Luận văn Định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn xét xử địa bàn tỉnh Nam Định)

pdf 92 trang vuhoa 25/08/2022 4900
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn xét xử địa bàn tỉnh Nam Định)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_dinh_toi_danh_doi_voi_toi_huy_hoai_hoac_co_y_lam_hu.pdf

Nội dung text: Luận văn Định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn xét xử địa bàn tỉnh Nam Định)

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT BÙI THỊ NHUNG §ÞNH TéI DANH §èI VíI TéI HñY HO¹I HOÆC Cè ý LµM H¦ HáNG TµI S¶N THEO LUËT H×NH Sù VIÖT NAM (Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn xÐt xö ®Þa bµn tØnh Nam §Þnh) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT BÙI THỊ NHUNG §ÞNH TéI DANH §èI VíI TéI HñY HO¹I HOÆC Cè ý LµM H¦ HáNG TµI S¶N THEO LUËT H×NH Sù VIÖT NAM (Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn xÐt xö ®Þa bµn tØnh Nam §Þnh) Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. TRỊNH QUỐC TOẢN HÀ NỘI - 2015
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Bùi Thị Nhung
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI HỦY HOẠI HOẶC CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN 9 1.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại và ý nghĩa của việc định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản 9 1.1.1. Khái niệm định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản 9 1.1.2. Đặc điểm của việc định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản 11 1.1.3. Phân loại định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản 14 1.1.4. Ý nghĩa của việc định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản 18 1.2. Cơ sở pháp lý và cơ sở khoa học của định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản 21 1.2.1. Cơ sở pháp lý của định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản 21 1.2.2. Cơ sở khoa học của định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản 31
  5. Chương 2: THỰC TRẠNG ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI HỦY HOẠI HOẶC CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH 41 2.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội và diễn biến tình hình tội phạm ở Nam Định 41 2.1.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh Nam Định 41 2.1.2. Diễn biến tình hình tội phạm ở tỉnh Nam Định 42 2.2. Thực trạng định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản trên địa bàn tỉnh Nam Định 42 2.2.1. Tình hình thụ lý, giải quyết án hình sự sơ thẩm trên địa bàn tỉnh Nam Định 43 2.2.2. Tình hình thụ lý, xét xử sơ thẩm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Nam Định từ năm (2009 - 2014) 45 2.2.3. Tình hình thụ lý, xét xử phúc thẩm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của TAND hai cấp tỉnh Nam Định từ năm (2009 - 2014) 50 2.2.4. Tình hình thụ lý, xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của TAND tỉnh Nam Định trong thời gian từ năm (2009 - 2014) 51 2.2.5. Thực trạng định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản trên địa bàn tỉnh Nam Định từ năm 2009 - 2014 52 2.3. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản trên địa bàn tỉnh Nam Định 57 2.3.1. Những tồn tại, hạn chế 57 2.3.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế 58
  6. Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI HỦY HOẠI HOẶC CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN 62 3.1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả của việc định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản 62 3.2. Giải pháp hoàn thiện Bộ luật hình sự Việt Nam đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản 66 3.2.1. Sửa đổi, bổ sung một số quy định về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản trong BLHS năm 1999 67 3.2.2. Hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật liên quan đến tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản 70 3.3. Một số giải pháp nâng cáo hiệu quả của việc định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản 71 3.3.1. Nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp và trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ thẩm phán 71 3.3.2. Thường xuyên tổng kết rút kinh nghiệm kịp thời để đảm bảo hoạt động áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử 73 3.3.3. Thực hiện chặt chẽ và thường xuyên việc giám sát, kiểm tra đối với hoạt động xét xử án hình sự của Tòa án 74 3.3.4. Tăng cường nguồn lực và cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật và hoàn thiện chế độ chính sách đối với Thẩm phán, cán bộ tòa án 75 KẾT LUẬN 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 81
  7. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự CTTP: Cấu thành tội phạm TAND: Tòa án nhân dân TNHS: Trách nhiệm hình sự XHCN: Xã hội chủ nghĩa
  8. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1: Thống kê tội phạm trên địa bàn tỉnh Nam Định từ năm 2009 - 2014 43 Bảng 2.2: Số kết quả khảo sát thu thập số liệu về tình hình thụ lý, giải quyết theo trình tự sơ thẩm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản được xét xử sơ thẩm của Tòa án hai cấp tỉnh Nam Định trong những năm gần đây 45 Bảng 2.3: Tình hình xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Nam Định từ năm (2009 - 2014) về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản và các tội xâm phạm sở hữu khác 46 Bảng 2.4: So sánh tỉ lệ số vụ án, số bị cáo xét xử sơ thẩm, của các tội xâm phạm sở hữu với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Nam Định từ năm (2009 - 2014) 49 Bảng 2.5: Bảng thống kê số vụ án phạm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản xét xử phúc thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định 51 Bảng 2.6: Bảng thống kê số vụ án phạm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm của TAND tỉnh Nam Định 52 Bảng 2.7: Bảng thống kê số liệu về các trường hợp xác định tội danh sai của TAND hai cấp tỉnh Nam Định (2009 - 2014) 53
  9. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đã có những tiến bộ quan trọng, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Tuy nhiên, trong quá trình chuyển đổi cơ chế, bên cạnh những mặt tích cực, nền kinh tế thị trường cũng đã làm nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực mặt trái nền kinh tế thị trường làm cho đời sống xã hội có những biến động phức tạp như sự xa hoá, xuống cấp về đạo đức, lối sống , trong đó có nhiều vấn đề mới phát sinh có liên quan đến công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm và tệ nạn xã hội. Tình hình tội phạm còn diễn biến phức tạp trên tất cả các lĩnh vực, trong đó tình hình tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản đang là vấn đề bức xúc của toàn xã hội. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cho thấy, trong không ít vụ án, một số Công dân không làm tròn nghĩa vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm, hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác, cho nên các cơ quan bảo vệ pháp luật phải tốn rất nhiều công sức để điều tra, khám phá vụ án. Việc một số công dân không thực hiện quyền và nghĩa vụ phát hiện, tố giác hành vi phạm tội, có nghĩa là họ không tham gia đấu tranh chống tội phạm nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức và trong các trường hợp do pháp luật hình sự quy định. Thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, đã đặt ra nhiều vấn đề vướng mắc đòi hỏi khoa học pháp lý phải nghiên cứu, giải quyết như khái niệm, những dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng, nguyên nhân, điều 1
  10. kiện của tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản Về mặt lý luận, xung quanh vấn đề đấu tranh phòng, chống tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Ngoài ra, trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện công cuộc cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08 ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về "Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới"; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 25/4/2005 của Bộ Chính trị về "Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020"; và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về "Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020" với nội dung "sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực tư pháp phù hợp mục tiêu của chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật , đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Giảm hình phạt tù ” [11, tr.3]. Đặc biệt, trong quá trình giải quyết có nhiều vụ án không xác định đúng tội danh, đã khởi tố sai tội danh, dẫn đến việc phải ra quyết định thay đổi tội danh, hoặc quyết định hình phạt không đúng hoặc phải ra quyết định đình chỉ vụ án. Vì thế, định tội được xem là tiền đề, điều kiện cho việc quyết định hình phạt đúng đắn, góp phần mang lại hiệu quả trong đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Trong trường hợp định tội không chính xác, mặc dù mức hình phạt có thể đã tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện nhưng việc kết án sai tội danh sẽ liên quan đến nhiều hậu quả pháp lý khác mà bị cáo phải gánh chịu như: xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm, tính thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, thời hạn xác định án tích Thực tiễn xét xử các vụ án hình sự cho thấy các cơ quan tiến hành tố tụng còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong việc định tội danh, đặc biệt là đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu nói chung tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản nói riêng. Thời gian gần đây tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản luôn có xu hướng gia tăng, diễn biến phức tạp, gây thiệt hại nghiêm 2
  11. trọng cho tài sản Nhà nước, tài sản của công dân, ảnh hưởng đến trật tự chung của xã hội với nhiều thủ đoạn tinh vi từ chủ thể thực hiện tội phạm. BLHS do Nhà nước ban hành quy định các hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm, tuy vậy những quy định này chỉ nêu lên các dấu hiệu đặc trưng cơ bản nhất của một cấu thành tội phạm, trong khi trên thực tế tội phạm xảy ra vô cùng phức tạp và đa dạng. Quá trình giải quyết vụ án một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật, đồng thời bảo vệ một cách vững chắc các quyền sở hữu về tài sản của công dân bằng pháp luật hình sự là một trong những nguyên tắc trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay. Ý thức được tầm quan trọng đó, TAND tỉnh Nam Định không ngừng đẩy nhanh tiến độ, nâng cao chất lượng giải quyết, xét xử các loại vụ án, phấn đấu không để xảy ra việc kết án oan người không có tội và bỏ lọt tội phạm, hạn chế tới mức thấp nhất các bản án, quyết định bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của Thẩm phán, đảm bảo các quyết định của Tòa án đúng pháp luật, đầy đủ, rõ ràng, dễ hiểu, có sức thuyết phục cao và có tính khả thi. Tuy nhiên, vẫn còn một số ít trường hợp áp dụng pháp luật không đúng, chưa xem xét đầy đủ tính chất, mức độ phạm tội, các dấu hiệu cấu thành tội phạm (CTTP) nên dẫn đến việc định tội danh thiếu chính xác, việc hủy án, sửa án vẫn còn tồn tại, phổ biến nhất là ở các tội xâm phạm sở hữu mang tính chất chiếm đoạt. Do vậy, việc xác định đúng tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản để khi quyết định hình phạt nhằm trừng trị đồng thời giáo dục người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội, không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội là vấn đề vô cùng quan trọng. Xuất phát từ tính cấp thiết nêu trên tôi lựa chọn đề tài "Định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn xét xử địa bàn tỉnh Nam Định" để nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ luật học. 3
  12. 2. Tình hình nghiên cứu Nghiên cứu những vấn đề liên quan đến việc định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản đã được một số nhà khoa học và cán bộ làm công tác thực tiễn tiến hành, công bố trong nhiều công trình khoa học. Có một số luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ, một số giáo trình giảng dạy, bài viết trên tạp chí và một số sách chuyên khảo đã nghiên cứu về những vấn đề này. Cụ thể như sau: Về tài liệu nghiên cứu là sách giáo trình, sách chuyên khảo, gồm có: “Giáo trình luật hình sự Việt Nam - Phần các tội phạm)” của GS.TSKH Lê Cảm, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2007; “Định tội danh - Lý luận, lời giải mẫu và 500 bài tập thực hành” của GS.TSKH Lê Cảm và PGS.TS Trịnh Quốc Toản, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2011; “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự - Phần các tội phạm”, tập II của Đinh Văn Quế, năm 2005; “Các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009)” của tác giả Nguyễn Mai Bộ, Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2010, Hà Nội; “Giáo trình luật hình sự Việt Nam - Phần các tội phạm” của GS.TS Võ Khánh Vinh, Nxb Công an nhân dân năm 2001; “Bình luận khoa học chuyên sâu Bộ luật hình sự - Phần các tội phạm”, cuả ThS Đinh Văn Quế, Nxb thành phố Hồ Chí Minh, năm 2005; “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự - Phần các tội phạm” của TS Uông Chu Lưu (Chủ biên), Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2004; “Luật hình sự Việt Nam - Phần các tội phạm” của Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội”, Nxb Chính trị Quốc, năm 2010), Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội, 1997. Sau khi BLHS năm 1999 được ban hành, tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản được tiếp tục đề cập trong “Giáo trình luật hình sự Việt Nam” của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, năm 2000, Hà Nội; “Giáo trình luật hình sự Việt Nam - Phần các tội phạm” của Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, năm 2002 4
  13. Tài liệu nghiên cứu dưới góc độ là luận văn, luận án, gồm có: “Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản trong luật hình sự Việt Nam” của Ngô Thị Huyền Phương, Viện Nhà nước và pháp luật, năm 2010; “Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu”, của tác giả Nguyễn Ngọc Chí, luận án tiến sĩ luật học, Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, năm 2000, Hà Nội. Lê Văn Đệ (2005), Định tội danh và quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Tài liệu là bài viết tạp chí, đề tài nghiên cứu khoa học, gồm có: Lê Cảm (2009), Hệ thống tư pháp hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. Học viện Tư pháp (2009), Chỉ dẫn tra cứu Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009), Hà Nội. Nguyễn Văn Hương (2003), “Vấn đề tình tiết hình sự trong Bộ luật hình sự”, Tạp chí Luật học, Hà Nội. Dương Tuyết Miên (2005), Định tội danh và quyết định hình phạt, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội. Đoàn Tấn Minh (2010), Phương pháp định tội danh và hướng dẫn định tội danh đối với các tội phạm trong Bộ luật hình sự hiện hành, Nxb Tư pháp, Hà Nội. Đinh Văn Quế (2000), Thực tiễn xét xử và pháp luật hình sự, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng. Đinh Văn Quế (2005). Bình luận khoa học về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh. Đào Trí Úc (2001), "Tìm hiểu khái niệm và những đặc trưng cơ bản của tội phạm theo Luật hình sự Việt Nam", Nhà nước và Pháp luật . Trịnh Tiến Việt (2001), "Một số điểm mới về các tội xâm phạm sở hữu trong luật hình sự năm 1999", Pháp lý. Võ Khánh Vinh (2003), "Thay đổi định tội danh, một số vấn đề lý luận và thực tiễn", Tòa án nhân dân. Tuy nhiên, các công trình đã nêu trên chỉ nghiên cứu riêng rẽ qua việc tranh luận tội danh để áp dụng giữa tội phạm này với tội phạm khác hay chỉ đề cập phân tích chung trong các chương giáo trình, sách tham khảo, khóa luận tốt nghiệp mà chưa có một công trình khoa học nào ở cấp độ một luận văn thạc sĩ giải quyết riêng rẽ và độc lập một tội phạm cụ thể, việc định tội 5
  14. danh tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Nam Định để qua đó đưa ra những giải pháp định tội danh, cũng như để đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các qui định trong việc phòng, chống tội phạm này trong thực tiễn. Tính cấp thiết và ý nghĩa khoa học thực tiễn của luận văn hoàn toàn có tính thời sự, nhất là trong giai đoạn hiện nay tình hình các loại tội phạm nói chung diễn biến phức tạp, hành vi thực hiện tội phạm ngày càng tinh vi. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 3.1. Mục đích nghiên cứu Trong phạm vi của luận văn tốt nghiệp, tôi mong muốn đưa ra cái nhìn tổng quát về các quy định của pháp luật hình sự đối với việc định tội danh đối với tội “Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản”, thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Nam Định. Từ đó làm sáng tỏ những ưu điểm, tồn tại và đưa ra giải pháp góp phần hoàn thiện về "Định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản", nâng cao việc áp dụng pháp luật của những người tiến hành tố tụng và các cơ quan tiến hành tố tụng. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu, luận văn làm rõ một số vấn đề sau đây: Thứ nhất, nghiên cứu làm rõ khái niệm, đặc điểm, phân loại, ý nghĩa và căn cứ của việc định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản cũng như những phân tích làm rõ những căn cứ pháp lý và căn cứ khoa học của việc định tội danh đối với tội “Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản” được quy định tại điều 143 của BLHS. Thứ hai, phân tích thực trạng của việc định tội danh đối với tội “Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản” trên địa bàn tỉnh Nam Định trong thời gian từ năm 2009 - 2014; đồng thời phân tích làm rõ những tồn tại hạn chế xung quanh việc thực hiện và những nguyên nhân cơ bản của nó. 6
  15. Thứ ba, đề xuất một số giải pháp và kiến nghị việc hoàn thiện các quy định của BLHS Việt Nam hiện hành cũng như những giải pháp bảo đảm thực hiện nâng cao hiệu quả của việc định tội danh đối với tội “Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản”, cũng như công tác đấu tranh phòng, chống tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản. 3.3. Phạm vi phiên cứu Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh việc định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, kết hợp với việc nghiên cứu thực trạng định tội danh đối với tội này trên địa bàn tỉnh Nam Định và tìm ra nguyên nhân của những tồn tại hạn chế để kiến nghị những giải pháp hoàn thiện luật thực định và đề xuất những biện pháp bảo đảm thực hiện các quy định của BLHS Việt Nam đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, nâng cao hiệu quả của việc định tội danh đối với tội phạm trong thực tiễn phòng ngừa vi phạm pháp luật. Luận văn nghiên cứu về thực tiễn định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản trên địa bàn tỉnh Nam Định trong 06 năm (2009 - 2014) 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X, XI của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền Cơ sở thực tiễn của luận văn là những việc tiến hành tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân và TAND trong việc định tội danh về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Nam Định; số liệu thống kê, báo cáo tổng kết của TAND tỉnh Nam Định về tội phạm này. Phương pháp luận của luận văn là dựa trên chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và nhà nước ta về xây dựng nhà nước pháp 7
  16. quyền, về chính sách pháp luật tố tụng hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp được thể hiện trong các nghị quyết đại hội Đảng lần thứ IX, X và các nghị quyết số 08 - NQ/TW; Nghị quyết số 49-NQ/TW về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” của Bộ Chính trị. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp cụ thể và đặc thù như: phương pháp tổng hợp và phân tích, phương pháp so sánh, đối chiếu, phương pháp quy nạp, phương pháp diễn dịch và quan trọng hơn cả là phương pháp loại trừ. 5. Những đóng góp mới của đề tài Kết quả nghiên cứu và những giải pháp trong của luận văn có ý nghĩa nhất định đối với việc nâng cao hiệu quả về định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản đồng thời góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và trên địa bàn tỉnh Nam Định nói riêng. Thông qua kết quả nghiên cứu và những giải pháp, tác giả mong muốn đóng góp phần nhỏ bé của mình vào việc phát triển lý luận về định tội danh giúp việc điều tra, truy tố, xét xử các loại tội phạm nói chung và tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản nói riêng được chính xác, tránh truy tố, xét xử oan và tránh bỏ lọt người phạm tội, giúp cho hoạt động của các cơ quan tư pháp có hiệu quả góp phần hữu hiệu vào công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản. Chương 2: Thực trạng định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản trên địa bàn tỉnh Nam Định Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả của việc định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản. 8
  17. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI HỦY HOẠI HOẶC CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN 1.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại và ý nghĩa của việc định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản 1.1.1. Khái niệm định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản Theo quy định tại Điều 8 BLHS năm 1999 (được sửa đổi bổ sung năm 2009) thì: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa [21, tr.51]. - Bên cạnh đó theo quan điểm của GS.TSKH Lê Cảm cho rằng: Định tội danh là một quá trình nhận thức lý luận có tính logic, đồng thời là một trong những dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự cũng như pháp luật tố tụng hình sự và được tiến hành bằng cách trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để đối chiếu, so sánh và kiểm tra nhằm xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể tương ứng do luật hình sự quy định [4, tr.33]. 9
  18. - Còn theo quan điểm của PGS.TS. Dương Tuyết Miên: Định tội danh được hiểu là hoạt động thực tiễn của các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) và một số cơ quan khác có thẩm quyền theo quy định của pháp luật để xác định một người có phạm tội hay không, nếu phạm tội thì đó là tội gì, theo điều luật nào của BLHS hay nói cách khác đây là quá trình xác định tên tội cho hành vi nguy hiểm đã thực hiện [15, tr. 9]. Tổng hợp các quan điểm trên đây, đồng thời nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự liên quan đến việc định tội danh ở Việt Nam, có thể đưa ra định nghĩa khoa học khái niệm định tội danh như sau: Định tội danh có thể được hiểu là một quá trình nhận thức lý luận có tính logic, đồng thời là một trong những dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, cũng như pháp luật tố tụng hình sự và được tiến hành bằng cách trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để đối chiếu, so sánh và kiểm tra nhằm xác định sự phù hợp giữa hành vi thực tế đã thực hiện với các cấu thành tội phạm cụ thể, tương ứng do luật hình sự quy định [4, tr.21]. Đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là một loại tội phạm cụ thể được quy định tại Điều 143 BLHS Việt Nam. Một người được coi là chủ thể của tội phạm này khi đáp ứng các điều kiện là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, và là người đã thực hiện các hành vi được quy định tại điều 143 BLHS với lỗi cố ý, xâm phạm đến quan hệ sở hữu. Từ cơ sở lý luận cùng với các quy định của BLHS có thể đưa ra khái niệm định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản như sau: Định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự của các 10
  19. cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án) và một số cơ quan khác có thẩm quyền theo quy định của pháp luật trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án nhằm xác định sự phù hợp giữa hành vi thực tế đã thực hiện với các CTTP cụ thể được quy định trong điều 143 của BLHS, từ đó xác định một người có phạm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản hay không, và phạm tội theo khoản nào của điều luật này. 1.1.2. Đặc điểm của việc định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản Định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản có những đặc điểm được dựa trên những đặc điểm đặc trưng của tội phạm này như phải dựa vào CTTP của tội phạm được quy định trong điều 143 của BLHS, việc định tội danh phải được tiến hành trước, trên cơ sở đó mới có thể tiến hành được việc quyết định hình phạt Do đó, định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản có các đặc điểm sau: Thứ nhất, định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là một quá trình nhận thức lý luận có tính logic được thể hiện dưới hai khía cạnh: Xác định xem các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện có phù hợp với các dấu hiệu của CTTP cụ thể do điều tương ứng trong phần các tội phạm của BLHS này hay không. Trên cơ sở đó, đưa ra sự đánh giá nhất định về mặt pháp lý hình sự đối với một hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể đã xảy ra trong thực tế khách quan. Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng, pháp luật không thể phản ánh được hết tất cả các mặt của đời sống xã hội vốn rất sinh động và phong phú mà chỉ ghi nhận những nét khái quát, phổ biến đặc trưng của thực tế để từ đó áp dụng cho các trường hợp cụ thể trong cuộc sống. Tính chất khái quát và phổ biến 11
  20. của quy phạm pháp luật và yêu cầu phải áp dụng nó một cách cụ thể là hai mặt của một sự thống nhất biện chứng, đòi hỏi phải có sự nhận thức và phán ánh chính xác, theo kịp và đáp ứng được nhu cầu cuộc sống của hoạt động lập pháp và vai trò quan trọng của các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử trong hoạt động áp dụng pháp luật. Về nguyên tắc, chỉ khi sự đối chiếu giữa các dấu hiệu thực tế của CTTP với các dấu hiệu pháp lý của CTTP được xác định là tương ứng và phù hợp với nhau thì mới có thể kết luận được chính xác tội phạm đã xảy ra có phải là tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản hay không và người phạm tội đã phạm vào tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản hay không, đồng thời buộc họ chịu trách nhiệm về hành vi phạm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản mà họ đã thực hiện. Thứ hai, định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản còn được hiểu là một hình thức hoạt động tiến hành tố tụng được tiến hành bởi cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát và Toà án) và một số cơ quan khác có thẩm quyền để cụ thể hóa các quy phạm pháp luật hình sự trừu tượng vào đời sống thực tế, tức là lựa chọn đúng quy phạm pháp luật hình sự để áp dụng đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể nào đó được thực hiện trong thực tế khách quan và từ đó đưa ra kết luận là hành vi được xem xét ấy có đầy đủ các dấu hiệu của tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản được quy định trong pháp luật hình sự thực định hay không. Thứ ba, việc thiết lập các dấu hiệu đặc trưng cơ bản và điển hình để xác định bản chất pháp lý của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện trong thực tế khách quan là một vấn đề rất quan trọng của quá trình định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, mà toàn bộ quá trình này phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy phạm của luật nội dung - được quy định trong BLHS hiện hành, cũng như của luật hình thức - được quy định trong BLTTHS. 12
  21. Thứ tư, với tính chất là hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, được tiến hành về cơ bản theo bốn bước cụ thể: - Xem xét và thiết lập đúng các tình tiết thực tế của vụ án đã xảy ra trong sự phù hợp với hiện thực khách quan và các quy định của pháp luật đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản. - Nhận thức một cách thống nhất và chính xác nội dung các quy phạm pháp luật hình sự đang có hiệu lực thi hành. - Lựa chọn đúng điều luật tương ứng trong phần các tội phạm của BLHS quy định trách nhiệm hình sự đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, để so sánh, đối chiếu và kiểm tra các dấu hiệu CTTP này với các tình tiết cụ thể của hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện. - Sau khi đã so sánh, đối chiếu, kiểm tra đầy đủ, chính xác thì ra một văn bản áp dụng pháp luật mà trong đó đưa ra kết luận có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục về sự phù hợp của hành vi thực tế đã được thực hiện với cấu thành tội phạm tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản được quy định tại điều 143 BLHS Việt Nam năm 1999. Định tội danh là quá trình đối chiếu những tình tiết thực tế của tội phạm đã được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành một loại tội phạm nhất định, đó là sự thống nhất giữa các yếu tố: khách thể, mặt khách quan, chủ thể và mặt chủ quan. Các yếu tố này có mối quan hệ chặt chẽ nhưng lại cũng có tính độc lập tương đối trong mối quan hệ với các yếu tố khác. Căn cứ theo những dấu hiệu chung đó, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, khi định tội danh đối với tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản cần làm rõ những vấn đề cơ bản sau: Định tội danh theo khách thể của tội phạm Định tội danh theo mặt khách quan của tội phạm Định tội danh theo chủ thể của tội phạm Định tội danh theo mặt chủ quan của tội phạm 13