ra dấu hiệu này. 1.2. Khái niệm, ý nghĩa của định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội 1.2.1. Khái niệm của định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội Trong lý luận hình sự, việc áp dụng các quy phạm pháp luật được hiểu là một quá trình đa dạng và phức tạp được tiến hành qua các giai đoạn nhất định như: Giải thích pháp luật hình sự, xác định hiệu lực của pháp luật về không gian và thời gian, 14