Luận văn Định hướng giá trị đạo đức của sinh viên trường đại học Đồng Nai
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Định hướng giá trị đạo đức của sinh viên trường đại học Đồng Nai", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_dinh_huong_gia_tri_dao_duc_cua_sinh_vien_truong_dai.pdf
Nội dung text: Luận văn Định hướng giá trị đạo đức của sinh viên trường đại học Đồng Nai
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH PHAN THỊ HỒNG HÀ ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC Thành phố Hồ Chí Minh – 2012
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH PHAN THỊ HỒNG HÀ ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI Chuyên ngành: TÂM LÝ HỌC Mã số: 60 31 80 LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THỊ TỨ Thành phố Hồ Chí Minh – 2012
- MỤC LỤC Trang phụ bìa Mục lục Danh mục các chữ viết tắt Danh mục các bảng Danh mục các biểu đồ MỞ ĐẦU 6 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC 11 1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 11 2. Các khái niệm của đề tài 16 2.1. Giá trị và định hướng giá trị 16 2.1.1. Giá trị 16 2.1.2. Định hướng giá trị 27 2.2. Giá trị đạo đức và định hướng giá trị đạo đức 32 2.2.1. Đạo đức 32 2.2.2. Giá trị đạo đức 39 2.2.3. Định hướng giá trị đạo đức 41 2.3. Định hướng giá trị đạo đức của sinh viên trường Đại học Đồng Nai 43 2.3.1. Giới thiệu về trường Đại học Đồng Nai 43 2.3.2. Đặc điểm tâm lý sinh viên 45 2.3.3. Nội dung định hướng giá trị đạo đức của sinh viên trường ĐH Đồng Nai 50 2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến định hướng giá trị đạo đức 46 Chương 2: THỰC TRẠNG ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI 56 2.1. Thể thức nghiên cứu 56 2.2. Kết quả nghiên cứu thực trạng định hướng giá trị đạo đức của sinh viên trường Đại học Đồng Nai 60 2.2.1. Nhận định về sự thay đổi các giá trị đạo đức hiện nay 60 2.2.2. Nhận thức các giá trị đạo đức của sinh viên 63 2.2.3. Thái độ đối với cá GTĐĐ của sinh viên 79 2.2.4. Kết quả biểu hiện hành vi của sinh viên thông qua các tình huống cụ thể 83 2.2.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến định hướng giá trị đạo đức của sinh viên trường Đại học Đồng Nai 90 2.3. Các biện pháp giáo dục định hướng giá trị đạo đức cho sinh viên trường Đại học Đồng Nai 96 2.3.1. Cơ sở đề xuất giải pháp 96 2.3.2. Các biện pháp giáo dục định hướng giá trị đạo đức cho sinh viên trường Đại học Đồng Nai 98 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 104 TÀI LIỆU THAM KHẢO 107 PHỤ LỤC
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT − CĐ: Cao đẳng − CĐSP: Cao đẳng sư phạm − ĐH: Đại học − ĐHSP: Đại học sư phạm − GT: Giá trị − GTĐĐ: Giá trị đạo đức − NXB: Nhà xuất bản − SD: Độ lệch tiêu chuẩn − SP: Sư phạm − SV: Sinh viên − TB: Trung bình − THCS: Trung học cơ sở
- DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 1.1. Các giai đoạn của quá trình định hướng giá trị 25 Bảng 2.1. Thống kê sinh viên trên toàn mẫu khảo sát 51 Bảng 2.2. Thống kê sinh viên theo ngành học và năm học 51 Bảng 2.3. Thống kê sinh viên theo giới tính và tôn giáo 52 Bảng 2.4. Kết quả nhận định về sự thay đổi các giá trị đạo đức hiện nay 55 Bảng 2.5. Nhận thức chung về các giá trị đạo đức của sinh viên 58 Bảng 2.6. Mười giá trị đạo đức được sinh viên đánh giá cao nhất 61 Bảng 2.7. Kết quả xếp hạng nhận thức các giá trị đạo đức đối với bản thân 63 Bảng 2.8. Kết quả xếp hạng nhận thức các giá trị đạo đức đối với gia đình 64 Bảng 2.9. Kết quả xếp hạng nhận thức các giá trị đạo đức đối với thầy cô 65 Bảng 2.10. Kết quả xếp hạng nhận thức các giá trị đạo đức đối với bạn bè 66 Bảng 2.11. Kết quả xếp hạng nhận thức các giá trị đạo đức đối với người yêu 67 Bảng 2.12. Kết quả xếp hạng nhận thức các giá trị đạo đức trong học tập 68 Bảng 2.13. Kết quả xếp hạng nhận thức các GTĐĐ đối với cộng đồng xã hội 69 Bảng 2.14. Kết quả xếp hạng nhận thức các giá trị đạo đức đối với nghề sư phạm 70 Bảng 2.15. Kết quả so sánh điểm trung bình nhận thức 7 nhóm GTĐĐ theo giới tính, ngành học và năm học 72 Bảng 2.16. Kết quả so sánh điểm trung bình nhận thức các GTĐĐ đối với nghề sư phạm theo giới tính và năm học 73 Bảng 2.17. Thái độ chung về các giá trị đạo đức của sinh viên 74 Bảng 2.18. Kết quả so sánh điểm trung bình thái độ đối với các GTĐĐ của sinh viên theo giới tính, ngành học và năm học 76 Bảng 2.19. Kết quả so sánh điểm trung bình thái độ đối với các GTĐĐ đối với nghề sư phạm xét theo giới tính và năm học 77 Bảng 2.20. Tỉ lệ % đối với hành vi ứng xử tích cực trong các tình huống cụ thể 78 Bảng 2.21. Kết quả điểm trung bình, thứ hạng của từng yếu tố ảnh hưởng 85 Bảng 2.22. Kết quả TB các yếu tố tôn giáo ảnh hưởng đến định hướng GTĐĐ 89 Bảng 2.23. Kết quả so sánh điểm trung bình các nhóm yếu tố ảnh hưởng theo giới tính, ngành học và năm học 91
- DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Biểu đồ 1. Biểu đồ tháp thế giới quan đạo đức 32 Biểu đồ 2. Sự lựa chọn các nhóm giá trị đạo đức 58 Biểu đồ 3. Mười giá trị đạo đức được sinh viên lựa chọn nhiều nhất 61 Biểu đồ 4. Thái độ của sinh viên đối với từng nhóm giá trị đạo đức 75 Biểu đồ 5. Nhóm các yếu tố ảnh hưởng đến định hướng GTĐĐ 86
- MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Hồ Chủ Tịch đã từng nói “Người có tài mà không có đức là người vô dụng; Người có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Thấm nhuần lời dạy của Người, mục đích giáo dục ở các cấp học, các ngành học hiện nay hướng đến đào tạo con người phát triển toàn diện, hội đủ cả đức lẫn tài, vừa hồng vừa chuyên. Trong đó đạo đức là gốc, là nền tảng cốt lõi. Thực tế hiện nay, mục tiêu giáo dục ở các trường đại học, cao đẳng là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Như vậy, nhân cách của người sinh viên được đánh giá ở cả 2 mặt đạo đức và năng lực. Việc đánh giá sinh viên hàng năm không chỉ dựa trên kết quả học tập mà còn căn cứ vào kết quả rèn luyện của sinh viên. Đánh giá quá trình rèn luyện của sinh viên trên các mặt cụ thể như đánh giá phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của từng sinh viên theo các mức điểm đạt được trên các mặt như ý thức học tập; ý thức và kết quả chấp hành nội quy, quy chế trong nhà trường; ý thức và kết quả tham gia các hoạt động chính trị - xã hội, văn hoá, văn nghệ, thể thao, phòng chống các tệ nạn xã hội; phẩm chất công dân và quan hệ với cộng đồng; ý thức tham gia phụ trách lớp, các đoàn thể, tổ chức khác trong nhà trường hay các thành tích đặc biệt trong học tập, rèn luyện của sinh viên. Như vậy, đạo đức của sinh viên được đánh giá thông qua điểm rèn luyện và việc rèn luyện đạo đức là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của sinh viên. Nước ta đang trong quá trình công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước, song song với đó là quá trình hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu. Cùng với những đổi thay, sự chuyển mình đi lên của đất nước, các hệ thống giá trị cũng ít nhiều có sự thay đổi. Nổi bật và đáng quan tâm hơn cả là sự thay đổi về quan niệm đạo đức, hệ thống giá trị đạo đức, thể hiện ở việc định hướng giá trị đạo đức của con người. Thực tế cho thấy ngày càng có nhiều những tư tưởng, hiện tượng tiêu cực nảy sinh trong một số bộ phận thanh niên sinh viên như: lối sống hưởng thụ, thực
- dụng, chủ nghĩa cá nhân, lối sống sùng ngoại, hay tệ nạn cờ bạc, ma tuý, mại dâm Vì thế, việc định hướng giá trị đạo đức cho thế hệ trẻ hiện nay đang trở thành vấn đề cấp bách và nhận được sự quan tâm của toàn xã hội. Thiết nghĩ, chỉ khi sinh viên có định hướng giá trị đạo đức đúng đắn thì họ mới tích cực trong học tập và rèn luyện ở trường, tự giáo dục để hoàn thiện nhân cách của bản thân nhằm đáp ứng với những đòi hỏi của công việc sau này và phù hợp với yêu cầu của thời đại. Nghiên cứu về định hướng giá trị và định hướng giá trị đạo đức là vấn đề đã được nhiều tác giả trong và ngoài nước đề cập đến. Gần đây nhất, ở Việt Nam có một số đề tài về giá trị đạo đức được quan tâm như: “Thực trạng định hướng giá trị đạo đức của sinh viên sư phạm thành phố Hồ Chí Minh”, “Thực trạng lựa chọn các giá trị đạo đức nhân văn trong lối sống của sinh viên thành phố Hồ Chí Minh hiện nay”. Ở tỉnh Đồng Nai nói chung và trường Đại học Đồng Nai nói riêng chưa thấy có công trình nào nghiên cứu về thực trạng định hướng giá trị đạo đức của sinh viên. Trường Đại học Đồng Nai là trường đại học công lập đầu tiên trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, được thành lập theo quyết định số 1572/QĐ-TTg ngày 20/8/2010 của Thủ tướng Chính Phủ trên cơ sở nâng cấp từ trường Cao đẳng sư phạm Đồng Nai, với nhiệm vụ là đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho tỉnh Đồng Nai trên các lĩnh vực như giáo dục, kinh tế và kỹ thuật Do đó, việc định hướng giá trị đạo đức đúng đắn cho sinh viên là việc làm thật sự cần thiết và cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Từ những lý do trên, người nghiên cứu quyết định chọn đề tài “Định hướng giá trị đạo đức của sinh viên trường Đại học Đồng Nai”. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Tìm hiểu thực trạng định hướng giá trị đạo đức của sinh viên trường Đại học Đồng Nai. Trên cơ sở đó, đề xuất một số biện pháp giáo dục định hướng giá trị đạo đức cho sinh viên. 3. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 3.1. Khách thể nghiên cứu Sinh viên hệ cao đẳng trường ĐH Đồng Nai năm học 2011 – 2012.
- 3.2. Đối tượng nghiên cứu Định hướng giá trị đạo đức của sinh viên trường ĐH Đồng Nai. 4. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU − Phần lớn sinh viên trường ĐH Đồng Nai có nhận thức, thái độ và hành vi tích cực đối với đa số các giá trị đạo đức; tuy nhiên còn một số giá trị đạo đức sinh viên có nhận thức, thái độ và hành vi chưa tích cực. − Có sự khác biệt trong định hướng giá trị đạo đức của sinh viên xét theo năm học, ngành học và giới tính. − Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự định hướng giá trị đạo đức của sinh viên trường ĐH Đồng Nai; trong đó chủ yếu là yếu tố gia đình và tự giáo dục của sinh viên. − Từ kết quả nghiên cứu thực trạng, có thể đề xuất các biện pháp nhằm giáo dục định hướng một số giá trị đạo đức mà sinh viên có nhận thức, thái độ và hành vi chưa tích cực. 5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU − Nghiên cứu những vấn đề lý luận liên quan đến đề tài như: Giá trị, đạo đức, giá trị đạo đức, định hướng giá trị đạo đức. − Khảo sát thực trạng định hướng giá trị đạo đức của sinh viên trường ĐH Đồng Nai. So sánh thực trạng định hướng giá trị đạo đức của sinh viên theo ngành, giới tính và năm học. − Đề xuất các biện pháp góp phần định hướng một số giá trị đạo đức mà sinh viên trường ĐH Đồng Nai có nhận thức, thái độ và hành vi chưa tích cực. 6. GIỚI HẠN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU 6.1. Về nội dung Đề tài tập trung nghiên cứu định hướng giá trị đạo đức trong nhân cách của sinh viên trường ĐH Đồng Nai.
- 6.2. Về phạm vi Đề tài nghiên cứu thực trạng định hướng giá trị đạo đức của sinh viên hệ cao đẳng sư phạm và sinh viên hệ cao đẳng các ngành ngoài sư phạm đang học tập tại trường ĐH Đồng Nai. 7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 7.1. Phương pháp luận − Quan điểm lịch sử − Quan điểm hệ thống cấu trúc − Quan điểm hoạt động – nhân cách 7.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể 7.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận Tham khảo, thu thập tư liệu, phân tích và tổng hợp các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài để xây dựng hệ thống cơ sở lý luận cho đề tài. 7.2.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn ∗ Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi Đây là phương pháp chủ yếu được sử dụng nhằm tìm hiểu thực trạng định hướng giá trị đạo đức của sinh viên trường Đại học Đồng Nai. ∗ Phương pháp phỏng vấn Người nghiên cứu tiến hành phỏng vấn một số sinh viên nhằm tìm hiểu nhận thức và thái độ của sinh viên về định hướng các giá trị đạo đức. ∗ Phương pháp quan sát Người nghiên cứu quan sát thái độ và các hành vi đạo đức của sinh viên trường Đại học Đồng Nai. ∗ Phương pháp thống kê toán học Thu thập, xử lý và phân tích số liệu trên chương trình SPSS 13.
- 8. CẤU TRÚC LUẬN VĂN − Mở đầu − Chương 1: Cơ sở lý luận định hướng giá trị đạo đức − Chương 2: Thực trạng định hướng giá trị đạo đức của sinh viên trường Đại học Đồng Nai − Kết luận và kiến nghị − Tài liệu tham khảo − Phụ lục
- Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC 1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề a) Trên thế giới * Từ xa xưa, trước công nguyên, đạo đức đã được nhiều triết gia đề cập đến như Platon, Aristole Đặc biệt là Khổng Tử với học thuyết Nho giáo đã đưa ra những chuẩn mực cần có của người quân tử. Theo ông, người quân tử phải sống theo chữ “Nhân” và tôn thờ chữ “Lễ”, giữ kỷ cương trật tự của luật gia, phép nước. * Thời hiện đại, các quan niệm về đạo đức lần lượt xuất hiện trong các tác phẩm của Ănghen, Kant, Heghen, Phơbach Đặc biệt là Kant đã cho ra đời hẳn một học thuyết về đạo đức, được gọi là “Đạo đức học Kant”. * Triết học Mac ra đời, quan niệm đạo đức như là một hình thái ý thức xã hội, luôn vận động biến đổi cùng với sự vận động biến đổi của lịch sử. * Năm 1985, Viện nghiên cứu thế giới của Nhật Bản đã chú trọng nghiên cứu thanh niên của 11 quốc gia lứa tuổi từ 18 - 24 tuổi. Tiếp theo đó, Viện khảo sát xã hội Châu Âu nghiên cứu trên thanh niên ở 10 nước Châu Âu. Cả hai cuộc điều tra đều tìm hiểu thực trạng giá trị và định hướng giá trị của thanh niên để có những biện pháp giúp họ chuẩn bị bước vào cuộc sống. * Năm 1986 - 1987, UNESCO đã đề nghị Câu lạc bộ Rome tiến hành điều tra quốc tế về giá trị đạo đức của con người chuẩn bị bước vào thế kỷ 21 trong tình hình có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự biến động thế giới vào những năm cuối thế kỷ 20. * Năm 1988, UNESCO đã phát hành tập tài liệu nghiên cứu về hệ thống cấu trúc của giá trị, hình thành bộ công cụ đo đạc, kiểm chứng giá trị, giúp cho những công trình nghiên cứu giá trị đúng hướng. * Ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Philippin, Inđônêxia việc nghiên cứu vấn đề giá trị và định hướng giá trị của thanh niên sinh viên cũng được quan tâm. Ngoài các chương trình nghiên cứu chuyên sâu theo mục đích riêng biệt, theo chu
- kỳ 5 năm (bắt đầu từ năm 1972) người ta tiến hành nghiên cứu theo cùng một phương pháp ở nhiều nước trên thế giới, lấy mẫu ở lứa tuổi 18 - 24 và do Nhật Bản chủ trì. Qua các cuộc nghiên cứu này người ta thấy được sự phát triển ý thức của thanh niên sinh viên cũng như những giá trị đang chi phối nếp nghĩ và hành động của lớp trẻ ngày nay, góp phần vào việc xây dựng nên những chính sách phát triển thanh niên sinh viên ở mỗi quốc gia. Tóm lại, các công trình nghiên cứu về giá trị và định hướng giá trị nêu ở trên đã chỉ ra được những giá trị của cuộc sống và định hướng giá trị của thanh thiếu niên. Bên cạnh đó, các đề tài cũng chỉ ra những khác biệt trong thang giá trị của thanh niên, xây dựng được những bộ dụng cụ để đo đạc và kiểm chứng cho nghiên cứu thực tế. Ngoài ra các công trình nghiên cứu cũng bắt đầu được ứng dụng vào trong các trường học và cộng đồng dân cư. b) Ở Việt Nam Các công trình nghiên cứu về giá trị và định hướng giá trị tương đối mới mẻ hơn so với các nước trên thế giới. Sau năm 1986, nước ta đã mở cửa để hội nhập với thế giới. Sự hội nhập này mang đến cho đất nước nhiều cơ hội và cũng không ít những thử thách ở trên mọi lĩnh vực. Một trong những lĩnh vực diễn ra sự giao thoa mạnh mẽ nhất là văn hóa xã hội nói chung và hệ thống giá trị đạo đức nói riêng. Trải qua nhiều biến động thăng trầm, hiện nay xã hội Việt Nam đang có sự chuyển biến hệ thống định hướng giá trị một cách rõ nét, đặc biệt là nơi các bạn trẻ. Tầng lớp thanh niên sinh viên là nhóm đối tượng nhạy cảm với những thay đổi của xã hội, đặc biệt là hệ thống các giá trị đạo đức. Và cũng chính vì thế, từ thập niên 90 của thế kỷ XX trở lại đây đã và đang có nhiều công trình, đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề này. Điển hình như: * Năm 1991 - 1995 nhiều đề tài KX thuộc chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước đã tiếp cận vấn đề giá trị, đặc biệt là các đề tài thuộc chương trình KX-07 “Con người Việt Nam - mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội”. Có thể điểm qua một số đề tài sau:
- + Đề tài “Những đặc trưng và xu thế phát triển nhân cách của con người Việt Nam trong sự phát triển kinh tế xã hội” mã số KX-07-04 do PGS.PTS Nguyễn Quang Uẩn làm chủ nhiệm (1995) đã nghiên cứu những giá trị chung, giá trị nhân cách, giá trị nghề nghiệp, giá trị truyền thống và hiện đại của các nhóm học sinh, sinh viên, thanh niên nông thôn [45]. + Tác giả Thái Duy Tuyên với đề tài “Tìm hiểu định hướng giá trị của thanh niên Việt Nam” mã số KX-07-10 (1995) đã khảo sát trên các đối tượng thanh niên công nhân, nông dân, học sinh - sinh viên, trí thức tại một số thành phố lớn về “nhu cầu, nguyện vọng của thanh niên” và “định hướng giá trị của thanh niên”. Các số liệu thu được của đề tài đã phần nào phác họa bức tranh chung về nhân cách của con người Việt Nam qua các mặt như: Nhận thức và giá trị, tâm trạng và thái độ, hứng thú và thị hiếu, nhu cầu và động cơ, cảm nghiệm và tự đánh giá, nguyện vọng và ước mơ [43]. + Tác giả Mạc Văn Trang với công trình nghiên cứu “Đặc điểm của lối sống sinh viên hiện nay và những phương hướng, biện pháp giáo dục” (1995) đã tìm hiểu thực trạng những đặc điểm lối sống của sinh viên và trên cơ sở để đưa ra các biện pháp giáo dục phù hợp [42]. * Luận án Phó Tiến sĩ Triết học của Dương Tự Đàm “Định hướng giá trị của thanh niên sinh viên trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam” (1996) đã nghiên cứu quá trình biến đổi của tình hình thế giới, của sự đổi mới về kinh tế - xã hội của đất nước ảnh hưởng đến nhu cầu, lợi ích và định hướng giá trị của thanh niên sinh viên. Dựa trên phương pháp tổng kết và kế thừa các kết quả nghiên cứu của các đề tài thuộc chương trình KX-07, tác giả đã khái quát sự chọn lựa của sinh viên trên những giá trị chung, giá trị nhân cách, phân tích một số giá trị nổi trội trong thang giá trị và trong mối quan hệ với sự chuyển đổi về kinh tế - xã hội của đất nước. Trên cơ sở đó, đề xuất những con đường và biện pháp giáo dục giá trị cho thanh niên sinh viên [10]. * Năm 1998, Luận án Phó Tiến sĩ Tâm lý học của tác giả Lê Quang Sơn “Những đặc trưng tâm lý của định hướng giá trị của thanh niên Việt Nam hiện đại”
- đã xem định hướng giá trị như là những thái độ của nhân cách đối với bản thân và thế giới trong quá khứ, hiện tại và tương lai được cấu trúc lại trong các thể nghiệm và biểu tượng của nhân cách [31]. * Tập thể tác giả Phạm Minh Hạc, Thụy Như Ngọc, Rusell J.Daiton với đề tài “Nghiên cứu giá trị thế giới - Việt Nam năm 2001”. Trong cuộc điều tra giá trị thế giới năm 2001 tại Việt Nam đã thăm dò về sự hài lòng về chất lượng cuộc sống, quan hệ xã hội và gia đình, mức độ quan tâm và sự tham gia trong lĩnh vực chính trị, những giá trị kinh tế, niềm tin vào hệ thống chính trị. Đề tài cũng đưa ra được bức tranh về sự lựa chọn những giá trị cơ bản trong lối sống trong thực tế xã hội vào thời điểm trên. * Đầu năm 2002, tác giả Đỗ Ngọc Hà với luận án Tiến sĩ “Định hướng giá trị của thanh niên, sinh viên hiện nay trước sự chuyển đổi về kinh tế, xã hội của đất nước”. Đề tài cho thấy những giá trị nào điều tiết được cuộc sống hàng ngày và hành vi xã hội của sinh viên, trên cơ sở đó xây dựng biểu mẫu định hướng giá trị cho sinh viên Việt Nam [12]. * Luận án Tiến sĩ Tâm lý học của tác giả Cấn Hữu Hải “Ảnh hưởng của truyền thống gia đình đến định hướng giá trị của lứa tuổi đầu thanh niên” (2002) đã đưa ra một số kết luận cho thấy ảnh hưởng của gia đình đến việc định hướng giá trị của lứa tuổi đầu thanh niên [13]. * Tác giả Lê Hương với đề tài nghiên cứu “Đánh giá định hướng giá trị của con người” đã phân chia định hướng giá trị ở 3 mức độ là nhận thức, xúc cảm - tình cảm và hành vi. Trên cơ sở đó đã đưa ra các định hướng giáo dục giá trị thông qua từng mức độ trên [16]. * Năm 2005, tác giả Đào Thị Oanh nghiên cứu về định hướng giá trị của học sinh trung học. Công trình đã chỉ ra những giá trị truyền thống và những giá trị mới hiện nay của học sinh nước ta. Đâu là nguyên nhân ảnh hưởng đến việc chọn lựa những giá trị mới trong hệ thống giá trị của học sinh [27]. * Bên cạnh đó, trong những năm gần đây xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu của Ban Khoa Giáo Trung Ương, Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương, các Viện
- nghiên cứu, các tổ chức xã hội, đoàn thể, các báo cáo tham luận tại các hội thảo, diễn đàn bàn về giá trị, định hướng giá trị của con người Việt nam nói chung và định hướng giá trị đạo đức của thanh niên sinh viên nói riêng. * Gần đây nhất, một số đề tài về định hướng giá trị đạo đức, lối sống được quan tâm như: Tác giả Bùi Thị Bích với Luận văn thạc sĩ “Thực trạng định hướng giá trị lối sống của sinh viên ở một số trường đại học tại TP.HCM”, Luận văn thạc sĩ của tác giả Hoàng Anh với đề tài “Thực trạng định hướng giá trị đạo đức của sinh viên sư phạm TP.HCM”. Cả 2 đề tài trên đều đưa ra nhận định là đa số sinh viên đều có định hướng giá trị đạo đức tích cực, lối sống đúng đắn, lành mạnh [1], [2]. Đề tài nghiên cứu cấp bộ của tác giả Huỳnh Văn Sơn “Thực trạng lựa chọn các giá trị đạo đức nhân văn trong lối sống của sinh viên TP.HCM hiện nay”, mã đề tài B2007.19.27. Trong đề tài này, tác giả cho biết trong việc lựa chọn các giá trị đạo đức cụ thể, SV chưa quan tâm đúng mức đến các giá trị hướng đến cộng đồng và các giá trị hướng đến một cuộc sống hữu nghị hợp tác với người khác. Ngoài ra sự lựa chọn của sinh viên còn rất dao động, chưa thống nhất [30]. Nhìn chung các đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề giá trị và định hướng giá trị đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề trong đó có cả tích cực lẫn tiêu cực của những thay đổi về định hướng giá trị của người Việt Nam nói chung và của thanh niên sinh viên nói riêng. Trên cơ sở đó, các đề tài cũng đã đề ra những phương hướng và biện pháp để giúp thanh niên sinh viên hoàn thiện về mặt nhân cách. Như vậy, thực trạng định hướng giá trị đạo đức của sinh viên đã có tác giả nghiên cứu trước đây. Tuy nhiên, đề tài đó nghiên cứu trên khách thể là SVSP ở trên địa bàn TP.HCM. Qua đề tài này đã cho thấy sự lựa chọn các giá trị đạo đức của SVSP theo chiều hướng tích cực, thể hiện ở trên ba mặt nhận thức, thái độ và hành vi. Bên cạnh đó đề tài cũng cho thấy sinh viên không chỉ quan tâm đến các giá trị đạo đức truyền thống mà còn quan tâm đến các giá trị đạo đức hiện đại. Qua đề tài trên, tác giả cũng đưa ra các giải pháp nhằm giáo dục định hướng giá trị đạo đức cho sinh viên ngành sư phạm ở TP.HCM. Xét trên địa bàn tỉnh Đồng Nai – một
- trong những tỉnh phát triển nhất ở khu vực Đông Nam Bộ thì chưa thấy có đề tài nào nghiên cứu định hướng giá trị đạo đức của sinh viên. 2. Các khái niệm của đề tài 2.1. Giá trị và định hướng giá trị 2.1.1. Giá trị a) Khái niệm giá trị Những hiểu biết đầu tiên về giá trị và lý luận về các giá trị có từ thời xa xưa, gắn liền với triết học. Cuối thế kỷ thứ XIX, giá trị học mới tách ra thành một lĩnh vực khoa học độc lập và thuật ngữ giá trị được dùng để chỉ một khái niệm khoa học. Người có công lao đầu tiên là Thomas và Zananiecki đã dùng khái niệm giá trị trong tác phẩm “The polish pessant in Europe and American” (1918) (“Người nông dân Ba Lan ở Châu Âu và Châu Mĩ”). Sau đó, khái niệm giá trị ngày càng được sử dụng phổ biến hơn trong Triết học, Khoa học xã hội, Kinh tế học. Song ở thời kỳ đầu, chưa thấy đầy đủ ảnh hưởng sâu rộng của việc nghiên cứu vấn đề giá trị. Vào nửa sau thế kỷ XX, nhiều lĩnh vực khoa học bàn đến vấn đề giá trị một cách rộng rãi và sâu sắc hơn. Trong mấy thập kỉ gần đây, khái niệm giá trị được sử dụng rộng rãi trong nhiều ngành khoa học như triết học, xã hội học, chính trị học, tâm lí học, nhân chủng học, kinh tế học Trong kinh tế học, phạm trù giá trị gắn liền với giá trị hàng hoá, giá cả và sản xuất hàng hoá, và phía sau nó là sức lao động, giá trị lao động của người làm ra hàng hoá. Trong từ điển bách khoa toàn thư Xô Viết định nghĩa: “Giá trị là sự khẳng định hoặc phủ định ý nghĩa của các đối tượng thuộc thế giới chung quanh đối với con người, giai cấp, nhóm hoặc toàn bộ xã hội nói chung. Giá trị được xác định không phải bởi bản thân các thuộc tính tự nhiên, mà là bởi tính chất cuốn hút của các thuộc tính ấy vào phạm vi hoạt động sống của con người, phạm vi các hứng thú và nhu cầu, các mối quan hệ xã hội, các chuẩn mực và phương thức đánh giá ý nghĩa nói trên được biểu hiện trong các nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức, trong lý
- tưởng, tâm thế và mục đích”. Như vậy, giá trị không phải xuất phát từ bản thân nội tại vốn có của sự vật, mà là sự phù hợp, có ý nghĩa của những thuộc tính tự nhiên của sự vật đối với hoạt động sống của con người và đối với những mối quan hệ xã hội mà con người tham gia cũng như đáp ứng và thỏa mãn được hứng thú và nhu cầu của con người. Giá trị của một sự vật được quyết định bởi ý muốn của con người. Hay nói cách khác, giá trị của một vật chính là sự phản ánh, sự hiện thân của nhu cầu hay ước muốn của chủ thể phản ánh nó. Thêm vào đó, giá trị của một vật không phải chỉ do một người phản ánh, mà có thể là do một nhóm người hay một cộng đồng xã hội. Trong từ điển Triết học của Liên Xô, do M.M. Rozental (chủ biên), “Giá trị là những định nghĩa về mặt xã hội của các khách thể trong thế giới xung quanh, nhằm nêu bật tác dụng tích cực hoặc tiêu cực của khách thế ấy đối với con người và xã hội (cái lợi, thiện và ác, cái đẹp, cái xấu nằm trong những hiện tượng của đời sống xã hội hoặc tự nhiên). Xét bề ngoài, các giá trị là các đặc tính của sự vật hoặc của hiện tượng; tuy nhiên chúng không phải là cái vốn có do thiên nhiên ban cho sự vật hiện tượng, không phải đơn thuần do kết cấu bên trong của bản thân khách thể, mà do khách thể bị thu hút vào phạm vi tồn tại xã hội của con người và trở thành cái mang những quan hệ xã hội nhất định. Đối với con người, cái giá trị là những đối tượng lợi ích của nó, còn đối với ý thức của nó thì chúng đóng vai trò là những vật định hướng hàng ngày trong thực trạng vật thể và xã hội, chúng biểu thị các quan hệ thực tiễn của con người đối với các sự vật và hiện tượng xung quanh” [32, tr.206]. Như vậy, theo M.M.Rozental thì giá trị không phải do các đặc tính vật lý hay kết cấu của nó tạo ra; mà do các đặc tính vậy lý ấy gắn liền với ý nghĩa xã hội và phải được xã hội loài người thừa nhận thông qua việc “đặt tên” cho cái thuộc tính tích cực hay tiêu cực của sự vật, hiện tượng. Tác dụng của chúng phải được nhìn, soi dưới “cái gương xã hội”, tức là “chuẩn mực” của các mối quan hệ xã hội mà sự vật - hiện tượng tham gia vào; cũng như được đối chiếu với hệ thống định hướng giá trị của mỗi chủ thể phản ánh nó. Nếu một sự vật - hiện tượng phù hợp với hệ giá trị của con người và hợp chuẩn các mối quan hệ xã hội thì nó có giá trị tích
- cực về mặt xã hội; còn ngược lại thì là giá trị tiêu cực. Thêm vào đó, giá trị của mỗi sự vật - hiện tượng còn phải phụ thuộc vào chính hoàn cảnh hay phạm vi hoạt động của con người, nó không thể tách ra khỏi hoạt động xã hội của con người. Chỉ trong mối quan hệ xã hội của hoạt động đó, giá trị của nó mới được thể hiện và bộc lộ thông qua việc phản ánh hay đáp ứng nhu cầu và mục đích hoạt động của con người. Giá trị của sự vật - hiện tượng có thể là mục đích của con người, cũng có thể là phương tiện cần thiết để con người đạt được mục đích khác. Giá trị của sự vật phản ánh mối quan hệ thực tiễn giữa nó với con người. Đó là mối quan hệ theo chiều hướng tích cực thông qua việc con người tác động, gắn bó, sử dụng sự vật khi những đặc tính của nó cần thiết cho hoạt động con người, mang lại lợi ích cho chủ thể. Ngược lại, đó là mối quan hệ theo chiều hướng tiêu cực thể hiện qua việc con người xa lánh hay không sử dụng chúng. Ngoài mối quan hệ giữa giá trị của một sự vật - hiện tượng với hoạt động của con người thì giá trị của chúng cũng có tác động nhất định đến ý thức của chủ thể. Nếu chủ thể nhận thức được đó là một giá trị tốt, tích cực, hợp chuẩn và có xu hướng hướng tới Chân, Thiện, Mĩ thì giá trị đó có vai trò định hướng ý thức của con người, hướng suy nghĩ của con người theo viễn cảnh mà giá trị đó nhắm đến. Tuy nhiên khái niệm giá trị theo M.M.Rozental mới chỉ đề cập đến ý thức và hành vi của con người mà bỏ qua mặt xúc cảm - tình cảm. Trong từ điển Tiếng Việt, “Giá trị là cái làm cho một vật có ích lợi, có ý nghĩa hay đáng quý về một mặt nào đó” [28, tr.102]. Mặt nào đó có thể là mặt đạo đức, mặt trí tuệ, mặt tài năng; hay những quan niệm và thực tại về cái đẹp, về sự thật, về điều thiện của xã hội; hay tính chất quy ra được thành tiền của một vật trong quan hệ mua bán, đổi chác; hay độ lớn của một đại lượng, một lượng biến thiên. Với định nghĩa như trên thì giá trị được hiểu như là “cái chuẩn”, “thang đo” để đánh giá một thuộc tính, đặc điểm nào đó của sự vật hiện tượng, hay của con người trong những hoàn cảnh nhất định và lĩnh vực nhất định. Trong xã hội học và tâm lí học xã hội, khái niệm “giá trị” có nhiều điểm giống nhau: Khái niệm “giá trị” trong xã hội học tương ứng với khái niệm “tâm thế”,
- “thái độ” trong tâm lí học xã hội, nó chỉ cơ sở định hướng trong hành vi và hoạt động của con người. Theo H.J.Fichter – nhà xã hội học Hoa Kỳ thì: “Tất cả cái gì có ích lợi, đáng ham chuộng, đáng kính phục đối với cá nhân, hoặc xã hội đều có một giá trị”[45,tr.53]. Theo định nghĩa trên thì giá trị không những chỉ được xét dưới góc độ lợi ích vật chất trong đời sống xã hội mà còn được phản chiếu thông qua thái độ của một cá nhân hay của xã hội. Lúc này giá trị mang ý nghĩa tinh thần, phi vật chất. Đối tượng mà giá trị hướng đến có thể là một con người cụ thể và cũng có thể là một cộng đồng xã hội. Như vậy, bất cứ một cái gì đó dù tồn tại ở dạng vật chất hay phi vật chất đều có thể có một giá trị nếu nó “đáp ứng” được yêu cầu, nhu cầu nào đó của cá nhân hay xã hội. Theo tài liệu “Giáo dục giá trị của Bộ văn hoá giáo dục thể thao Philipin”, khái niệm giá trị có thể được hiểu như sau: “Một vật có giá trị khi nó được thừa nhận là có ích và cần có; tiền bạc và nhà cửa có giá trị vì chúng được công nhận là có ích, và việc mong muốn có được những thứ đó đã ảnh hưởng đến thái độ và hành vi của con người. Không chỉ có hàng hoá vật chất mà cả lí tưởng và những khái niệm đều có giá trị như “sự thật”, “lương tâm”, và “công lí””[45, tr.53]. Như vậy, giá trị ở đây được hiểu là tính có ích của những sản phẩm vật chất và sản phẩm tinh thần trong đời sống con người. Tác giả V.P. Tugarinov (Liên Xô) lại cho giá trị là “những khách thể, những hiện tượng và những thuộc tính của chúng mà tất cả đều cần thiết cho con người (ích lợi, hứng thú ) của một xã hội hay một giai cấp nào đó cũng như một cá nhân riêng lẻ với tư cách là phương tiện thỏa mãn những nhu cầu và lợi ích của họ, đồng thời cũng là những tư tưởng và ý định với tư cách là chuẩn mực, mục đích hay lý tưởng” [45, tr.54]. Định nghĩa này cho rằng chuẩn để xác định giá trị của một sự vật hiện tượng là nó có thỏa mãn nhu cầu, hứng thú của con người hay là phương tiện để con người thỏa mãn một nhu cầu nào đó. Lợi ích ở đây có thể là lợi ích về mặt vật chất và cũng có thể là lợi ích về mặt tinh thần.