Luận văn Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh

pdf 79 trang vuhoa 24/08/2022 11941
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_dinh_toi_danh_toi_lam_dung_tin_nhiem_chiem_doat_tai.pdf

Nội dung text: Luận văn Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HOÀNG THỊ KIM CHI ĐỊNH TỘI DANH TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, 2017
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HOÀNG THỊ KIM CHI ĐỊNH TỘI DANH TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 60.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐINH XUÂN NAM HÀ NỘI, 2017
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam kết luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của tôi. Các tài liệu, tư liệu được sử dụng trong luận văn có nguồn dẫn rõ ràng, các kết quả nghiên cứu là quá trình lao động trung thực của tôi. Hà Nội, ngày 27 tháng 02 năm 2017 TÁC GIẢ LUẬN VĂN HOÀNG THỊ KIM CHI
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN 7 1.1. Khái niệm, ý nghĩa của hoạt động định tội danh 7 1.2. Lý luận về định tội danh Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 12 1.3. Cơ sở pháp lý của định tội danh Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 20 1.4. Định tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong trường hợp có đồng phạm và trong trường hợp có cấu thành tăng nặng 33 Chương 2 THỰC TRẠNG ĐỊNH TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾ M ĐOẠT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH39 2.1. Thực trạng định tội danh Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản tại Thành phố Hồ Chí Minh 39 2.2. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn định tội danh đối với Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh 54 Chương 3 CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ĐỊNH TỘI DANH ĐÚNG TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN 58 3.1. Các giải pháp bảo đảm định tội danh đúng Tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 58 3.2. Một số kiến nghị bảo đảm định tội danh đúng tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 63 KẾT LUẬN 66 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 68 PHỤ LỤC
  5. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật Hình sự CQĐT Cơ quan điều tra TAND Tòa án nhân dân TTHS Tố tụng hình sự VKS Viện kiểm sát VKSND Viện kiểm sát nhân dân
  6. DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1: Thống kê số vụ và số bị can/ bị cáo bị khởi tố, truy tố, xét xử về Tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh (Từ năm 2012 đến năm 2016) Bảng 2.2: So sánh số vụ án và số bị can bị khởi tố, điều tra về Tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn Thành phố HCM với số vụ án, bị can bị khởi tố, điều tra về Tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên phạm vi cả nước (Từ năm 2012 đến năm 2016) Bảng 2.3: Thống kê số vụ án và số bị can bị khởi tố, điều tra về Tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh và trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, Bình Dương từ năm 2012 đến năm 2016 Bảng 2.4: Thống kê mức hình phạt đối với bị cáo do Tòa án nhân dân 2 cấp của Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên trong giai đoạn xét xử sơ thẩm (Từ năm 2012 đến năm 2016)
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tội phạm và hình phạt là hai chế định cơ bản của Bộ luật hình sự (BLHS) có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó tội phạm là vấn đề cơ bản và quan trọng nhất bởi khi có tội phạm xảy ra thì mới có quá trình truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt. Thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự trong những năm qua khẳng định, một trong những mục tiêu quan trọng mà các cơ quan tiến hành tố tụng hướng đến là xác định chính xác tội danh của người thực hiện hành vi phạm tội, trên cơ sở đó áp dụng mức hình phạt tương xứng, đồng thời, BLHS cũng quy định “Chỉ người nào phạm một tội đã được BLHS quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự” và trong pháp luật hình sự Việt Nam không chấp nhận việc quy tội chủ quan, việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi phạm tội chỉ có thể được thực hiện khi hành vi họ thực hiện thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm. Việc xác định chính xác các dấu hiệu đó cũng chính là nội dung cơ bản của hoạt động định tội danh. Định tội danh là vấn đề đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa quyết định trong toàn bộ quá trình áp dụng pháp luật để giải quyết các vụ án hình sự; là cơ sở cần thiết, đầu tiên để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, định tội danh đúng là tiền đề cho việc phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt. Trong giai đoạn hiện nay, công cuộc Cải cách tư pháp đang được triển khai thực hiện trong hệ thống các cơ quan tư pháp theo tinh thần của Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” việc định tội danh đúng càng trở nên bức thiết nhằm phục vụ hiệu quả cho tiến trình cải cách tư pháp và đảm bảo quyền con người trong Tố tụng hình sự (TTHS). Thực tiễn giải quyết vụ án hình sự trong những năm vừa qua cho thấy, các vụ việc oan, sai chủ yếu bắt nguồn từ việc định tội danh sai, đánh giá chứng cứ phiến diện, chủ quan. Do vậy, định tội danh vẫn được xem là một trong những khâu khó trong chuỗi các hoạt động tố tụng, đặc biệt là với những tội phạm mà dấu hiệu cấu thành còn dễ gây nhầm lẫn với các tội phạm khác hoặc gặp nhiều khó khăn trong việc xác 1
  8. định có hay không hành vi phạm tội xảy ra hay chỉ đơn thuần là vi phạm dân sự, kinh tế như Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 140 BLHS năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009). Đây là một trong những tội phạm truyền thống, tuy nhiên, để định tội danh đối với tội phạm này được chính xác là vấn đề rất khó khăn bởi rất dễ nhầm lẫn với các tội phạm khác nhất là ở những địa phương phát triển khá mạnh về kinh tế như Thành phố Hồ Chí Minh. Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế, văn hóa lớn nhất của cả nước, nơi tập trung một lượng lớn dân nhập cư từ khắp các tỉnh thành sinh sống, học tập và làm việc. Với những thuận lợi ấy Thành phố Hồ Chí Minh luôn là địa phương dẫn đầu cả nước về tốc độ tăng trưởng kinh tế với tổng thu ngân sách cũng như thu nhập bình quân đầu người luôn ở mức cao. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi và các thành tựu mà Thành phố đã đạt được thì vấn đề đáng báo động nhất là tình hình tội phạm không ngừng gia tăng, đặc biệt là các tội xâm phạm sở hữu, trong đó có Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Từ thực tiễn công tác khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh trong những năm vừa qua cho thấy về cơ bản việc định tội danh được thực hiện tương đối chính xác. Tuy nhiên, vẫn có một số trường hợp giữa Cơ quan điều tra (CQĐT), Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) và Tòa án nhân dân (TAND) trong quá trình giải quyết vụ án xuất hiện quan điểm khác nhau về định tội danh dẫn đến có vụ án phải trả hồ sơ nhiều lần, kéo dài thời gian giải quyết và ảnh hưởng đến nhiều đối tượng khác nhau. Có trường hợp TAND xử lý bị cáo khác tội danh với tội danh VKSND đã truy tố, cá biệt còn có trường hợp Tòa án tuyên không phạm tội. Thực trạng này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng trước hết và quan trọng nhất là từ chính hoạt động của các chủ thể định tội danh do chưa nắm vững và nhận thức đúng những vấn đề lý luận và thực tiễn về định tội danh nói chung và định tội danh Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nói riêng. Chính vì vậy, tác giả chọn đề tài “Định tội danh Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài 2
  9. luận văn nhằm góp phần làm rõ cơ sở lý luận và pháp lý cho công tác định tội danh đối với loại tội phạm này trong thực tiễn thời gian tới. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong thời gian qua có một số công trình khoa học liên quan đến đề tài của tác giả đã được đề cập và công bố như: Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình luật hình sự Việt Nam phần các tội phạm - quyển 1, NXB Hồng Đức, Hội Luật gia Việt Nam. Trường Đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Tập 2, NXB Công an nhân dân, Hà Nội. Đinh Văn Quế (2003), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự, Tập 2, NXB Thành phố Hồ Chí Minh. Nguyễn Đức Mai (2013), Bình luận khoa học BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) - Phần các tội phạm, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. Võ Khánh Vinh (2003), Giáo trình lý luận chung về định tội danh, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội. Lê Văn Đệ (2004), Định tội danh và quyết định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội. Các công trình nghiên cứu, các bài viết, đề tài khoa học nói trên đều là những công trình có giá trị về mặt lý luận khoa học và thực tiễn, tuy nhiên, nội dung các đề tài chỉ hướng đến việc phân tích, nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về tội phạm Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong mối quan hệ tách biệt hoàn toàn với những kiến thức lý luận về định tội danh. Vì vậy, theo đánh giá của tác giả, mặc dù có rất nhiều công trình nghiên cứu, bài viết đề cập đến Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, vấn đề định tội danh, tuy nhiên, chưa có công trình, đề tài nghiên cứu nào xem xét vấn đề định tội danh Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản ở góc độ hoàn chỉnh, toàn diện trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Mặc dù vậy, kết quả của những công trình nghiên cứu đã công bố là một trong những nguồn tài liệu quan trọng mà tác giả có thể vận dụng, kế thừa và bổ sung để hoàn thiện cho luận văn cuối khóa của mình. 3
  10. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1 Mục đích nghiên cứu Dựa trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận về Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, vấn đề lý luận về định tội danh cũng như phân tích thực tiễn định tội danh Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thông qua nội dung các vụ án thực tiễn xảy ra trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh trong những năm vừa qua để đưa ra một số kiến nghị nhất định nhằm hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về xử lý tội phạm này trong thời gian tới. 3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu Với mục đích đã được xác định, để thực hiện đề tài cần thiết phải thực hiện những nhiệm vụ cụ thể sau: - Nghiên cứu làm rõ lý luận về hoạt động định tội danh nói chung và định tội danh Tội lạm dụng chiếm đoạt tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. - Phân tích các quy định của BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) về Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản để làm rõ các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội phạm này và so sánh với một số tội phạm khác có tính chất tương đồng trong BLHS. - Khảo sát thực trạng, đánh giá những ưu điểm, hạn chế và phân tích nguyên nhân của hoạt động định tội danh Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. - Đưa ra dự báo và giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong hoạt động định tội danh Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1 Đối tượng nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và những vấn đề liên quan đến việc định tội danh đối với tội phạm này, trên cơ sở giải quyết các vụ án lạm dụng tín nhiệm 4
  11. xảy ra trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh nhằm tìm ra những khó khăn, vướng mắc, từ đó đề xuất các giải pháp khắc phục. 4.2 Phạm vi nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở tổng hợp số liệu tình hình giải quyết các vụ án lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xảy ra trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh trong khoảng thời gian từ năm 2012 đến 2016. Đây là nguồn tư liệu quan trọng giúp cho việc phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động định tội danh Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản đảm bảo được tính chính xác, độ tin cậy, từ đó đưa ra kiến nghị phù hợp. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận là phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng và Nhà nước về đấu tranh phòng chống tội phạm, về chính sách hình sự đối với tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Đồng thời, trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thiện đề tài, tác giả sử dụng kết hợp nhiều phương pháp khác nhau như phân tích, đánh giá, so sánh, tổng hợp nhằm làm rõ nội dung vấn đề cần trình bày cũng như tìm ra các giải pháp để nâng cao chất lượng hoạt động định tội danh về tội phạm này trên phạm vi địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1 Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần hoàn thiện hệ thống lý luận có liên quan đến hoạt động định tội danh Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn cả nước nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. 6.2 Ý nghĩa thực tiễn Bên cạnh giá trị về mặt lý luận, luận văn còn có thể được vận dụng như một tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên cứu, giảng dạy và học tập tại các cơ sở giáo dục trên cả nước. Thêm vào đó, đối với các cán bộ công tác thực tiễn, đặc biệt 5
  12. là cán bộ công tác trong lĩnh vực hình sự, luận văn sẽ giúp ích một phần để cho việc vận dụng trong quá trình giải quyết các vấn đề phát sinh trong thực tế. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu gồm ba chương. Cụ thể như sau: Chương 1. Lý luận chung về định tội danh Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Chương 2. Thực trạng định tội danh Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh Chương 3. Giải pháp bảo đảm định tội danh đúng Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 6
  13. Chương 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN 1.1. Khái niệm, ý nghĩa của hoạt động định tội danh 1.1.1. Khái niệm định tội danh Quá trình giải quyết vụ án hình sự là quá trình áp dụng pháp luật được thực hiện với các giai đoạn cụ thể gồm: Định tội danh, định khung hình phạt và quyết định hình phạt, trong đó định tội danh là vấn đề cơ bản và quan trọng nhất được tiến hành ở tất cả các giai đoạn tố tụng từ khởi tố, điều tra, truy tố đến cả hoạt động xét xử. Đây thực chất là quá trình đi tìm sự phù hợp giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện bởi các chủ thể nhất định với yếu tố cấu thành tội phạm tương ứng trong BLHS, xác định hành vi đã được thực hiện là tội phạm, là cơ sở để phân biệt với các loại vi phạm pháp luật khác nhau phát sinh trong thực tiễn. Định tội danh là cơ sở cần thiết đầu tiên cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, dựa trên việc xác định hành vi của người đó phạm tội gì, quy định tại điều, khoản nào của BLHS mà Tòa án sẽ quyết định cho họ mức hình phạt tương xứng. Do đó, để công tác này được thực hiện có hiệu quả đòi hỏi các chủ thể tiến hành tố tụng trong quá trình nghiên cứu hồ sơ, đánh giá cứ cần phải nghiêm túc, đánh giá khách quan, toàn diện, không mang tính định kiến, chủ quan, suy diễn, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đối tượng có liên quan. Định tội danh đúng sẽ là cơ sở đảm bảo cho việc phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt được chính xác. Tuy nhiên, cho đến nay, khái niệm định tội danh là một thuật ngữ chỉ được nghiên cứu dưới góc độ khoa học pháp lý chứ không được ghi nhận trong bất kì văn bản pháp luật nào. Chính vì thế, khi đề cập đến khái niệm này, có nhiều quan điểm khác nhau được đưa ra: Quan điểm thứ nhất thừa nhận, “Định tội danh là việc xác định và ghi nhận về mặt pháp lý sự phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ thể đã được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm được quy phạm pháp luật hình sự quy định” [6, tr.24.] Quan điểm này đưa ra những nhận định chính xác 7
  14. về bản chất của hoạt động định tội danh nhưng lại không xác định chủ thể trực tiếp thực hiện hoạt động này. Quan điểm thứ hai thừa nhận “Định tội danh là quá trình nhận thức lý luận có tính logic, là dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự cũng như pháp luật TTHS, được tiến hành trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự, để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tương ứng do luật hình sự quy định nhằm đạt được sự thật khách quan, tức là đưa ra sự đánh giá chính xác tội phạm về mặt pháp lý hình sự, làm tiền đề cho việc cá thể hóa và phân hóa trách nhiệm hình sự một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật” [7, tr.716]. Những người theo quan điểm này đã có nhận thức đúng đắn khi xác định nội dung của hoạt động định tội danh là quá trình nhận thức có tính logic và chỉ có thể được thực hiện trên cơ sở đánh giá toàn diện các chứng cứ, tài liệu được thu thập qua các hoạt động tố tụng, nhưng chủ thể của hoạt động này là ai và phải tiến hành bằng cách nào, dưới hình thức nào thì lại không chỉ ra được. Quan điểm thứ ba nhận định “Định tội danh là thuật ngữ dùng để chỉ hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có thẩm quyền trong TTHS nhằm đối chiếu sự phù hợp giữa các dấu hiệu thực tế của cấu thành tội phạm với các dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm được mô tả trong Luật hình sự, để giải quyết vụ án hình sự bằng việc ra kết luận bằng văn bản áp dụng pháp luật” [18, tr.10]. Ưu điểm của quan điểm này là đã xác định được chủ thể trực tiếp tham gia hoạt động định tội danh và chỉ ra được việc định tội được thể hiện qua kết quả cuối cùng của hoạt động này là văn bản tố tụng. Tuy vậy, định nghĩa này không chỉ ra những bước cần thiết để các chủ thể tiến hành tố tụng áp dụng trước khi đưa ra kết quả là văn bản tố tụng xác định hành vi của người thực hiện là có tội hay không có tội. Quan điểm thứ tư cho rằng “Định tội danh là một trong những giai đoạn hoạt động áp dụng pháp luật do các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử tiến hành. Những người theo quan điểm này thừa nhận rằng, các cơ quan tiến hành tố tụng đã căn cứ vào các tình tiết được xác định về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của 8
  15. một hành vi cụ thể nào đó mà quyết định xem hành vi đó có đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm đã được pháp luật quy định” [41, tr.12]. Đây là quan điểm đưa ra nhận thức rất rõ về bản chất của hoạt động định tội cũng như các chủ thể trực tiếp tiến hành hoạt động này, đó chỉ có thể là những chủ thể tham gia vào quá trình giải quyết vụ án hình sự. Tuy nhiên, hạn chế của quan điểm này là không có một quy trình cụ thể nào cho hoạt động định tội danh được đưa ra để làm cơ sở cho các chủ thể có thẩm quyền thực hiện nó. Quan điểm thứ năm lại cho rằng “Định tội danh là hoạt động áp dụng pháp luật hình sự bao gồm việc tiến hành đồng thời ba quá trình: 1 - Xác định đúng, khách quan các tình tiết thực tế của vụ án; 2 - Nhận thức đúng nội dung của các quy định trong BLHS; 3 - Lựa chọn đúng quy phạm pháp luật hình sự tương ứng để đối chiếu chính xác, đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm được quy định trong quy phạm đó với các tình tiết của hành vi được thực hiện trong thực tế, trên cơ sở đó đưa ra kết luận có cơ sở, có căn cứ về sự đồng nhất giữa hành vi thực tế đã được thực hiện với cấu thành tội phạm được quy định trong điều hoặc khoản của điều luật tương ứng. Kết luận đó được trình bày dưới dạng văn bản áp dụng pháp luật” [41, tr.13]. Quan điểm được đưa ra trên cơ sở nhận thức đầy đủ các bước cần tiến hành để đảm bảo quá trình định tội danh được chính xác và khẳng định kết quả của hoạt động định tội danh được thể hiện dưới hình thức là văn bản áp dụng pháp luật. Tuy nhiên, điểm hạn chế của các tác giả theo quan điểm này là không xác định chủ thể tham gia trực tiếp vào hoạt động định tội. Có thể thấy, mặc dù tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về định tội danh, ở mỗi quan điểm lại có những ưu điểm và hạn chế nhất định cho nên, nếu chỉ dựa một trong số các khái niệm trên để đưa ra kết luận định tội danh là gì là điều không thể. Tuy nhiên, điểm thống nhất chung có thể nhận thấy ở tất cả các quan điểm trên khi nhận thức về bản chất của hoạt động định tội danh đều cho rằng đây là hoạt động chỉ được tiến hành bởi các chủ thể có thẩm quyền nhằm xác định sự phù hợp giữa hành vi người phạm tội thực hiện với quy định của BLHS, từ đó có cách ứng xử cho 9
  16. phù hợp. Do vậy, trên cơ sở các định nghĩa khác nhau về định tội danh, dưới góc độ quan điểm cá nhân, tác giả cho rằng: “Định tội danh là hoạt động nhận thức có tính logic, hoạt động áp dụng pháp luật của các chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng được thực hiện trên cơ sở pháp luật hình sự và pháp luật TTHS nhằm xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội do người phạm tội thực hiện với các dấu hiệu tương ứng trong quy định của BLHS để từ đó ban hành văn bản áp dụng pháp luật thích hợp”. Định nghĩa định tội danh có ý nghĩa quan trọng và là cơ sở để xác định các đặc điểm cụ thể của hoạt động này nói chung và tội phạm nói riêng, trong đó có Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Từ định nghĩa định tội danh đã được nêu có thể thấy, định tội danh bao gồm những đặc điểm nhất định sau: Thứ nhất, về chủ thể: Định tội danh là hoạt động chỉ có thể được tiến hành bởi các chủ thể tiến hành tố tụng, cụ thể là cơ quan tiến hành tố tụng gồm CQĐT, Viện kiểm sát (VKS), Tòa án và một số cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (Hải quan, Kiểm lâm, Cảnh sát biển, Bộ đội biên phòng, ) cũng như những người tiến hành tố tụng được quy định trong Bộ luật TTHS. Định tội danh là vấn đề phức tạp, do vậy, để thực hiện hoạt động này đòi hỏi các chủ thể phải nắm vững kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, là những người được đào tạo chuyên sâu và được giao thực hiện các chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Bộ luật TTHS. Thứ hai, về căn cứ: Định tội danh là vấn đề phức tạp đòi hỏi phải được thực hiện dựa trên những căn cứ nhất định nhằm đảm bảo tính có căn cứ và hợp pháp của quyết định tố tụng sẽ ban hành. Do đó, muốn định tội danh đúng thì cần thu thập và đánh giá các chứng cứ chính xác trên cơ sở đối chiếu hành vi người phạm tội thực hiện với các dấu hiệu cấu thành tội phạm tương ứng được quy định trong BLHS. Một người chỉ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu hành vi của người ấy thỏa mãn các dấu hiệu được quy định trong BLHS, do đó, muốn định tội danh đúng thì 10
  17. các chứng cứ được thu thập phải đầy đủ, khách quan, toàn diện mới có thể đảm bảo đánh giá chính xác bản chất của hành vi. Thứ ba, về bản chất: Định tội danh thực chất là hoạt động áp dụng pháp luật hình sự và pháp luật TTHS được thực hiện bởi các chủ thể tiến hành tố tụng thông qua việc ban hành các văn bản tố tụng với mục đích cuối cùng là giải quyết vụ án hình sự. Việc định tội danh phải đảm bảo đồng thời sự tuân thủ đối với các quy phạm pháp luật hình sự (luật nội dung) và quy phạm pháp luật TTHS về trình tự, thủ tục (luật hình thức), việc đánh giá không dựa trên các căn cứ pháp luật là nguyên nhân khiến cho hoạt động định tội danh không đảm bảo tính có căn cứ và hợp pháp, việc định tội danh không chính xác trong những trường hợp nhất định có thể dẫn đến oan, sai. Thứ tư, về mục đích: Quá trình giải quyết vụ án hình sự luôn hướng đến mục đích cuối cùng là xác định chính xác ai là người thực hiện hành vi phạm tội, người đó thực hiện tội phạm gì và thuộc điều, khoản nào của BLHS để buộc họ phải chịu các mức hình phạt tương xứng. 1.1.2. Ý nghĩa của định tội danh Định tội danh với tính chất là hoạt động quan trọng trong quá trình áp dụng pháp luật để giải quyết vụ án hình sự mang lại những ý nghĩa nhất định sau: Thứ nhất, định tội danh là hoạt động quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, định tội danh đúng là xác định chính xác tội phạm mà người phạm tội thực hiện, từ đó các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có cơ sở áp dụng các mức hình phạt đúng đắn, tương xứng với hành vi của người phạm tội. Đồng thời, định tội danh đúng cũng là cơ sở quan trọng đảm bảo cho các hoạt động tố tụng diễn ra suôn sẻ, thuận lợi, tránh tình trạng khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử oan, sai, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan cũng như bản thân người phạm tội, loại trừ việc kết án vô căn cứ những người mà hành vi của họ ở mức độ nguy hiểm chưa cao, chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự và cũng tạo tiền đề pháp lý quan trọng đảm bảo việc quyết định hình phạt đối với người phạm tội được công bằng. 11
  18. Thứ hai, định tội danh đúng là sự thể hiện tính nghiêm minh của luật pháp. Pháp luật hình sự được ban hành nhằm mục đích điều chỉnh và định hướng hành vi của con người trong xã hội thông qua hoạt động chủ yếu của các chủ thể tiến hành tố tụng. Định tội danh đúng thể hiện hoạt động có hiệu quả của các cơ quan này, qua đó góp phần nâng cao uy tín, chất lượng hoạt động tố tụng cũng như tăng cường và đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa. Thứ ba, định tội danh đúng là cơ sở quan trọng đảm bảo cho việc áp dụng các quy định của pháp luật TTHS về thời hạn điều tra, các biện pháp ngăn chặn cũng như các biện pháp khác ảnh hưởng đến quyền con người, quyền công dân, tôn trọng và đảm bảo thực hiện có hiệu quả quyền bào chữa của bị can, bị cáo, người bị tạm giữ trong, đặc biệt là đối với những trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa tham gia. Thứ tư, định tội danh đúng góp phần nâng cao chất lượng hiệu quả công tác đấu tranh, phòng, chống tội phạm thông qua việc ghi nhận và xác định chính xác về tình hình tội phạm, nhân thân người phạm tội, từ đó tìm ra nguyên nhân và đề xuất các giải pháp phòng ngừa. Một trong những mục tiêu chính của chuyên ngành tội phạm học là tìm hiểu về thực trạng tội phạm, thông qua việc nghiên cứu thực trạng mà tìm ra nguyên nhân, giải pháp phòng ngừa cũng như đẩy lùi tình hình tội phạm trong tương lai. Việc nhận thức và đánh giá đúng về tội danh của người phạm tội có thể là căn cứ quan trọng để đảm bảo đưa ra các biện pháp phòng ngừa tội phạm thích hợp. 1.2. Lý luận về định tội danh Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 1.2.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của việc định tội danh Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Khái niệm định tội danh Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Như đã đề cập ở phần trên, định tội danh nói chung là quá trình hoạt động có tính tư duy logic, là việc đánh giá, xem xét sự phù hợp giữa hành vi phạm tội xảy ra trên thực tế với các yếu tố cấu thành tội phạm trong nội dung của từng điều luật cụ thể xem có thỏa mãn hay không để từ đó có cách giải quyết phù hợp, đưa ra hình 12
  19. phạt tương xứng với mức độ của hành vi phạm tội. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là tội phạm được quy định tại chương Các tội xâm phạm sở hữu của BLHS, người phạm tội có hành vi vay, mượn, thuê tài sản của người khác thông qua các hình thức hợp đồng hợp pháp rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn nhằm chiếm đoạt tài sản, hoặc sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng hoàn trả tài sản, giá trị tài sản bị chiếm đoạt được xác định từ mức bốn triệu đồng trở lên hoặc dưới bốn triệu đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp được quy định: Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc bị kết án về hành vi chiếm đoạt, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc gây hậu quả nghiêm trọng. Có thể thấy, việc định tội danh Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản tương tự như các tội phạm khác cũng là quá trình hoạt động của các chủ thể tiến hành tố tụng sử dụng các quy định của pháp luật hình sự và pháp luật TTHS, đánh giá sự phù hợp giữa hành vi, xác định hành vi của người phạm tội có thỏa mãn các yếu tố cấu thành của Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 140 BLHS hay không, trên cơ sở đó đưa ra nhận định chính xác về tội danh cũng như mức hình phạt mà người phạm tội phải gánh chịu. Tóm lại, định tội danh Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được hiểu là dạng hoạt động của nhận thức, là quá trình áp dụng pháp luật của các chủ thể có thẩm quyền nhằm xác định sự phù hợp giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện với các dấu hiệu cấu thành cụ thể của Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 140 BLHS, xác định chính xác người thực hiện hành vi có phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản hay không để buộc người đó phải gánh chịu trách nhiệm hình sự tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi mà mình đã thực hiện. Khái niệm này là cơ sở quan trọng giúp xác định các đặc điểm cụ thể của hoạt động định tội danh đối với tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Từ định nghĩa trên có thể rút ra các đặc điểm của định tội danh Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản như sau: 13
  20. Một là, định tội danh Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hoạt động có tính logic. Tính logic được thể hiện ở quá trình cơ quan có thẩm quyền tiến hành các hoạt động cần thiết trước khi đưa ra kết luận về tội danh của người thực hiện hành vi, đó là quá trình so sánh, đối chiếu sự phù hợp giữa hành vi với các yếu tố cấu thành tội phạm của Điều 140 BLHS để tìm ra điểm tương đồng, trên cơ sở đó kết luận hành vi có phải tội phạm hay không, là Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản hay tội phạm khác. Hai là, định tội danh Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hoạt động áp dụng pháp luật trong thực tiễn được tiến hành bởi các chủ thể tiến hành tố tụng và một số chủ thể có thẩm quyền khác theo quy định của pháp luật TTHS. Định tội danh nói chung và đối với Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nói riêng là quá trình phức tạp đòi hỏi khi thực hiện phải có sự hỗ trợ tích cực từ các biện pháp nghiệp vụ cần thiết, do vậy, muốn đảm bảo tính chính xác trong việc định tội danh Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì hoạt động này phải được tiến hành bởi các chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng gồm CQĐT, VKS,Tòa án và một số cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật. Các chủ thể này ngoài việc được trang bị vốn kiến thức nhất định về pháp luật còn được phép sử dụng tất cả các công cụ cần thiết cũng như biện pháp nghiệp vụ mà pháp luật cho phép trên cơ sở trình tự, thủ tục được pháp luật TTHS quy định để xác định sự tương thích giữa hành vi phạm tội và dấu hiệu cấu thành của Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, trên cơ sở đó có quyết định đúng đắn về mặt tội danh đối với người phạm tội để đưa ra mức hình phạt hợp lý. Ba là, hoạt động định tội danh Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là một dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật và cần thiết phải đảm bảo tính chính xác tuyệt đối, việc đưa ra nhận định sai trong trường hợp này là nguyên nhân dẫn đến tình trạng oan, sai, bỏ lọt tội phạm trong thực tiễn, do đó cần được tiến hành tuần tự qua các bước khác nhau [43]: Bước 1: Xác định hành vi nguy hiểm cho xã hội. Với Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, việc xác định có hay không có hành vi phạm tội xảy ra là vấn đề 14