Luận văn Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạn tài sản theo luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk

pdf 105 trang vuhoa 25/08/2022 7160
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạn tài sản theo luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_dinh_toi_danh_doi_voi_toi_lua_dao_chiem_doan_tai_sa.pdf

Nội dung text: Luận văn Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạn tài sản theo luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRƢƠNG THỊ ĐÔNG §ÞNH TéI DANH §èI VíI TéI LõA §¶O CHIÕM §O¹T TµI S¶N THEO LUËT H×NH Sù VIÖT NAM (Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh §¾k L¾k) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRƢƠNG THỊ ĐÔNG §ÞNH TéI DANH §èI VíI TéI LõA §¶O CHIÕM §O¹T TµI S¶N THEO LUËT H×NH Sù VIÖT NAM (Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh §¾k L¾k) Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS. ĐẶNG QUANG PHƢƠNG HÀ NỘI - 2015
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn bảo đảm độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận văn Trƣơng Thị Đông
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng Danh mục các biểu đồ MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN 8 1.1. TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 8 1.1.1. Khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản 8 1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản 11 1.2. ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN 17 1.2.1. Khái niệm định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản 17 1.2.2. Đặc điểm định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản 19 1.2.3. Các phương pháp định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản 22 1.2.4. Ý nghĩa của hoạt động định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản 29 Chƣơng 2: THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK 34 2.1. KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH TỈNH ĐẮK LẮK LIÊN QUAN ĐẾN ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN 34 2.1.1. Khái quát tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, dân cư tỉnh Đắk Lắk 34 2.1.2. Tình hình công tác thụ lý, giải quyết án hình sự và kết quả xét xử tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản của Tòa án nhân dân 2 cấp tỉnh Đắk Lắk 36
  5. 2.2. ĐỊNH TỘI DANH VÀ NHỮNG VI PHẠM, SAI LẦM TRONG VIỆC ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TẠI TỈNH ĐẮK LẮK 40 2.2.1. Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong trường hợp tội phạm hoàn thành 40 2.2.2. Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong một số trường hợp khác 45 2.2.3. Những vi phạm, sai lầm trong việc định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và các nguyên nhân 60 Chƣơng 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TẠI TỈNH ĐẮK LẮK 71 3.1. YÊU CẦU NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TẠI TỈNH ĐẮK LẮK 71 3.1.1. Yêu cầu về chính trị - xã hội 71 3.1.2. Yêu cầu về lý luận và thực tiễn 74 3.1.3. Yêu cầu về lập pháp hình sự 76 3.2. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TẠI TỈNH ĐẮK LẮK 79 3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật 79 3.2.2. Giải pháp hướng dẫn thi hành pháp luật, giám đốc xét xử và xây dựng án lệ 82 3.2.3. Nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và làm tốt công tác tổ chức, cán bộ, đặc biệt là đội ngũ Thẩm phán 85 KẾT LUẬN 91 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 94
  6. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 1.1: Những điểm khác biệt cơ bản giữa định tội danh chính thức và định tội danh không chính thức 26 Bảng 2.1: Tình hình công tác thụ lý, giải quyết án hình sự của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2010 – 2014 36 Bảng 2.2: Tình hình công tác thụ lý, giải quyết án lừa đảo chiếm đoạt tài sản của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2010 – 2014 37 Bảng 2.3. Thống kê tội phạm xâm phạm quyền sở hữu xảy ra tại tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2010 – 2014 39 Bảng 3.1: Tình hình tội phạm hình sự xảy ra trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk từ năm 2010 – 2014 74 Bảng 3.2: Một số tồn tại, hạn chế và nguyên nhân cơ bản của Tòa án nhân dân các cấp tỉnh Đắk Lắk trong xét xử tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản giai đoạn 2010 – 2014 77
  7. DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Số hiệu biểu đồ Tên biểu đồ Trang Biểu đồ 2.1: Thể hiện số vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản chiếm 3,4% so với tổng số vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk 37 Biểu đồ 2.2: Thể hiện số người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chiếm 2,6% so với tổng số người phạm tội hình sự trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk 38 Biểu đồ 2.3: Thể hiện số vụ án và số bị cáo phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk có xu hướng tăng dần theo từng năm 38 Biểu đồ 2.4: Cơ cấu tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong nhóm tội xâm phạm sở hữu tại tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2010 – 2014 40 Biểu đồ 3.1: Tỷ lệ vụ án xét xử còn hạn chế thiếu sót trong tổng số vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2010 -2014 77
  8. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã thể hiện tinh thần bảo vệ các quyền con người thông qua nhiều quy định, trong đó có Điều 31 khẳng định: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật ” [30, Điều 31, khoản 1]. Điều 9 Bộ luật Tố tụng hình sự cũng quy định: "Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật" [27, Điều 9]. Điều đó có nghĩa, chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật thì người bị buộc tội vẫn được coi là người chưa có tội. Như vậy, hoạt động xét xử của Tòa án, trong đó có hoạt động định tội danh là hoạt động mang tính chất quyết định, xác định một người có tội hay không có tội. Đây là nội dung cơ bản của việc áp dụng pháp luật hình sự trong quá trình xét xử và là một trong những biện pháp đưa các quy phạm pháp luật vào cuộc sống. Trên cơ sở xác định người phạm tội đã thực hiện hành vi phạm tội gì, quy định tại điều, khoản nào của Bộ luật Hình sự, cơ quan có thẩm quyền (Tòa án) sẽ quyết định một hình phạt phù hợp đối với hành vi phạm tội đó. Vì thế, định tội được xem là tiền đề, điều kiện cho việc quyết định hình phạt đúng đắn, góp phần mang lại hiệu quả trong đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Trong trường hợp định tội không chính xác, mặc dù mức hình phạt có thể đã tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện nhưng việc kết án sai tội danh sẽ liên quan đến nhiều hậu quả pháp lý khác mà bị cáo phải gánh chịu như: xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm, tính thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, thời hạn xác định án tích Thực tiễn xét xử các vụ án hình sự cho thấy các cơ quan tiến hành tố 1
  9. tụng còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong việc định tội danh, đặc biệt là đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Thời gian gần đây tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có xu hướng gia tăng, diễn biến phức tạp, gây thiệt hại nghiêm trọng cho tài sản của Nhà nước, tài sản của công dân, ảnh hưởng đến trật tự chung của xã hội với nhiều thủ đoạn tinh vi từ chủ thể thực hiện tội phạm. Bộ luật Hình sự do Nhà nước ban hành quy định các hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm, tuy vậy những quy định này chỉ nêu lên các dấu hiệu đặc trưng cơ bản nhất của một cấu thành tội phạm, trong khi trên thực tế tội phạm xảy ra vô cùng phức tạp và đa dạng. Có khá nhiều trường hợp khi tập hợp các dấu hiệu thực tế của cấu thành tội phạm có những dấu hiệu giống nhau nên thường dễ bị lúng túng gây nhiều tranh cãi và dẫn đến định tội danh thiếu chính xác: Như dấu hiệu thuộc mặt chủ quan (mục đích chiếm đoạt tài sản) và dấu hiệu thuộc mặt khách quan (dùng thủ đoạn gian dối) trong lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Quá trình giải quyết vụ án một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật, đồng thời bảo vệ một cách vững chắc các quyền và tự do của công dân bằng pháp luật hình sự là một trong những nguyên tắc trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay. Ý thức được tầm quan trọng đó, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk không ngừng đẩy nhanh tiến độ, nâng cao chất lượng giải quyết, xét xử các loại vụ án, phấn đấu không để xảy ra việc kết án oan người không có tội và bỏ lọt tội phạm, hạn chế tới mức thấp nhất các bản án, quyết định bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của Thẩm phán, đảm bảo các quyết định của Tòa án đúng pháp luật, đầy đủ, rõ ràng, dễ hiểu, có sức thuyết phục cao và có tính khả thi. Tuy nhiên, vẫn còn một số trường hợp áp dụng không đúng, chưa xem xét đầy đủ tính chất, mức độ phạm tội nên dẫn đến việc định tội danh thiếu chính xác, việc hủy án, sửa án vẫn còn tồn tại ở tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nhầm lẫn giữa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với 2
  10. tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản làm giảm hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, uy tín của Tòa án nói riêng. Vì vậy, trước tình hình tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản tác động tiêu cực trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội cũng như trước sự đòi hỏi đổi mới của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm về xâm phạm quyền sở hữu đồng thời phục vụ trực tiếp cho công tác thực tiễn xét xử nên tác giả chọn đề tài: "Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk”. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Định tội danh có ý nghĩa rất to lớn về mặt chính trị - xã hội, đạo đức và pháp luật. Vì vậy mà hoạt động định tội đã được đề cập trong rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học của các chuyên gia luật hình sự của nước ta như: - Một số vấn đề lý luận chung về định tội danh, Chương I, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003 của GS.TSKH. Lê Cảm; - Định tội danh - Lý luận, hướng dẫn mẫu và 350 bài tập thực hành, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004, tái bản 2011 của GS.TSKH. Lê Cảm và PGS.TS. Trịnh Quốc Toản; - Luận án tiến sĩ luật học "Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu", Viện Nhà nước và pháp luật, Hà Nội, 2000 của Nguyễn Ngọc Chí; - Một số vấn đề lý luận về định tội danh và hướng dẫn phương pháp định tội danh, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999 của PGS.TS. Trịnh Quốc Toản. Vấn đề lý luận và thực tiễn về định tội danh nói chung và định tội danh đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt nói riêng còn được làm sáng tỏ trong một số bài viết đăng trên tạp chí chuyên ngành như: - Định tội danh - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Tạp chí Tòa án nhân dân các số 3, 4, 5, 8, 11 năm 1999 của GS.TSKH. Lê Cảm; 3
  11. - Yếu tố chức vụ, quyền hạn trong các tội xâm phạm sở hữu; Một số vấn đề đồng phạm trong các tội xâm phạm sở hữu; Đối tượng của các tội xâm phạm sở hữu; Vấn đề định tội danh trong các tội xâm phạm sở hữu, Tạp chí Nhà nước và pháp luật các số 11, 6, 2, 8 năm 1997 của PGS. TS. Nguyễn Ngọc Chí; - Tìm hiểu khái niệm và những đặc trưng cơ bản của tội phạm theo luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 6, 2001 của GS. TSKH. Đào Trí Úc; - Thay đổi định tội danh một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Tạp chí Tòa án nhân dân số 11, 2003 của GS.TS. Võ Khánh Vinh; v.v Những bài nghiên cứu trên đã khái quát được những vấn đề lý luận chung liên quan đến hoạt động định tội danh và thực tiễn định tội; phân tích, đánh giá, nhận định một số nhận định liên quan đến yếu tố định tội danh, đồng thời phân biệt với một số tội phạm trong Bộ luật Hình sự năm 1999 Tuy vậy, hiện nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên biệt về vấn đề định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này là phân tích khoa học để làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về định tội danh nói chung và định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng, từ đó đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Theo đó nhiệm vụ nghiên cứu là làm rõ một số vấn đề sau: - Khái niệm, đặc điểm của định tội danh. - Cơ sở pháp lý, căn cứ pháp lý của việc định tội danh. - Định tội danh trong một số trường hợp đặc biệt. - Đặc điểm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. 4
  12. - Đặc điểm và yêu cầu định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. - Thực trạng định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Về đối tượng nghiên cứu, đề tài tập trung nghiên cứu về thực tiễn định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk trên cơ sở Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung ngày 19/6/2009 và những văn bản pháp luật có liên quan. Về phạm vi nghiên cứu là quy định của Bộ luật Hình sự về tội phạm nói chung và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng; thực tiễn định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản giai đoạn 2010 đến 2014 trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về chủ nghĩa duy vật biện chứng, và duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp quyền, quan điểm, định hướng của Đảng về chính sách hình sự; quan điểm, đường lối xử lý các tội xâm phạm sở hữu nói chung và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng. Phương pháp nghiên cứu bao gồm: phương pháp thống kê, phân tích và tổng hợp số liệu dựa trên những bản án, quyết định, số liệu thống kê, báo cáo tổng kết của các cấp Tòa án. Phương pháp so sánh pháp luật để đối chiếu với các quy định của pháp luật với nhau nhằm tìm ra những điểm mới trong quá trình nghiên cứu. 6. Ý nghĩa của luận văn Trong công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay, việc nghiên cứu để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về định tội danh nói chung và định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng luôn là một trong những hướng cơ bản, đồng thời cũng là một trong những nhiệm vụ 5
  13. trọng tâm của khoa học luật hình sự. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng, được thể hiện trên ba bình diện chủ yếu dưới đây: a) Về mặt lập pháp, bên cạnh các quy định hiện hành như Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, thì các quy định về việc định tội danh nói chung và định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng vẫn còn rời rạc, nằm rải rác trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau như Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT- TANDTC- VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25/12/2001 của Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Công an hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương XIV "Các tội xâm phạm sở hữu của Bộ luật Hình sự năm 1999", Nghị quyết số 01/2001/NQ-HĐTP ngày 15/03/2001 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định của các điều 139, 193, 194, 278, 279, và 289 Bộ luật Hình sự năm 1999 dẫn đến tình trạng thiếu thống nhất, thiếu đồng bộ trong việc giải thích pháp luật. b) Về mặt thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn cả nước nói chung và ở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk nói riêng đã cho thấy sự yếu kém của một bộ phận cán bộ, công chức trong việc nhận thức cũng như áp dụng đúng đắn các quy định của pháp luật hình sự, dẫn đến hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm chưa cao, đôi khi còn bỏ lọt tội phạm, gây thiệt hại cho các quyền và tự do của công dân, làm giảm hiệu quả của cuộc đấu tranh chống tội phạm. c) Về mặt lý luận, vấn đề định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tuy đã được đề cập trong nhiều công trình nghiên cứu khác nhau nhưng hiện chưa có một nghiên cứu nào đề cập đến việc định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Vì vậy: - Thông qua việc nghiên cứu đề tài nhằm làm rõ những khía cạnh pháp 6
  14. lý về định tội danh nói chung và định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại tỉnh Đắk Lắk nói riêng góp phần xây dựng, hoàn thiện trên lý thuyết định tội danh trong khoa học pháp lý hình sự. - Là tài liệu tham khảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng đặc biệt là Tòa án trong việc định tội danh giải quyết vụ án hình sự được đúng đắn. - Là cơ sở để đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự liên quan đến định tội danh nói chung và định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng tại Tòa án tỉnh Đắk Lắk. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương: Chương 1. Những vấn đề chung về định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Chương 2. Thực tiễn định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại tỉnh Đắk Lắk. Chương 3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại tỉnh Đắk Lắk. 7
  15. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN 1.1. TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1.1. Khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản Trong Bộ luật Hình sự Việt Nam, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định trong chương các tội xâm phạm sở hữu. Ở Bộ luật Hình sự năm 1985, lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định hai tội: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa [26, Điều 134] và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản công dân [26, Điều 157]. Tuy nhiên, đến Bộ luật Hình sự năm 1999 chỉ quy định một tội danh lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 139) áp dụng đối với tất cả các hình thức sở hữu. Điều này thể hiện Đảng và Nhà nước ta không còn phân biệt vị trí, vai trò của từng loại hình thức sở hữu mà coi việc kiên quyết đấu tranh với các tội xâm phạm sở hữu với các hình thức khác nhau là nhiệm vụ của toàn xã hội. Nhóm tội xâm phạm sở hữu được chia thành hai nhóm: các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt và các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất chiếm đoạt. Với cách phân chia này, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thuộc nhóm “các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt”. Các tội xâm phạm sở hữu được quy định tại Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 gồm 13 điều thuộc chương XIV. Khoa học luật hình sự đã đưa ra khái niệm chung đối với các tội xâm phạm sở hữu: "Các tội xâm phạm sở hữu là hành vi của người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của Nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân” [27]. Để đưa ra khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, chúng ta cần phải xuất phát từ khái nệm tội phạm quy định tại khoản 1 Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009: 8
  16. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa [29, Điều 8]. Lừa đảo là hành vi gian dối để làm người khác tin nhằm thực hiện những mục đích vụ lợi, trái pháp luật. Động cơ của người thực hiện hành vi lừa đảo là nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác hoặc làm cho người khác hiểu sai sự thật mà tin tưởng ủng hộ mình. Để thực hiện thành công công việc chiếm đoạt tài sản của người khác thì người có hành vi lừa đảo thường sử dụng những lời nói gian dối như: thuyết trình, quảng cáo hay, tốt nhưng tất cả những việc làm đó không đúng với bản chất của vật hoặc sự việc; người lừa đảo còn sử dụng các thủ đoạn và các hành vi gian dối khác như: giả danh người có uy tín, có trách nhiệm, quyền hạn, có địa vị cao trong xã hội hoặc làm giả các loại công văn, giấy tờ, chữ ký của những người có thẩm quyền để làm cho người có tài sản tin tưởng vào họ và giao tài sản [24]. Chiếm đoạt là hành vi cố ý chuyển biến một cách trái pháp luật tài sản của người khác (hoặc của một nhóm người) thành tài sản của mình hoặc cho người khác mà mình quan tâm. Dấu hiệu chiếm đoạt là yếu tố bắt buộc để cấu thành tội phạm của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Dấu hiệu chiếm đoạt được thể hiện qua hình thức mục đích chiếm đoạt hoặc hành vi chiếm đoạt. Hành vi chiếm đoạt là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm đối 9
  17. với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, xét về mặt khách quan hành vi chiếm đoạt là hành vi làm cho chủ tài sản mất hẳn khả năng thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mình và tạo cho người chiếm đoạt có thể thực hiện được việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản đó. Xét về mặt thực tế, chiếm đoạt là quá trình vừa làm cho chủ tài sản mất tài sản vừa tạo cho người chiếm đoạt có tài sản đó; xét về mặt pháp lý, quá trình này không làm cho chủ sở hữu mất quyền sở hữu của mình mà chỉ làm mất khả năng thực tế thực hiện các quyền cụ thể của quyền sở hữu. Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi cố ý chuyển dịch một cách trái pháp luật tài sản đang thuộc quyền sở hữu của người khác thành tài sản của mình. Điểm cơ bản để phân biệt tội này với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt tài sản khác được quy định trong Bộ luật Hình sự bởi đặc điểm của hành vi chiếm đoạt tài sản, cụ thể là: trước khi thực hiện hành vi bằng hình thức lừa đảo, người phạm tội có ý thức chiếm đoạt tài sản từ trước. Tài sản là đối tượng tác động của hành vi chiếm đoạt phải là những tài sản còn nằm trong sự chiếm hữu, quản lý của người chủ tài sản. Để thực hiện được hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì người phạm tội phải có ý định chiếm đoạt tài sản từ trước, sau đó mới dùng thủ đoạn gian dối làm cho chủ sở hữu tài sản tin tưởng trao tài sản cho người phạm tội để chiếm đoạt tài sản. Thủ đoạn gian dối của người phạm tội là căn cứ để người bị hại “tự nguyện” trao tài sản. Như vậy, đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì thủ đoạn gian dối xuất hiện ngay từ đầu, người phạm tội cố ý đưa ra thông tin không đúng sự thật nhằm làm cho người khác tin đó là sự thật nhằm chiếm đoạt tài sản (thủ đoạn gian dối xuất hiện trước hành vi chiếm đoạt). Từ những vấn đề nhận thức trên, tác giả khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được hiểu là: “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt, do người có 10
  18. năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý, bằng các thủ đoạn gian dối làm cho chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản tin nhầm, tưởng giả là thật mà trao tài sản cho họ chiếm hữu, sử dụng, định đoạt trái pháp luật đối với tài sản đó”. 1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản bao gồm: Khách thể của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm, chủ thể của tội phạm và mặt chủ quan của tội phạm. 1.1.2.1. Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại. Khách thể của tội phạm là một trong những vấn đề trung tâm của khoa học luật hình sự. Khách thể của tội phạm là một phần không thể thiếu của bất kỳ một tội phạm nào. Bất kỳ một hành vi phạm tội nào cũng đều xâm hại đến khách thể chung, cũng đều xâm hại đến một trong những quan hệ xã hội nhất định được luật hình sự bảo vệ bằng cách gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội đó. Những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ, đó là: độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa [29, Điều 8]. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xâm phạm quan hệ sở hữu tài sản, các quyền sở hữu mà tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xâm hại bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt đối với tài sản. Đối tượng tác động của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là các loại tài sản được thể hiện dưới hình thức vật 11
  19. chất. Theo quy định tại Điều 163 của Bộ luật Dân sự năm 2005 thì: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản” [28, Điều 163]. Pháp luật bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp nên về nguyên tắc tài sản được luật hình sự bảo vệ phải là tài sản hợp pháp. Nhưng điều đó không có nghĩa những hành vi xâm phạm tài sản bất hợp pháp của công dân khác không bị coi là phạm tội. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, dù tài sản đó là tài sản bất hợp pháp, vẫn bị coi là trái pháp luật và có thể cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, pháp luật hình sự xử lý người phạm tội lừa đảo để bảo vệ quyền sở hữu và để đảm bảo trật tự an toàn chung của xã hội. 1.1.2.2. Mặt khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản Mặt khách quan là mặt bên ngoài của hành vi phạm tội do Luật hình sự quy định. Mặt khách quan của tội phạm bao gồm: hành vi phạm tội, hậu quả nguy hại và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả xảy ra. Ngoài ra, còn có một số dấu hiệu khác cũng đặc trưng cho mặt khách quan của tội phạm đó là hoàn cảnh, thời gian, công cụ, phương tiện phạm tội. Mặt khách quan là yếu tố quan trọng của tội phạm, tính nguy hiểm của tội phạm do tất cả các yếu tố của nó quyết định. Mặt khách quan của tội phạm là một trong bốn yếu tố của tội phạm. không có mặt khách quan thì cũng không có các yếu tố khác của tội phạm và do vậy cũng không có tội phạm. Việc nghiên cứu những tình tiết thuộc mặt khách quan của tội phạm vì thế có ý nghĩa thực tiễn rất lớn. Mặt khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có các dấu hiệu đặc trưng sau: Thứ nhất,dấu hiệu hành vi Hành vi nguy hiểm cho xã hội là nội dung cơ bản nhất và được biểu hiện dưới hai hình thức: - Hành động: là việc chủ thể làm một việc bị pháp luật cấm; 12
  20. - Không hành động: là việc chủ thể không làm một việc mà pháp luật yêu cầu phải làm, mặc dù có đủ điều kiện để làm nhằm tránh nguy cơ gây thiệt hại cho xã hội. Hành vi nguy hiểm cho xã hội ở tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản bao gồm hai hành vi thực tế: hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt tài sản. - Hành vi lừa dối là hành vi cố ý đưa ra thông tin không đúng sự thật nhằm để người khác tin đó là sự thật. Về thủ đoạn gian dối trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có nhiều hình thức thực hiện khác nhau. Việc nghiên cứu các hình thức thực hiện này không có ý nghĩa trong việc định tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nhưng xem xét hình thức thực hiện có giá trị lớn trong công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm này. - Hành vi chiếm đoạt là hành vi cố ý chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang thuộc sự quản lý của chủ tài sản thành tài sản của mình. Hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Hành vi lừa dối tạo điều kiện cho hành vi chiếm đoạt được thực hiện một cách công khai, dễ dàng. Trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thủ đoạn gian dối của người phạm tội bao giờ cũng phải có trước, sau đó mới diễn ra việc giao tài sản giữa người bị hại với người phạm tội. Trường hợp thủ đoạn gian dối có sau khi người phạm tội nhận được tài sản thì không phải là lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trong từng trường hợp cụ thể, thủ đoạn gian dối hình thành sau khi người phạm tội nhận được tài sản có thể là hành vi che giấu tội phạm hoặc là hành vi phạm tội khác như tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Thông thường, hành vi chiếm đoạt xảy ra ngay sau hành vi lừa dối, cũng có trường hợp giữa hai hành vi này có khoảng cách nhất định về thời gian. 13
  21. Thứ hai, dấu hiệu hậu quả Hậu quả của tội phạm là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho quan hệ xã hội là khách thể bảo vệ của luật hình sự. Thiệt hại gây ra cho khách thể được thể hiện thông qua sự biến đổi tình trạng bình thường của các bộ phận cấu thành quan hệ xã hội là khách thể của tội phạm. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tội phạm có cấu thành vật chất, nghĩa là trong cấu thành tội phạm có phản ánh dấu hiệu hậu quả nguy hiểm cho xã hội, nhưng hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc, có những trường hợp hậu quả chưa xảy ra vẫn có thể cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Hậu quả của tội phạm được phản ánh trong cấu thành tội phạm thông qua thiệt hại về tài sản mà cụ thể là giá trị tài sản bị chiếm đoạt, chính vì vậy việc xác định tài sản là đối tượng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc, đây là dấu hiệu định lượng để xác định cấu thành cơ bản hoặc cấu thành định khung tăng nặng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Ngoài hậu quả (giá trị tài sản bị chiếm đoạt) là dấu hiệu định tội thì thực tế hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản còn gây hậu quả nguy hiểm khác (ngoài hành vi xâm phạm chủ yếu của khách thể trực tiếp) đó là những thiệt hại về tài sản, về thể chất hoặc những hậu quả phi vật chất khác diễn ra ở những cấp độ khác nhau thể hiện mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Những hậu quả này thường phát sinh do việc tài sản bị chiếm đoạt (có mối quan hệ nhân quả giữa việc tài sản bị chiếm đoạt và hậu quả). Do đó khi xác định hậu quả là thiệt hại về tài sản thì phải xảy ra ngoài giá trị tài sản bị chiếm đoạt. Hậu quả phi vật chất ở đây được biểu hiện: ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước; gây ảnh hưởng lớn đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. 14
  22. Thứ ba, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm Mỗi người chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về hậu quả nguy hiểm cho xã hội khi hậu quả nguy hiểm đó do chính hành vi khách quan của họ gây ra. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm được biểu hiện: - Hành vi gian dối phải diễn ra trước hành vi chiếm đoạt tài sản. - Hành vi gian dối là cơ sở chủ yếu quyết định việc chiếm đoạt được tài sản của người phạm tội. Vì việc chiếm đoạt được tài sản của người phạm tội có thể gây ra những hậu quả nguy hiểm khác cho xã hội nên việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả trên không chỉ có ý nghĩa về mặt định tội mà còn có ý nghĩa trong quyết định hình phạt. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có cấu thành tội phạm vật chất nên tội phạm hoàn thành khi người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản, tức là lúc người phạm tội đã làm chủ được tài sản bị chiếm đoạt và người bị hại đã mất khả năng làm chủ được tài sản đó trên thực tế. 1.1.2.3. Chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản “Chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi luật định và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể” [8]. Như vậy, chủ thể của tội phạm chỉ có thể là một con người cụ thể chứ không phải là một pháp nhân. Trong một số trường hợp cụ thể, chủ thể của tội phạm còn có thêm dấu hiệu đặc biệt khác – được gọi là chủ thể đặc biệt của tội phạm. Người có năng lực trách nhiệm hình sự là người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và có khả năng điều khiển được hành vi ấy. Do chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là chủ thể thường nên không có sự ngoại lệ đối với người nước ngoài, người không quốc tịch khi thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên lãnh thổ Việt Nam. Trừ một 15