Luận văn Định tội danh tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Định

pdf 86 trang vuhoa 24/08/2022 10340
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Định tội danh tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Định", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_dinh_toi_danh_toi_giet_nguoi_theo_phap_luat_hinh_su.pdf

Nội dung text: Luận văn Định tội danh tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Định

  1. BÙI KIM CHÂU NGHĨA VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI BÙI KIM CHÂU NGHĨA LUẬT HÌNH SỰ TỐVÀ TỤNG HÌNH SỰ ĐỊNH TỘI DANH TỘI GIẾT NGƯỜI THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH ĐỊNH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC KHÓA V I ĐỢT 1 NĂM 201 5 HÀ NỘI - 2017
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI BÙI KIM CHÂU NGHĨA ĐỊNH TỘI DANH TỘI GIẾT NGƯỜI THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH ĐỊNH Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN TRUNG THÀNH HÀ NỘI - 2017
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI 6 1.1 Những vấn đề lý luận về tội giết người 6 1.2 Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội giết người 25 CHƯƠNG 2: ĐỊNH TỘI DANH TỘI GIẾT NGƯỜI THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TRONG THỰC TIỄN XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI Ở ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH ĐỊNH 34 2.1 Khái quát lý luận về định tội danh đối với tội giết người 34 2.2 Thực trạng định tội danh đối với tội giết người của Tòa án cấp sơ thẩm tỉnh Bình Định 42 CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ĐỊNH TỘI DANH ĐÚNG ĐỐI VỚI TỘI GIẾT NGƯỜI 61 3.1 Nhu cầu và những yếu tố đảm bảo cho việc định tội danh đối với tội giết người 61 3.2 Các giải pháp đảm bảo cho việc định tội danh đúng với tội giết người 62 KẾT LUẬN 76 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 78
  4. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật hình sự CQĐT Cơ quan điều tra HĐTP Hội đồng thẩm phán HĐXX Hội đồng xét xử TAND Tòa án nhân dân TNHS Trách nhiệm hình sự TTHS Tố tụng hình sự VKSND Viện kiểm sát nhân dân XHCN Xã hội chủ nghĩa
  5. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Định tội danh là một vấn đề phức tạp trong khoa học pháp lý hình sự. Quá trình giải quyết vụ án hình sự cần đảm bảo sự khách quan, khoa học và chính xác. Định tội danh đúng là yếu tố đảm bảo cho việc truy cứu TNHS đối với người phạm tội đúng theo các điều khoản tương ứng của BLHS, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Trong giai đoạn hiện nay, khi mà công cuộc cải cách tư pháp đang được triển khai thực hiện trong hệ thống các cơ quan tư pháp theo tinh thần của Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, thì việc định tội danh đúng càng trở nên bức thiết nhằm phục vụ hiệu quả cho tiến trình cải cách tư pháp và bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự. Định tội danh là hoạt động mang tính chất quyết định, xác định một người có tội hay không có tội. Đây là nội dung cơ bản của việc áp dụng pháp luật hình sự trong quá trình xét xử và là một trong những biện pháp đưa các quy phạm pháp luật vào cuộc sống. Trên cơ sở xác định người phạm tội đã thực hiện hành vi phạm tội gì, quy định tại điều, khoản nào của Bộ luật hình sự, cơ quan có thẩm quyền sẽ quyết định một hình phạt phù hợp đối với hành vi phạm tội đó. Vì thế, định tội được xem là tiền đề, điều kiện cho việc quyết định hình phạt đúng đắn, góp phần mang lại hiệu quả trong phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm. Việc định tội danh không đúng, không truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật sẽ làm hạn chế mục đích mà BLHS khi ban hành hướng đến. Trong trường hợp định tội không chính xác, mặc dù mức hình phạt có thể đã tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện nhưng việc kết án sai tội danh sẽ liên quan đến nhiều hậu quả pháp lý khác mà bị cáo phải gánh chịu như: xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm, tính thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, thời hạn xác định án tích. 1
  6. Thực tiễn xét xử các vụ án hình sự ở tỉnh Bình Định cho thấy các cơ quan tiến hành tố tụng còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong việc định tội danh, nhất là đối với tội giết người. Trong thời gian gần đây tình hình tội phạm giết người trong cả nước, trong đó có tỉnh Bình Định do nhiều nguyên nhân nên có xu hướng gia tăng, diễn biến phức tạp, với nhiều thủ đoạn tinh vi xảo quyệt, có sự chuẩn bị trước, có tổ chức, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Tội giết người với tính chất côn đồ, hung hãn, trắng trợn, xem thường tính mạng con người không những gây nên đau thương tang tóc cho gia đình nạn nhân mà còn để lại gánh nặng cho xã hội, gia đình và gây bất bình trong quần chúng nhân dân, gây mất an ninh trật tự, tạo ra tâm lý hoang mang, lo lắng cho quần chúng nhân dân tại địa phương và làm cho giá trị đạo đức con người Việt Nam ngày càng giảm sút. Đã đến lúc cần có biện pháp phòng, chống kịp thời hành vi nguy hiểm đó nhằm bảo vệ tính mạng của con người, bảo vệ giá trị đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc việt Nam. Do vậy, cần xác định đúng tội danh đối với tội phạm này để trừng trị nghiêm khắc, không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội. Với lý do nêu trên, tác giả chọn đề tài: “Định tội danh tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Định”, để nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ Luật học, chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Định tội danh đúng có ý nghĩa rất to lớn về mặt chính trị- xã hội, đạo đức và pháp luật. Vì vậy mà vấn đề định tội đã được rất nhiều chuyên gia luật hình sự của nước ta quan tâm nghiên cứu, trong đó phải kể đến một số công trình nghiên cứu như: Một số vấn đề lý luận chung về định tội danh, Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), PGS.TS Lê Cảm, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2003 [5]; Bình luận khoa học chuyên sâu Bộ luật hình sự (Phần các tội phạm), Th.s Đinh Văn Quế, NXB TP HCM, năm 2005 2
  7. [26]; Định tội danh (lý luận, lời giải mẫu và 500 bài tập), Lê Cảm - Trịnh Quốc Toản, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2011; Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) GS.TS Võ Khánh Vinh, NXB Công an nhân dân, năm 2015 [46]; và một số luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ như: Đỗ Đức Hồng Hà, Luận án tiến sĩ Luật học “Tội giết người trong Bộ luật Hình sự Việt Nam” [17]; Phan Thái Bình, Luận văn thạc sĩ Luật học “Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” [3], Hầu hết những công trình khoa học nêu trên chủ yếu vi nghiên cứu vấn đề định tội danh nói chung hoặc nghiên cứu định tội danh đối với một số tội phạm cụ thể, trong đó có tội giết người ở những địa bàn khác nhau. Tuy nhiên, vấn đề định tội danh đối với tội giết người từ thực tiễn tỉnh Bình Định chưa có một công trình nào nghiên cứu. Do vậy đề tài này không trùng với bất cứ công trình luận án, luận văn nào đã được công bố. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1 Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội giết người và thực trạng định tội danh đối với tội phạm này, luận văn hướng tới mục đích đưa ra các giải pháp đảm bảo định tội danh đúng đối với tội giết người trong thực tiễn xét xử của Tòa án trên địa bàn tỉnh Bình Định. 3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được những mục đích trên trong quá trình nghiên cứu đề tài cần giải quyết các nhiệm vụ cụ thể sau: - Phân tích làm rõ những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật hình sự ở Việt Nam về tội giết người. - Phân tích khái niệm và yêu cầu của định tội danh đối với tội giết người. 3
  8. - Thông qua một số vụ án điển hình về giết người đã được giải quyết trong thực tiễn tại tỉnh Bình Định để đánh giá thực trạng định tội danh trong hoạt động xét xử sơ thẩm của TAND đối với tội giết người trên địa bàn tỉnh Bình Định. Từ đó, đề xuất các giải pháp đảm bảo định tội danh đúng đối với tội giết người trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1 Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những luận điểm khoa học, quy định của pháp luật và thực tiễn định tội danh đối với tội giết người của TAND cấp sơ thẩm tỉnh Bình Định. 4.2 Phạm vi nghiên cứu Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề định tội danh đối với tội giết người quy định tại Điều 93 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) của TAND cấp sơ thẩm tỉnh Bình Định trong thời gian từ năm 2011 đến năm 2015. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước; quan điểm, đường lối xử lý các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm nói chung và tội giết người nói riêng. Trong quá trình nghiên cứu, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể phù hợp với từng nội dung nghiên cứu như: phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích, tổng hợp và phương pháp thống kê, kết hợp với xem xét vụ án trên thực tế tại địa phương để chứng minh và làm rõ vấn đề nghiên cứu. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 4
  9. Lần đầu tiên có một đề tài nghiên cứu về lý luận đầy đủ, toàn diện về công tác định tội danh tội giết người trên địa bàn tỉnh Bình Định. Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện và làm phong phú thêm lý luận về định tội danh tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam. Bên cạnh việc hoàn thiện về mặt lý luận, với việc vận dụng và đưa vào phân tích các vụ án cụ thể, rút ra những vướng mắc thường gặp trong quá trình định tội danh đối với loại tội phạm này, luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, học tập ở các cơ sở đào tạo chuyên ngành Luật và trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự khi điều tra, truy tố, xét xử các vụ án về tội giết người. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có cấu trúc gồm 3 chương, cụ thể như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội giết người. Chương 2: Định tội danh tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam trong thực tiễn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự về tội giết người ở địa bàn tỉnh Bình Định. Chương 3: Giải pháp đảm bảo định tội danh đúng đối với tội giết người. 5
  10. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI 1.1 Những vấn đề lý luận về tội giết người 1.1.1 Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội giết người 1.1.1.1 Khái niệm tội giết người Trong khoa học luật hình sự Việt Nam, cho đến nay, vẫn chưa có nhận thức thống nhất để định nghĩa như thế nào là tội giết người. Do vậy, còn có các quan điểm khác nhau xoay quanh khái niệm tội giết người. Có quan điểm cho rằng: “Tội giết người là hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của người khác một cách trái pháp luật” [49, tr.83]; quan điểm khác lại cho rằng: “Tội giết người là hành vi trái pháp luật của người đủ năng lực trách nhiệm hình sự cố ý tước bỏ quyền sống của người khác” [25, tr.67]. Cả hai quan điểm trên đều chưa hợp lý ở chỗ: chưa đề cập đến dấu hiệu năng lực TNHS và dấu hiệu độ tuổi của chủ thể tội giết người (quan điểm thứ nhất) hoặc chỉ đề cập đến dấu hiệu năng lực TNHS mà không đề cập đến dấu hiệu độ tuổi (quan điểm thứ hai). Để khắc phục hạn chế này, quan điểm thứ ba cho rằng: “Tội giết người là hành vi cố ý gây ra cái chết cho người khác một cách trái pháp luật, do người có năng lực TNHS và đạt độ tuổi luật định thực hiện” [17, tr.38]. Điều 93 BLHS năm 1999 mặc dù không quy định khái niệm tội giết người, nhưng dựa trên khái niệm về tội phạm được quy định tại Điều 8 BLHS ta có thể suy ra như sau: “Tội giết người là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý xâm phạm tính mạng của người khác một cách trái pháp luật”. Hay có thể định nghĩa tội giết người như sau: Tội giết người là hành vi gây ra cái chết cho người khác, do người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu 6
  11. TNHS thực hiện một cách cố ý xâm phạm tính mạng của người khác một cách trái pháp luật. 1.1.1.2 Các dấu hiệu pháp lý của tội giết người Để truy cứu TNHS đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội thì phải xác định được hành vi mà người đó đã thực hiện có được quy định trong BLHS hay không, nếu có thì là tội gì. Căn cứ để xác định tội danh và quyết định hình phạt cho tương xứng là dựa vào các dấu hiệu pháp lý cấu thành tội phạm là khách thể, mặt khách quan, chủ thể và mặt chủ quan của tội phạm. Phân tích quy định của tội giết người tại Điều 93 BLHS năm 1999 thấy được tội phạm giết người có các dấu hiệu pháp lý sau đây: - Khách thể của tội giết người Đối với tội giết người, khách thể mà tội phạm này hướng đến là một trong những khách thể quan trọng nhất được luật hình sự bảo vệ, đó là quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người. Tội giết người xâm phạm quyền sống của con người thông qua sự tác động biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động – con người đang sống, đang tồn tại trong thế giới khách quan với tư cách là thực thể tự nhiên và xã hội. Cuộc sống của con người bắt đầu từ khi họ được sinh ra và kết thúc khi sự sống của họ thực sự chấm dứt. Việc xác định đúng đối tượng tác động của tội giết người có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Bởi lẽ, nếu hành vi nào đó tác động vào đối tượng không phải hay chưa phải là con người thì không xâm phạm đến quyền sống của con người nên không phạm tội giết người. - Mặt khách quan của tội giết người Mặt khách quan của tội giết người là những biểu hiện của tội giết người diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan, bao gồm: hành vi khách quan của tội giết người, hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội giết người và 7
  12. mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả nguy hiểm cho xã hội và những biểu hiện khách quan khác của hành vi giết người như: thời gian, địa điểm, công cụ, phương tiện, thủ đoạn thực hiện hành vi Hành vi khách quan của tội giết người là những biểu hiện của con người ra ngoài thế giới khách quan có sự kiểm soát của ý thức và sự điều khiển của ý chí. Đây là điều kiện cần, còn điều kiện đủ là hành vi đó phải có khả năng gây ra cái chết, chấm dứt sự sống của người khác một cách trái pháp luật. Hay nói cách khác, hành vi khách quan của tội giết người là hành vi tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác bằng mọi hình thức. Những hành vi gây ra cái chết cho người khác được thực hiện trong những trường hợp pháp luật cho phép thì không phải là hành vi giết người. Ví dụ: hành vi tước đoạt tính mạng của người khác được thực hiện trong trường hợp phòng vệ chính đáng (Điều 15 BLHS) hoặc trong trường hợp thi hành bản án tử hình (Điều 259 BLHS). Ngoài hai trường hợp nói trên, theo pháp luật Việt Nam, mọi hành vi khác tước bỏ quyền sống của người khác, kể cả được sự đồng ý của nạn nhân đều là trái pháp luật. Hành vi tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác có thể được thực hiện bằng hành động hoặc không hành động. Hậu quả của tội giết người chính là thiệt hại do hành vi phạm tội giết người gây ra cho quan hệ nhân thân, cho quyền sống của con người. Thiệt hại này được thể hiện dưới dạng thiệt hại về thể chất – gây ra cái chết cho người khác. Tội giết người được nhà lập pháp xây dựng dưới dạng cấu thành tội phạm vật chất, do vậy trong mặt khách quan của tội phạm, hậu quả chết người là dấu hiệu bắt buộc. Nghiên cứu xác định hậu quả của tội giết người có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định thời điểm tội phạm hoàn thành. Tội giết người được coi là hoàn thành chỉ trong trường hợp khi có hậu quả chết người xảy ra, thời điểm nạn nhân đã chết sinh vật – giai đoạn cuối cùng của sự chết 8
  13. mà ở đó sự sống của con người không có khả năng phục hồi. Nếu hành vi tước đoạt tính mạng của người khác được thực hiện, nhưng vì những nguyên nhân khách quan khác nhau dẫn đến hậu quả chết người chưa xảy ra thì hành vi đó bị coi là hành vi phạm tội giết người chưa đạt hoặc là tội cố ý gây thương tích, tùy thuộc vào lỗi của người phạm tội. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan của tội giết người và hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Về nguyên tắc, người phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm về hậu quả nguy hiểm cho xã hội do chính hành vi của mình gây ra. Nghĩa là hành vi tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác là nguyên nhân của hậu quả chết người đã xảy ra. Hành vi tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác được coi là nguyên nhân gây ra hậu quả chết người nếu thỏa mãn ba điều kiện: Thứ nhất, hành vi tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác xảy ra trước hậu quả về mặt thời gian; Thứ hai, hành vi tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác độc lập trong mối liên hệ tổng hợp với một hay nhiều hiện tượng khác phải chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả chết người; Thứ ba, hậu quả chết người đã xảy ra đúng là sự hiện thực hóa khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả của hành vi tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác hoặc là khả năng trực tiếp làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động. Xác định đúng nguyên nhân dẫn đến hậu quả chết người không những giúp các cơ quan tiến hành tố tụng làm sáng tỏ vấn đề có hành vi giết người xảy ra hay không mà còn có thể kết luận ai là người đã thực hiện hành vi đó; tránh tình trạng xác định không đúng mối quan hệ nhân quả dẫn đến tình trạng oan, sai hoặc bỏ loạt tội phạm. Ngoài ra, nghiên cứu nguyên nhân dẫn đến hậu quả chết người còn có ý nghĩa trong việc định tội danh và phân biệt tội giết người với các tội phạm khác có cùng dấu hiệu hậu quả chết người. 9
  14. Ngoài ra, mặt khách quan của tội phạm còn có những biểu hiện khác như: thời gian, địa điểm, phương tiện, hoàn cảnh phạm tội và tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể mà chúng ta xét những yếu tố này. - Chủ thể của tội giết người Chủ thể của tội phạm nói chung và tội giết người nói riêng là con người có đủ điều kiện để có lỗi khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Người có đủ điều kiện để có lỗi, để trở thành chủ thể của tội phạm phải là người có năng lực TNHS, năng lực nhận thức được ý nghĩa xã hội của hành vi và năng lực điều khiển hành vi theo đòi hỏi tất yếu của xã hội. Để có được năng lực này con người phải đạt độ tuổi nhất định. Theo quy định tại khoản 3 Điều 8 và khoản 2 Điều 12 thì chủ thể của tội giết người là những người từ đủ 14 tuổi trở lên. Quy định này dựa trên cơ sở nghiên cứu tâm sinh lý con người Việt Nam, truyền thống lập pháp và chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Như vậy, chủ thể của tội giết người phải là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi do pháp luật quy định (đủ 14 tuổi trở lên). - Mặt chủ quan của tội giết người Nếu như mặt khách quan của tội giết người là những biểu hiện diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan thì mặt chủ quan của tội giết người lại là diễn biến tâm lý bên trong của người phạm tội, bao gồm lỗi, động cơ, mục đích phạm tội. Trong các dấu hiệu này, lỗi là dấu hiệu duy nhất bắt buộc phải có trong mặt chủ quan của cấu thành tội giết người. Lỗi của người phạm tội giết người là thái độ tâm lý của họ đối với hành vi gây ra cái chết cho người khác một cách trái pháp luật và đối với hậu quả chết người do hành vi đó gây ra, được biểu hiện dưới hình thức cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp. Người thực hiện hành vi gây ra cái chết cho người khác 10
  15. một cách trái pháp luật chỉ bị coi là có lỗi nói chung và lỗi cố ý nói riêng nếu hành vi đó là kết quả của sự lựa chọn của họ, trong khi họ có đủ điều kiện khách quan và chủ quan để chọn lựa và thực hiện xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội. Như vậy, lỗi của người phạm tội giết người chỉ đặt ra cho những trường hợp trong đó chủ thể có khả năng xử sự không gây ra cái chết cho người khác, nhưng chủ thể đã không lựa chọn khả năng này. Nghiên cứu và xác định đúng dấu hiệu lỗi trong cấu thành tội phạm tội giết người sẽ giúp phân biệt tội phạm này với tội phạm khác cũng gây ra hậu quả chết người. Xác định đúng hình thức lỗi không chỉ có ý nghĩa trong định tội danh mà còn có ý nghĩa quan trọng trong việc quyết định hình phạt. Khác với dấu hiệu lỗi, trong mặt chủ quan của tội giết người động cơ, mục đích phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm tội giết người. Hành vi giết người có mục đích chống chính quyền nhân dân cấu thành tội khủng bố theo Điều 84 BLHS. Trong một số trường hợp, động cơ, mục đích phạm tội được quy định là tình tiết định khung tăng nặng. 1.1.1.3 Các dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng a. Giết nhiều người Giết nhiều người là trường hợp người phạm tội có ý định giết từ hai người trở lên. Việc giết nhiều người có thể được thực hiện một lần hoặc nhiều lần khác nhau. Thông thường, việc giết nhiều người được thực hiện cùng một lúc. b. Giết phụ nữ mà biết là có thai Giết phụ nữ mà biết là có thai là trường hợp nạn nhân bị giết là phụ nữ đang có thai (không kể tháng thứ mấy) và bản thân người phạm tội khi thực hiện hành vi giết người biết rõ điều đó (có thể tự nhận biết hoặc do nghe người khác nói). c. Giết trẻ em 11
  16. Giết trẻ em là trường hợp nạn nhân bị giết là người dưới 16 tuổi. Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi nói chung và giết người dưới 16 tuổi nói riêng không phải là tình tiết thuộc ý thức chủ quan của người phạm tội mà là tình tiết khách quan, do đó không cần người phạm tội phải nhận thức được hoặc buộc họ phải nhận thức được đối tượng mà mình xâm phạm là người dưới 16 tuổi mới coi là tình tiết tăng nặng. d. Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân Giết người đang thi hành công vụ là trường hợp người bị giết là người đang thi hành công vụ. Công vụ được hiểu là công việc vì lợi ích chung do những người có thẩm quyền thực hiện. Nạn nhân bị giết phải là lúc họ đang thực hiện nhiệm vụ đúng pháp luật thì người phạm tội mới bị coi là phạm tội trong trường hợp “giết người đang thi hành công vụ”. Giết người vì lý do công vụ của nạn nhân khác với trường hợp giết người đang thi hành công vụ, nạn nhân bị giết trong trường hợp này không phải lúc họ đang thi hành công vụ mà có thể trước hoặc sau đó. đ. Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình Đây là trường hợp giết người mang tính chất phản trắc, bội bạc. Hành vi này không chỉ vi phạm pháp luật, vi phạm nghiêm trọng đạo đức mà còn phản ánh khả năng giáo dục, cải tạo của can phạm – một con người vô ơn, bội nghĩa, mất hết nhân tính, giết hại cả những người mà mình phải tôn thờ, kính trọng. Việc nhà làm luật coi trường hợp “Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình” là trường hợp định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự là xuất phát từ truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam, truyền thống tôn sư trọng đạo nhằm giáo dục ý thức tôn trọng ông bà, cha mẹ, người nuôi dưỡng, thầy cô giáo của mình; giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật và giữ gìn đạo đức xã hội. 12
  17. e. Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng Là trường hợp trước hoặc ngay sau khi giết người, người phạm tội lại phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng. Tuy chưa có giải thích hoặc hướng dẫn thế nào là liền trước đó hoặc ngay sau đó, nhưng qua thực tiễn xét xử chỉ coi là liền trước hoặc ngay sau đó hành vi giết người, nếu như tội phạm được thực hiện trước đó hoặc sau đó hoặc sau đó về thời gian phải liền kề với hành vi giết người có thể trong khoảng thời gian vài giờ đồng hồ hoặc cùng lắm là trong ngày; nếu tội phạm mà người phạm tội thực hiện trước đó hoặc sau đó có khoảng cách nhất định không còn liền với hành vi giết người thì không coi là giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng quy định tại điểm e khoản 1 Điều 93 BLHS. g. Giết người để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác Đây là trường hợp giết người mà động cơ thúc đẩy người phạm tội có hành vi giết người là việc thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác. Tội phạm trong trường hợp này là một tội bất kỳ trong BLHS, không phân biệt tội đó là ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng, và tất nhiên tội phạm khác ở đây không phải là tội giết người. Trường hợp giết người để thực hiện tội phạm khác thì người phạm tội muốn có điều kiện thực hiện một tội phạm khác bằng cách giết người có khả năng gây khó khăn, cản trở họ thực hiện tội phạm. Hành vi giết người là điều kiện, tiền đề để thực hiện tội phạm sau. Trường hợp giết người để che giấu tội phạm khác là trường hợp người phạm tội giết người sau khi thực hiện một hoặc nhiều tội phạm khác nhưng vì sợ bị phát hiện, tố cáo nên đã giết người. Việc giết người trong trường hợp này được thực hiện sau khi đã phạm một hoặc nhiều tội phạm khác. 13
  18. h. Giết người để lấy bộ phận cơ thể nạn nhân Giết người để lấy bộ phận cơ thể nạn nhân là trường hợp giết người có động cơ phạm tội là việc chiếm đoạt bộ phận cơ thể nạn nhân nhằm thay thế bộ phận đó cho mình hoặc người thân của mình hoặc để trao đổi, bán cho người khác dùng vào việc thay thế bộ phận đó. Nếu vì quá căm tức mà người phạm tội sau khi giết người đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân để nhằm mục đích khác cho hả giận thì không thuộc trường hợp phạm tội này. i. Thực hiện tội phạm một cách man rợ Thực hiện tội phạm một cách man rợ là trường hợp giết người một cách man rợ như kẻ phạm tội không còn tính người, dùng những thủ đoạn gây đau đớn cao độ, gây khiếp sợ đối với nạn nhân hoặc gây khủng khiếp, rùng rợn trong xã hội [18]. Tính chất man rợ của hành vi giết người thể hiện ở chỗ làm cho nạn nhân đau đớn, quằn quại trước khi chết như: mổ bụng, moi gan, khoét mắt, chặt người ra từng khúc, xẻo thịt, lột da, tra tấn cho tới chết các hành vi trên, người phạm tội thực hiện trước khi tội phạm hoàn thành, tức là trước khi nạn nhân bị chết. Nếu hành vi trên thực hiện sau khi nạn nhân chết thì không phải là trường hợp giết người một cách man rợ. k. Giết người bằng cách lợi dụng nghề nghiệp Đây là trường hợp người phạm tội đã sử dụng nghề nghiệp (khả năng chuyên môn, nghiệp vụ) của mình để dễ dàng thực hiện hoặc dễ dàng che giấu hành vi giết người, như: bác sĩ lợi dụng nghề nghiệp chữa bệnh để giết bệnh nhân nhưng lập bệnh án là bệnh nhân chết do bệnh hiểm nghèo l. Giết người bằng cách có khả năng làm chết nhiều người Cách có khả năng làm chết nhiều người là nói đến tính năng, tác dụng của phương tiện, công cụ hoặc thủ đoạn mà người phạm tội sử dụng khi phạm tội có tính nguy hiểm cao, có thể gây chết nhiều người, như: giết người bằng cách ném lựu đạn vào chỗ đông người, bỏ thuốc độc vào bể nước nhằm giết 14
  19. một người mà người phạm tội mong muốn. Hậu quả của hành vi sử dụng cách này có khả năng làm chết nhiều người chứ không đòi hỏi phải có hậu quả xảy ra là nhiều người đã chết. m. Thuê giết người hoặc giết người thuê Thuê giết người là trường hợp người phạm tội lợi dụng lợi ích vật chất thuê người khác thực hiện hành vi giết người theo ý muốn của mình. Người trực tiếp giết người trong trường hợp này là người giết thuê. Thuê giết người và người giết thuê có mối liên hệ mật thiết với nhau, cái này là tiền đề của cái kia, thiếu một trong hai cái thì không có trường hợp giết người này xảy ra. Giết người thuê là trường hợp người phạm tội lấy việc giết người làm phương tiện để kiếm tiền hoặc lợi ích vật chất khác, vì muốn có lợi ích vật chất nên người phạm tội đã nhận lời với người thuê mình để giết người khác. n. Giết người có tính chất côn đồ Giết người có tính chất côn đồ là trường hợp khi giết người, người phạm tội rõ ràng đã coi thường những quy tắc trong cuộc sống, có tính hung hãn cao độ, có những hành vi ngang ngược, coi thường tính mạng của người khác, giết người vô cớ hoặc cố tình sử dụng những nguyên cớ nhỏ nhặt để giết người. Tuy nhiên, việc xác định trường hợp giết người có tính chất côn đồ không phải bao giờ cũng dễ dàng như các trường hợp giết người khác được quy định tại khoản 1 Điều 93 BLHS. Khi xác định trường hợp giết người có tính chất côn đồ cần phải có quan điểm xem xét toàn diện, tránh xem xét một cách phiến diện như: chỉ nhấn mạnh đến nhân thân người phạm tội, hoặc chỉ nhấn mạnh đến địa điểm xảy ra vụ giết người, hay chỉ nhấn mạnh đến hành vi cụ thể gây ra cái chết cho nạn nhân, đâm nhiều nhát dao vào người nạn nhân là có tính chất côn đồ, nhưng có trường hợp người phạm tội chỉ đâm một nhát trúng tim nạn nhân chết ngay cũng có tính chất côn đồ. Cần xem xét đến mối quan hệ giữa người 15
  20. phạm tội với nạn nhân, thái độ người phạm tội khi gây án, nguyên nhân nào dẫn đến việc người phạm tội giết người o. Giết người có tổ chức Giết người có tổ chức là trường hợp nhiều người tham gia vào một vụ giết người, có sự cấu kết chặt chẽ giữa các chủ thể cùng thực hiện việc giết người, có sự phân công, có người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc giết người. Nếu nhiều người cùng tham gia vào một vụ án giết người nhưng không có sự cấu kết chặt chẽ, mà chỉ có sự đồng tình có tính chất hời hợt thì không phải là giết người có tổ chức. Khi đã xác định giết người có tổ chức thì tất cả những người cùng tham gia vụ giết người dù ở vai trò nào (chủ mưu, thực hành, giúp sức hay xúi giục) đều bị coi là giết người có tổ chức. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt (cá thể hóa hình phạt) thì phải căn cứ vào vai trò, vị trí của từng người tham gia vào vụ án. p. Giết người thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm Giết người thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm là trường hợp giết người thỏa mãn các điều kiện được quy định tại khoản 2 Điều 49 BLHS. Tức là trường hợp trước khi giết người người phạm tội đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng, chưa được xóa án tích hoặc đã tái phạm và chưa được xóa án tích. q. Giết người vì động cơ đê hèn Giết người vì động cơ đê hèn là trường hợp giết người mà tính chất của động cơ phạm tội đã là mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi giết người tăng lên đáng kể so với những trường hợp bình thường. Động cơ đê hèn của người phạm tội giết người được xác định qua việc tổng kết kinh nghiệm xét xử nhiều năm của nước ta. Thực tiễn xét xử đã coi những trường hợp sau đây là giết người vì động cơ đê hèn: 16
  21. - Giết vợ hoặc chồng để tự do lấy vợ hoặc chồng khác; - Giết chồng để lấy vợ hoặc giết vợ để lấy chồng nạn nhân; - Giết người tình mà biết họ đã có thai với mình để trốn tránh trách nhiệm; - Giết chủ nợ để trốn nợ; - Giết người để cướp của; - Giết người là ân nhân của mình. Ngoài các trường hợp đã nêu trên, thực tiễn xét xử còn có các trường hợp sau đây cũng nên coi là hành vi giết người vì động cơ đê hèn. Đó là trường hợp người có hành vi giết người không giết được người mình muốn giết mà giết người thân của họ mà những người này không hề có mâu thuẫn gì với người có hành vi giết người, họ yếu đuối không có khả năng tự vệ như ông bà già, người bị bệnh nặng và trẻ em, họ là bố mẹ, vợ con của người mà người có hành vi giết người định giết nhưng giết không được. 1.1.2 Phân biệt dấu hiệu pháp lý của tội giết người với một số tội phạm khác có liên quan Xét về cấu trúc pháp lý, mỗi tội phạm bao giờ cũng bao gồm đầy đủ bốn yếu tố cấu thành tội phạm và chứa đựng tất cả các dấu hiệu đặc trưng nhất cho một loại tội phạm được quy định trong BLHS. Tuy nhiên, trong một số tội phạm sẽ có sự tương đồng của các dấu hiệu pháp lý giữa các tội phạm đó mà cần phải có sự so sánh, phân biệt chúng một cách rõ ràng để tránh sai lầm nghiêm trọng trong áp dụng pháp luật, nhất là trong định tội danh. Dưới đây là một số tội danh điển hình cần có sự phân biệt đối với tội giết người. 1.1.2.1 Phân biệt dấu hiệu pháp lý của tội giết người theo quy định tại Điều 93 BLHS với tội giết con mới đẻ theo quy định tại Điều 94 BLHS Tội giết người và tội giết con mới đẻ là hai tội được sắp xếp liền kề và thứ tự đầu tiên trong Chương XII quy định về các tội phạm xâm phạm tính 17