Luận văn Định hướng giá trị đạo đức của học sinh THPT tại Thành phố Bà Rịa

pdf 162 trang vuhoa 25/08/2022 5460
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Định hướng giá trị đạo đức của học sinh THPT tại Thành phố Bà Rịa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_dinh_huong_gia_tri_dao_duc_cua_hoc_sinh_thpt_tai_th.pdf

Nội dung text: Luận văn Định hướng giá trị đạo đức của học sinh THPT tại Thành phố Bà Rịa

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Lê Thị Hằng ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC CỦA HỌC SINH THPT TẠI THÀNH PHỐ BÀ RỊA LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC Thành phố Hồ Chí Minh – 2013
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Lê Thị Hằng ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC CỦA HỌC SINH THPT TẠI THÀNH PHỐ BÀ RỊA Chuyên ngành : Tâm lý học Mã số : 60 31 04 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐỖ HẠNH NGA Thành phố Hồ Chí Minh – 2013
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng đề tài “Định hướng giá trị đạo đức của học sinh THPT tại Thành phố Bà Rịa” là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các thông tin, dữ liệu được sử dụng trong luận văn là trung thực, các nội dung trích dẫn đều được ghi rõ nguồn gốc và các kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn này chưa được công bố tại bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác Tp. Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 09 năm 2013 Người cam đoan Lê Thị Hằng 1
  4. LỜI CẢM ƠN Tôi xin chân thành bày tỏ lòng cảm ơn đến: - Ban giám hiệu Trường Đại học Sư Phạm thành phố Hồ Chí Minh - Phòng KHCN – SĐH và các phòng ban của Trường Đại học Sư Phạm thành phố Hồ Chí Minh. - Quí thầy cô trong khoa Tâm Lý – Giáo Dục Trường Đại học Sư Phạm thành phố Hồ Chí Minh và quí thầy cô ở các khoa đã trực tiếp giảng dạy và hướng dẫn tôi trong suốt khóa học. - TS. Đỗ Hạnh Nga đã tận tâm hướng dẫn và giảng dạy tôi trong suốt thời gian thực hiện đề tài cho tới nay. - Và các bạn cùng khóa học, đồng nghiệp, người thân đã động viên, giúp đỡ tôi trong học tập cũng như trong khi tôi thực hiện luận văn này. Tp. Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 09 năm 2013 Người cảm ơn Lê Thị Hằng 2
  5. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN 1 LỜI CẢM ƠN 2 MỤC LỤC 3 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 5 MỞ ĐẦU 6 1. Lý do chọn đề tài 6 2. Mục đích nghiên cứu 8 3. Đối tượng nghiên cứu 8 4. Giả thuyết nghiên cứu 8 5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu 8 6. Nhiệm vụ nghiên cứu 9 7. Phương pháp nghiên cứu 9 8. Cấu trúc luận văn 10 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN 12 1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 12 1.1.1. Lịch sử nghiên cứu ở nước ngoài 12 1.1.2. Lịch sử nghiên cứu trong nước 13 1.2. Một số khái niệm có liên quan đến đến vấn đề nghiên cứu 16 1.2.1. Đạo đức 16 1.2.2. Giá trị và định hướng giá trị 19 1.2.3. Giá trị đạo đức, định hướng giá trị đạo đức và các yếu tố trong định hướng giá trị đạo đức 28 1.3. Các yếu tố tác động đến định hướng giá trị đạo đức của học sinh THPT 37 1.3.1. Yếu tố bên trong 37 1.3.2. Yếu tố bên ngoài 42 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC CỦA HỌC SINH THPT THÀNH PHỐ BÀ RỊA 49 2.1. Khách thể nghiên cứu 49 2.2. Phương pháp nghiên cứu 49 2.3. Nội dung nghiên cứu 49 2.4. Nhận thức về hệ thống giá trị đạo đức cần thiết của học sinh THPT thành phố Bà Rịa 52 2.4.1. Đánh giá nhận thức về các giá trị của học sinh THPT thành phố Bà Rịa thông 3
  6. qua các mối quan hệ 52 2.4.2. So sánh giữa các nhóm điều tra về nhận thức giá trị đạo đức 63 2.5. Thái độ đạo đức của học sinh THPT thành phố Bà Rịa 73 2.5.1. Kết quả chung về thái độ đạo đức của học sinh THPT thành phố Bà Rịa 73 2.5.2. So sánh các nhóm khách thể điều tra về thái độ 76 2.6. Hành vi đạo đức của học sinh THPT thành phố Bà Rịa 84 2.6.1. Kết quả chung về hành vi đạo đức của học sinh THPT thành phố Bà Rịa 84 2.6.2. So sánh giữa các nhóm khách thể điều tra về hành vi đạo đức 89 2.7. Các yếu tố ảnh hướng đến định hướng giá trị đạo đức của học sinh THPT thành phố Bà Rịa 97 2.7.1. Nhóm yếu tố xã hội 98 2.7.2. Nhóm yếu tố nhà trường 99 2.7.3. Nhóm yếu tố bạn bè 99 2.7.4. Nhóm yếu tố gia đình 100 2.7.5. Nhóm yếu tố bản thân 101 CHƯƠNG 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH THPT THÀNH PHỐ BÀ RỊA 103 3.1. Một số biện pháp nhằm định hướng giá trị đạo đức cho học sinh THPT thành phố Bà Rịa 103 CHƯƠNG 4: THỬ NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH THPT THÀNH PHỐ BÀ RỊA 106 4.1. Muc đích thử nghiệm 106 4.2. Khách thể thử nghiệm 106 4.3. Nội dung thử nghiệm 106 4.4. Tổ chức thử nghiệm 106 4.4.1. Tổ chức báo cáo chuyên đề 107 4.4.2. Tổ chức hoạt động trải nghiệm trong cuộc sống 107 4.5. Kết quả thử nghiệm 108 4.5.1. Nhận thức các giá trị đạo đức của học sinh THPT trước và sau thử nghiệm 108 4.5.2. Thái độ về các giá trị đạo đức trước và sau thử nghiệm 111 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 116 TÀI LIỆU THAM KHẢO 119 PHỤ LỤC 122 4
  7. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Stt Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ 1 THPT Trung học phổ thông 2 TTDGTX Trung tâm giáo dục thường xuyên 3 ĐTB Điểm trung bình 4 NTN Nhóm thử nghiệm 5 TTN Trước thử nghiệm 6 STN Sau thử nghiệm 7 CNXH Chủ Nghĩa Xã Hội 8 CNH-H ĐH Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa 9 TPHCM Thành phố Hồ Chí Minh 10 N Số lượng học sinh 11 P Mức ý nghĩa 12 F Kiêm nghiệm F với K mẫu độc lập (giải tích biến lượng) 5
  8. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Thế giới đang từng ngày có những sự thay đổi, chuyển biến rõ nét trong những năm lại đây nhờ sự phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật. Sự phát triển này đã làm thay đổi một cách toàn diện mọi mặt đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của rất nhiều nước trên thế giới. Đất nước Việt Nam xuất phát từ một đất nước nông nghiệp, trải qua nhiều cuộc chiến tranh kéo dài, kinh tế và đời sống của người dân gặp rất nhiều khó khăn sau giải phóng. Song nhờ sự tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại, sự kế thừa những tinh hoa của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Việt Nam cũng đang từng ngày có những bước tiến để thay đổi diện mạo của mình. Cùng xu hướng phát triển mạnh mẽ chung của thế giới, trong chủ trương phát triển đất nước, Đảng ta luôn đặt ra yêu cầu phải gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ đạo đức và công bằng xã hội, vừa phát triển kinh tế thị trường, đồng thời phải bảo tồn và phát huy những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ: “Xây dựng và hoàn thiện giá trị nhân cách con người Việt Nam bồi dưỡng các giá trị văn hoá trong thanh niên, học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực, trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hoá con người Việt Nam”. Hồ Chí Minh cũng đã từng khẳng định “Người có tài mà không có đức là người vô dụng, Người có đức mà không có tài làm việc gì cũng khó” với tư tưởng của của Đảng, Hồ Chí Minh, một đất nước muốn phát triển đi lên, sánh vai cùng các cường quốc trên thế giới luôn cần những con người có sự phát triển toàn diện vừa có tài năng vừa có đạo đức. Nếu chỉ chạy theo danh vọng, tiền tài quên đi giá trị đạo đức cốt lõi, con người sẽ trở nên tha hóa, mất giá trị đạo đức điều đó cũng có nghĩa là mất đi nhân cách của chính mình. Chính vì đường lối đúng đắn của Đảng, tư tưởng của Hồ Chí Minh nên vấn đề giáo dục đạo đức luôn được sự quan tâm của nhà trường và đặc biệt trong những năm trở lại đây vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh càng được chú trọng và đổi mới. Rất nhiều các kế hoạch bồi dưỡng và nâng cao đạo đức cho các cấp được đưa vào nội dung chương trình học nhằm giúp các em có sự định hướng những giá trị đạo đức đúng đắn. Tuy nhiên, mặt trái của nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế đã và đang gây ra nhiều khó khăn ảnh hưởng tới nhiều mặt trong đời sống xã hội của Việt Nam. Ngành giáo dục cũng không 6
  9. ngoại lệ, hiện nay việc giáo dục, giữ gìn và phát huy những giá trị và chuẩn mực đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam cho học sinh đang phải đối mặt với muôn vàn khó khăn. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật, sự thay da đổi thịt của một nền kinh tế mới đã đáp ứng được những nhu cầu thiết yếu của con người nhưng đồng thời kéo theo đó cũng là cơ hội nảy sinh cho những hành vi, những lối sống thiếu lành mạnh, sự suy thoái giá trị đạo đức của một số bộ phận thanh thiếu niên trong xã hội đang diễn ra. Chúng ta không còn xa lạ với những câu chuyện, những bài viết trên báo chí, các phương tiện truyền thông về sự thay đổi giá trị đạo đức của thế hệ trẻ ngày nay ở tất cả những mối quan hệ: Gia đình, bạn bè, thầy cô Con không ghê tay khi giết bố mẹ, ông bà để lấy tiền chơi game online, bạn bè có thể đâm chém nhau chỉ vì “nhìn đểu”, sinh viên ngang nhiên lên bục giảng chém thầy cô vì cho điểm kém v v Theo báo cáo từ 38 Sở Giáo Dục Và Đào Tạo cùng 312 trường Đại Học – Cao Đẳng, Trung Cấp Chuyên Nghiệp cho thấy, hiện có 8.300 học sinh-sinh viên vi phạm bị xử lý kỷ luật [40]. Những hành vi vi phạm của học sinh-sinh viên bao gồm gây rối trật tự công cộng, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, hiếp dâm, ma túy, nguy hiểm hơn nữa là giết người. Đạo đức của giới trẻ ngày càng có sự thay đổi theo nhiều hướng khác nhau dưới sự phát triển ngày càng cao của kinh tế thị trường, nơi mà giá trị vật chất được đặt lên để cân đo đông đếm giá trị của một con người. Cùng với sự quan tâm đó đã có rất nhiều tác giả đi sâu nghiên cứu về giá trị đạo đức của thế hệ trẻ hiện nay như: Đoàn Văn Điều (2011), “Một số quan điểm về đạo đức, lối sống của sinh viên Trường ĐHSP Tp.HCM” [11], Huỳnh Văn Sơn (2009) (chủ nhiệm đề tài cấp Bộ): “Sự lựa chọn các giá trị đạo đức và nhân văn trong định hướng lối sống của sinh viên” [34]; Trần Kiều, Vũ Trọng Rỹ, Hà Nhật Thăng, Lưu Thu Thủy (2001): Thực trạng và giải pháp giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên, học sinh, sinh viên trong chiến lược phát triển toàn diện con người Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, “Thực trạng giá trị đạo đức của sinh viên hiên nay”, “vấn đề đạo đức trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay” .Và một vài nghiên cứu đề cao giá trị đạo đức đối với sinh viên ngành sư phạm. Chính vì xu hướng khác nhau trong việc định hướng giá trị đạo đức của giới trẻ hiện nay, cần có những đề tài nghiên cứu định hướng giá trị đạo đức cụ thể ở địa phương nhằm giúp địa phương xây dựng chiến lược định hướng giá trị đạo đức cho học sinh, trong đó có tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Hơn thế nữa hầu như chưa có đề tài nào đi sâu nghiên cứu về đối tượng học sinh THPT. Xuất phát từ lý do trên, người nghiên cứu quyết định chọn đề tài 7
  10. “Định hướng giá trị đạo đức của học sinh THPT tại thành phố Bà Rịa”. 2. Mục đích nghiên cứu Tìm hiểu thực trạng định hướng giá trị đạo đức của học sinh THPT thành phố Bà Rịa và các yếu tố ảnh hưởng. Từ đó đề xuất một số giải pháp giáo dục định hướng giá trị đạo đức của học sinh THPT thành phố Bà Rịa. 3. Đối tượng nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Định hướng giá trị đạo đức của học sinh THPT. 3.1. Khách thể nghiên cứu Khách thể nghiên cứu chính: Học sinh THPT các khối 10, 11, 12 ở một số trường THPT và trung tâm giáo dục thường xuyên. Khách thể bỗ trợ: Một số giáo viên của một số trường THPT và trung tâm giáo dục thường xuyên. 4. Giả thuyết nghiên cứu Hiện nay, nhiều học sinh THPT có nhận thức, thái độ tích cực đối với các giá trị đạo đức, tuy nhiên vẫn còn một bộ phận học sinh có thái độ chưa tích cực và chưa có sự định hướng đúng về giá trị đạo đức. Có sự khác biệt về định hướng giá trị đạo đức giữa các khách thể nghiên cứu. Có sự khác biệt về định hướng giá trị giữa học sinh THPT các trường chính quy và trung tâm giáo dục thường xuyên. 5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu 5.1. Giới hạn về đối tượng nghiên cứu Trong đề tài này người nghiên cứu tìm hiểu các nội dung chính sau đây: - Một số vấn đề lý luận của đề tài: Đạo đức, giá trị, giá trị đạo đức, định hướng giá trị đạo đức. - Nghiên cứu thực trạng định hướng giá trị đạo đức của học sinh THPT. - Các biện pháp giáo dục định hướng giá trị đạo đức cho học sinh THPT. 5.2. Giới hạn về khách thể nghiên cứu Đề tài nghiên cứu 300 học sinh của 3 khối 10,11,12 ở một số trường THPT và 150 học sinh của 3 khối 10,11,12 thuộc Trung Tâm Giáo Dục Thường Xuyên tại Thành Phố Bà 8
  11. Rịa. 6. Nhiệm vụ nghiên cứu 6.1. Nghiên cứu các vấn đề lý luận về đạo đức và định hướng giá trị đạo đức của học sinh THPT. 6.2. Khảo sát thực trạng định hướng giá trị đạo đức của học sinh THPT Thành Phố Bà Rịa. 6.3. Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến định hướng giá trị đạo đức của học sinh THPT. 6.4. Đề xuất một số giải pháp giáo dục định hướng giá trị đạo đức cho học sinh THPT. 7. Phương pháp nghiên cứu 7.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Trên cơ sở thu thập tài liệu, đọc sách, tham khảo các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài như: Đạo đức, đinh hướng giá trị đạo đức, đặc điểm của học sinh THPT. 7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn 7.2.1. Phương pháp điều tra bảng hỏi Đây là phương pháp nghiên cứu chính của đề tài. Mục đích Tìm hiểu thực trạng đính hướng giá trị đạo đức của học sinh THPT về nhận thức, thái độ, hành vi và các yêu tố ảnh hưởng Cách thức tiến hành Thiết kế bảng hỏi: Dựa trên cơ sở lý luận tiến hành trưng cầu ý kiến bằng câu hỏi mở. Khảo sát thử: - Xác định thời gian cho việc trả lời bảng hỏi - Tính toán các giá trị, độ tin cậy bảng hỏi. - Tiến hành sửa chữa những mệnh đề chưa đạt yêu cầu. Điều tra chính thức: - Đưa bảng hỏi đến từng khách thể. - Khách thể hoàn thành bảng hỏi một cách độc lập trong thời gian cho phép 7.2.2. Phương pháp quan sát Mục đích: Tìm hiểu những hành vi đạo đức của học sinh THPT trong mối quan hệ với bạn bè, thầy cô, gia đình. 9
  12. Cách thức tiến hành: Tiến hành quan sát thông qua hoạt động học tập, sinh hoạt, hoạt động ngoại khóa, đời sống hằng ngày tại khuôn viên trường và tại gia đình. 7.2.3. Phương pháp phỏng vấn Mục đích: Thu thập, bổ sung và làm rõ hơn những thông tin về định hướng giá trị đạo đức. Cách thức tiến hành: Phỏng vấn trực tiếp 20 học sinh THPT và 5 giáo viên chủ nhiệm 7.2.4. Phương pháp thống kế toán học Mục đích: Xử lý và mã hóa các thông số cần dùng trong đề tài nghiên cứu. Cách thức tiến hành: Sử dụng phương pháp thống kế SPPSS để xử lý số liệu thu thập được. 7.3. Phương pháp thực nghiệm tác động Mục đích: Nhằm đánh giá hiệu quả những biện pháp thực nghiệm từ đó giúp học sinh THPT định hướng giá trị đạo đức đứng đắn. Cách thức tiến hành: Thiết kế những bài tập nhỏ theo mục đích thử nghiệm đặt ra. Tiến hành đo dựa trên các bài tập để đánh giá kết quả thử nghiệm. 8. Cấu trúc luận văn Mở đầu Chương 1: Cở sở lý luận về định hướng giá trị đạo đức. 1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề. 1.2. Một số khái niệm có liên quan đến vấn đề nghiên cứu 1.3. Các yếu tố tác động đến định hướng giá trị đạo đức của học sinh THPT. Tiểu kết chương 1 Chương 2: Thực trạng định hướng giá trị đạo đức của học sinh THPT thành phố Bà Rịa. 2.1. Tổ chức nghiên cứu. 2.2. Phương pháp nghiên cứu. 2.3. Thống kê về khách thể nghiên cứu. 2.4. Nhận thức về hệ thống giá trị đạo đức cần thiết của học sinh THPT thành phố Bà Rịa. 2.5. Thái độ đạo đức của học sinh THPT thành phố Bà Rịa. 10
  13. 2.6. Hành vi đạo đức của học sinh THPT thành phố Bà Rịa. 2.7. Các yếu tố ảnh hướng đến định hướng giá trị đạo đức của học sinh THPT thành phố Bà Rịa. Tiểu kết chương 2 Chương 3: Các biện pháp giáo dục định hướng giá trị đạo đức cho học sinh THPT thành phố Bà Rịa. Tiểu kết chương 3 Chương 4: Thử nghiệm một số biện pháp nhằm định hướng giá trị đạo đức cho học sinh THPT thành phố Bà Rịa 4.1. Mục đích thử nghiệm. 4.2. Khách thể thử nghiệm. 4.3. Nội dung thử nghiệm. 4.4. Tổ chức thử nghiệm. 4.5. Kết quả nghiên cứu thử nghiệm. Tiểu kết chương 4 Kết luận và kiến nghị Tài liệu tham khảo Phụ lục 11
  14. CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 1.1.1. Lịch sử nghiên cứu ở nước ngoài Giá trị là một khái niệm được nghiên cứu trên phạm vi rộng và ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong những năm cuối thế kỷ 20, vấn đề giáo dục đạo đức và định hướng giá trị ngày càng được nhiều nước quan tâm và nghiên cứu như Ba Lan, Liên Xô, Bungary, Nhật Bản .Năm 1985, viên nghiên cứu thế giới của Nhật Bản đã lấy mẫu thanh niên trên 11 nước, lứa tuổi 18 – 24 và Viện Kiểm Sát Xã Hội Châu Âu EVS lấy mẫu thanh niên 15- 24 tuổi ở 10 nước châu Âu để nghiên cứu vế vấn đề giá trị và định hướng giá trị để thanh niên sẵn sàng bước vào cuộc sống. Vào những năm 1980 ở Hungari, vấn đề giá trị và định hướng giá trị được quan tâm hàng đầu trong các công trình nghiên cứu khoa học xã hội. Trong vòng 10 năm, Viện Tâm lí học thuộc Viện Hàn lâm khoa học Hungari cùng với các trung tâm nghiên cứu thông tin đại chúng đã tiến hành nghiên cứu ba vấn đề xã hội có quan hệ bổ sung cho nhau đó là: hệ thống tôn giáo, lối sống và giá trị. Các công trình này bao trùm nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, văn hóa liên quan đến nhiều tầng lớp xã hội khác nhau. Trong các cuộc nghiên cứu, các nhà nghiên cứu đặc biệt chú ý đến vấn đề giá trị và định hướng giá trị của thanh niên. Szbó Ildibó trong công trình “Khủng hoảng giá trị hay thay đổi giá trị” đã phân tích khá sâu về giá trị và định hướng giá trị của thanh niên nhóm tuổi từ 14 – 30 [23,tr.108]. Năm 1985, Viện nghiên cứu thế giới của Nhật Bản đã chú trọng nghiên cứu thanh niên của 11 quốc gia lứa tuổi từ 18 - 24 tuổi. Tiếp theo đó, Viện khảo sát xã hội Châu Âu nghiên cứu trên thanh niên ở 10 nước Châu Âu. Cả hai cuộc điều tra đề tìm hiểu thực trạng giá trị và định hướng giá trị của thanh niên để có những biện pháp giúp họ chuẩn bị bước vào cuộc sống. Năm 1986 – 1987, UNESCO đã đề nghị cậu lạc bộ Rome tiến hành điều tra quốc tế về giá trị đạo đức của con người chuẩn bị bước vào thế kỷ 21 trong tình hình có nhiều biến đổi đang ảnh hưởng đến xã hội vào những năm cuối thế kỷ 20. Hơn 10 năm lại đây, các 12
  15. nước Châu Á và Đông Nam Á đã có nhiều cuộc hội thảo về vấn đề nghiên cứu giá trị và giá trị đạo đức. Các chương trình giáo dục đã được đưa vào các cấp học ở các trường phổ thông và ở một số nước như: Indonesia, Singapore, Malaysia Nổi bật là chương trình giáo dục giá trị cho người Phillipin, tài liệu “giá trị trong hành động” của trung tâm cải cách và công nghệ giáo dục thuộc tổ chức bộ trưởng giáo dục Đông Nam Á, xuất bản năm 1992 [39]. Trong đề tài nghiên cứu “Định hướng giá trị của giới trẻ ngày nay” A.G.Kuznesov đã trình bày kết quả khảo sát phương hướng phát triển của định hướng giá trị của lớp trẻ hiện nay. Mục đích việc xem xét định hướng giá trị của thanh niên cho phép xác định mức độ tham gia vào xã hội của thanh niên - sự công nhận giá trị cơ bản của xã hội, từ đó xây dựng bức tranh toàn cảnh vị thế xã hội của giới trẻ Nga, nhằm thúc đẩy chính quyền và xã hội thiết lập một chính sách thanh niên hữu hiệu [18]. Wang Lu và Xie Weihe thuộc trung tâm nghiên cứu thanh niên và vị thành niên Trung Quốc, trong công trình “Những giá trị của thanh niên Trung Quốc” (1996) đã trình bày kết quả nghiên cứu gần đây của các nhà nghiên cứu Trung Quốc về giá trị của thanh niên. Trong đó người ta chú ý đến sự thay đổi giá trị của thanh niên từ sau quá trình cải cách của đất nước Trung Quốc và được xem xét trên ba khía cạnh: đánh giá của thanh niên về ý nghĩa, mục đích cuộc sống, giá trị trong cuộc sống hằng ngày và những giá trị xã hội. Các nhà nghiên cứu cho thấy, rõ ràng có những thay đổi lớn trong giá trị của thanh niên Trung Quốc từ sau quá trình cải cách và mở cửa và dưới sự thúc đẩy của công cuộc hiện đại hoá cũng như sự ổn định của hệ thống kinh tế xã hội theo cơ chế thị trường. Nhìn chung định hướng giá trị của thanh niên Trung Quốc hiện đại vẫn đang trong quá trình phát triển và hoàn thiện [21]. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về giá trị và định hướng giá trị vừa nêu trên đã chỉ ra được những giá trị cần thiết cho thanh thiếu niên cũng như định hướng giá trị của thanh thiếu niên lúc bấy giờ, cho thấy xu hướng cũng như sự lựa chọn giá trị và định hướng giá trị theo những chuẩn mực của xã hội ở mỗi thời kỳ. 1.1.2. Lịch sử nghiên cứu trong nước Việt Nam là một đất nước có truyền thống lâu đời về việc giữ gìn những giá trị đạo đức, giá trị đạo đức từ lâu đã trở thành một tiêu chí đánh giá về tư chất của một con người trong xã hội. Nghị quyết trung ương 5 (khóa VIII) về văn hóa coi tư tưởng, lối sống mà cụ 13
  16. thể là định hướng giá trị đạo đức có quan hệ mật thiết đến mức tổ hợp thành một vấn đề trọng tâm và cấp bách trong quá trình xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nghiên cứu về các giá trị đạo đức, nguồn gốc hình thành giá trị đạo đức Việt Nam và định hướng giá trị đạo đức được Trần Văn Giàu, Vũ Khiêu, Trần Văn Khuê, Huỳnh Khái Vinh .trình bày trong các công trình nghiên cứu của mình. Và một số đề tài như đề tài mã số KX – 07: “Tổng qun về giá trị và giáo dục giá trị” năm 1993 do Lê Đức Phúc và Mạc Văn Trang chủ nhiệm. Đề tài mã số KX – 07 – 04 do PGS.TS. Nguyễn Quang Uẩn làm chủ nhiệm, nghiên cứu: “Giá trị - Định hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị” [44, tr.22]. Tác giả Thái Duy Tuyên với đề tài “Ảnh hưởng của kinh tế thị trường đối với việc hình thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam” mã số KX- 07- 10(1995) đã khảo sát trên các đối tượng thanh niên, công nhân, học sinh, sinh viên, trí thức ở một số thành phố lớn về nhu cầu nguyện vọng của thanh niên và định hướng giá trị của thanh niên. Nội dung nghiên cứu tập trung xem xét các vấn đề: Lý tưởng, niềm tin của thanh niên; việc làm, nghề nghiệp, tình yêu, hôn nhân, gia đình. Các số liệu thu được của đề tài đã phần nào phác họa bức tranh chung về nhân cách con người Việt Nam qua các mặt: Nhận thức và giá trị, tâm trạng và thái độ, hứng thú và thị hiếu, nhu cầu và động cơ, cảm nghiệm và tự đánh giá, nguyện vọng và ước mơ [41]. Năm 1996, luận án Phó Tiến sĩ Triết học của Dương Tự Đàm: “Định hướng giá trị của thanh niên sinh viên trong sự nghiệp đổi mới ở Việt nam” đã nghiên cứu quá trình biến đổi của tình hình thế giới, của sự đổi mới về kinh tế - xã hội của đất nước ảnh hưởng đến nhu cầu, lợi ích và định hướng giá trị của thanh niên sinh viên. Dựa trên phương pháp tổng kết và kế thừa các kết quả nghiên cứu của các đề tài thuộc chương trình KX-07, tác giả đã khái quát sự chọn lựa của sinh viên trên những giá trị chung, giá trị nhân cách, phân tích một số giá trị nổi trội trong thang giá trị và trong mối quan hệ với sự chuyển đổi về kinh tế - xã hội của đất nước. Trên cơ sở đó, đề xuất những con đường và biện pháp giáo dục giá trị cho thanh niên sinh viên [9]. Năm 1998, Lê Quang Sơn trong luận án Phó Tiến sĩ Tâm lý học “Những đặc trưng tâm lý của định hướng giá trị của thanh niên Việt Nam hiện đại” đã xem định hướng giá trị như là những thái độ của nhân cách đối với bản thân và thế giới trong quá khứ, hiện tại và tương lai được cấu trúc lại trong các thể nghiệm và biểu tượng của nhân cách [33]. 14
  17. Tập thể tác giả Phạm Minh Hạc, Thụy Như Ngọc, Rusell J.Daiton với đề tài “Nghiên cứu giá trị thế giới – Việt Nam năm 2011”. Nghiên cứu đã thăm dò về sự hài lòng về chất lượng cuộc sống, quan hệ xã hội và gia đình, mức độ quan tâm và sự tham gia trong lãnh vực chính trị, những giá trị kinh tế, niềm tin vào hệ thống chính trị. Đề tài cũng đưa ra bức tranh về sự lựa chọn những giá trị cơ bản trong lối sống trong xã hội lúc bấy giờ [28]. Đầu năm 2002, tác giả Đỗ Ngọc Hà với luận văn Tiến sĩ “Định hướng giá trị của thanh niên, sinh viên hiện nay trước sự chuyển đổi về kinh tế, xã hội của đất nước”. Đề tài cho thấy những giá trị nào điều tiết được cuộc sông hàng ngày và hành vi xã hội của sinh viên, trên cơ sở xây dựng biểu mẫu định hướng giá trị cho sinh viên Việt Nam [12]. Tác giả Lê Hương với đề tài nghiên cứu: “Đánh giá định hướng giá trị của con người” (Tạp chí Tâm lý học số 7, tháng 7/2003) đã phân chia định hướng giá trị ở 3 mức độ là nhận thức, xúc cảm – tình cảm và hành vi. Trên cơ sở đó đã đưa ra các định hướng giáo dục giá trị thông qua mức độ trên [17]. Năm 2005, tác giả Đào Thị Oanh nghiên cứu về định hướng giá trị học sinh trung học. Công trình nghiên cứu đã chỉ ra những giá trị truyền thống và những giá trị mới hiện nay của học sinh nước ta. Đồng thời cũng đưa ra đâu là nguyên nhân ảnh hưởng đến việc lựa chọn giá trị của thế hệ trẻ [30]. Tác giả Bùi Thị Bích với luận văn Thạc sĩ “Thực trạng định hướng giá trị lối sống của sinh viên ở một số trường đại học tại TP. Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay” (2006) đã cho thấy: Đa số sinh viên TP. Hồ Chí Minh lựa chọn cho mình lối sống lành mạnh, văn hoá, văn minh, muốn sống hòa đồng với mọi người. Sự lựa chọn lối sống của sinh viên khá đồng nhất với sự lựa chọn lối sống của giới trẻ hiện nay, ở sinh viên nổi bật hơn về lối sống nhân văn và có văn hoá. Tuy nhiên, một số ít sinh viên còn lựa chọn cho mình những lối sống không phù hợp với đại đa số như lối sống xa hoa, lập dị, thực dụng và ích kỷ. Đây là những lối sống cần phải loại bỏ đối với tầng lớp sinh viên [2]. Một nhóm tác giả thuộc trường đại học Sư Phạm Kỹ Thuật TPHCM thực hiện đề tài “Đạo đức sinh viên Việt Nam hiện nay – thực trạng và xu hướng biến đổi” (2006), trong đề tài đã đề cập đến các vấn đề về đạo đức, vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội, những yêu cầu về đạo đức của sinh viên trong sự phát triển của xã hội Việt Nam. Gần đây nhất, có một số đề tài về định hướng giá trị đạo đức của học sinh, sinh viên đáng quan tâm như: Tác giả Hoàng Anh “Thực trạng định hướng giá trị đạo đức của sinh viên sư phạm TPHCM” [1], tác giả Phan Thị Hồng Hà “Định hướng giá trị đạo đức của 15
  18. sinh viên trường đại học Đồng Nai”. Cả hai đề tài nghiên cứu về đối tượng là các bạn sinh viên ở các trường đại học, tìm hiểu nhận thức, thái độ và hành vi đạo đức của họ trong mối quan hệ với gia đình, nhà trường, xã hội Cả hai đề tài đều cho thấy đa số sinh viên có sự định hướng giá trị đạo đức đúng đắn, lành mạnh. Nhìn chung tất cả các đề tài khoa học nghiên cứu về định hướng, định hướng giá trị của thanh niên, sinh viên nói chung. Từ đó đề xuất những biện pháp giáo dục nhằm giúp thế hệ trẻ có sự định hướng những giá trị đạo đức đúng đắn. Tuy nhiên nhận thấy các đề tài mang tính khái quát về thế hệ trẻ nói chung hoặc chủ yếu là đối tượng các bạn sinh viên ở các trường đại học, chưa có đề tài nào nghiên cứu cụ thể đối tượng học sinh THPT tại thành phố Bà Rịa. 1.2. Một số khái niệm có liên quan đến đến vấn đề nghiên cứu 1.2.1. Đạo đức 1.2.1.1. Khái niệm đạo đức Vấn đề khái niệm đạo đức được đề cập đến rất nhiều trong thời gian những năm lại đây khi kinh tế có những chuyển biến mới, các ngành khoa học để tâm nghiên cứu, làm rõ. Tìm hiểu về nguốn gốc của khái niệm này, chúng ta thấy được khái niệm về đạo đức trở thành một đối tượng nghiên cứu của rất nhiều ngành khoa học như Triết học, Tâm lý học, Đạo đức học Trong triết học, “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, nó phản ánh và cũng cố những đặc điểm hiện thực của xã hội như: Thiện chí, công bằng, chính nghĩa, tình thương, lòng trung thực” [31, tr.129]. Những hình thái của ý thức xã hội bao gồm ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức, ý thức khoa học, ý thức thẩm mỹ, ý thức tôn giáo và triết học. Hình thái ý thức đạo đức là thành phần cốt lõi, là một trong những hình thái ý thức ra đời rất sớm trong lịch sử, ngay từ xã hội nguyên thủy. Hình thái ý thức đạo đức bao gồm toàn bộ những quan niệm, tri thức và các trạng thái xúc cảm tâm lý chung của cộng đồng người về giá trị thiện ác, lương tâm, trách nhiệm, hạnh phúc, công bằng, lòng tự trọng và về những quy tắc, điều chỉnh hành vi ứng xử giữa cá nhân với xã hội, giữa cá nhân với cá nhân trong xã hội. Như vậy, dưới góc độ triết học thì đạo đức thuộc hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau, với xã hội, với tự nhiên, trong hiện tại hay quá khứ cũng như trong 16
  19. tương lai. Chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội. Trong đạo đức học, phạm trù đạo đức được xây dưng trên cơ sở triết học. Đạo đức là toàn bộ những quy tắc, chuẩn mực nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người với nhau trong quan hệ xã hội và quan hệ với tự nhiên. Theo Banzeladze, “Đạo đức là hệ thống những chuẩn mực biểu hiện sự quan tâm tự nguyện tự giác của những con người trong quan hệ với nhau và trong quan hệ với xã hội nói chung”. Dưới góc độ của giáo dục học, đạo đức là hệ thống những chuẩn mực xã hội bắt buộc các thành viên trong xã hội phải tuân theo. Những chuẩn mực mà cá nhân tự đề ra cho mình càng phù hợp với hệ thống chuẩn mực của xã hội thì càng có đạo đức. Theo từ điển xã hội học, đạo đức là chuẩn mực hành vi xã hội hướng con người theo cái thiện, chống lại cái ác. Đạo đức là nền tảng của cuộc sống xã hội. Theo các nhà xã hội học, đạo đức được điều tiết bằng hai yếu tố: yếu tố khách quan (dư luận xã hội) và yếu tố chủ quan (lương tâm con người). Mỗi hành vi vô đạo đức có thể không bị luật pháp trừng trị, nhưng bị dư luận xã hội và lương tâm lên án [22]. Dưới góc độ tâm lý học, đạo đức là hệ thống những chuẩn mực do con người đưa ra cho bản thân, biểu thị thái độ đánh giá quan hệ giữa lợi ích bản thân với lợi ích của người khác và của cả xã hội. Theo từ điển tâm lý học, “Đạo đức là phẩm chất tốt đẹp của cá nhân hay nhóm, biểu hiện ở hành vi phù hợp với các quy chuẩn, chuẩn mực xã hội. Đạo đức không phải là các quy chuẩn hay chuẩn mực xã hội” [8]. Theo quan điểm của Phạm Minh Hạc và các cộng sự trong công trình nghiên cứu khoa học cấp nhà nước, được trình bày trong tác phẩm “Về sự phát triển toàn diện con người trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, “Đạo đức theo nghĩa hẹp là luân lý, nhưng theo quy định, là những chuẩn mực ứng xử trong quan hệ của con người” [13]. Nhưng trong điều kiện hiện nay, chính quan hệ của con người cũng đã mở rộng và đạo đức bao gồm những quy đinh, những chuẩn mực ứng xử giữa con người với con người, với công việc, với bản thân kể cả với thiên nhiên và môi trường sống Duberstin và Linchevski: “Đạo đức là hình thái của sự nhận thức xã hội, là tất cả những nguyên tắc, những quy định, tiêu chuẩn mà mọi người tuân theo trong hành vi của mình”. Từ những quan điểm trên theo chúng tôi xác định rằng: Đạo đức là tập hợp những quan điểm của một xã hội, của một tầng lớp xã hội, của một tập hợp người nhất định về 17
  20. thế giới, về cách sống. Nhờ đó con người điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích của bản thân, của cộng đồng xã hội. 1.2.1.2. Vai trò của đạo đức Đạo đức có vai trò rất lớn trong đời sống xã hội, trong đời sống của con người, đạo đức là vấn đề thường xuyên được đặt ra và giải quyết nhằm đảm bảo cho cá nhân và cộng đồng tồn tại phát triển. Sống trong xã hội, người ta ai cũng phải suy nghĩ về những vấn đề đạo đức để tìm ra những con đường, cách thức và phương tiện hoạt động nhằm kết hợp lợi ích của mình và cộng đồng, từ đó bảo đảm cho sự tồn tại, phát triển của chính mình và cộng đồng. Khi đánh giá về đạo đức cách mạng, Hồ Chính Minh coi đạo đức là “cái gốc” là nền tảng của người cách mạng. Người so sánh: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo” [38, tr.84] Đạo đức là cốt ở sống hợp với bản tính của con người. Các triết gia không đồng ý với nhau, khi cần phải định nghĩa bản tính của con người là gì? điều này tùy thuộc vào quan niệm siêu hình của từng môn phái nhưng tất cả đều đồng ý mà quả quyết rằng đời sống đạo đức là cốt ở sự thực hiện cứu cánh của con người đúng theo bản tính của nó. Như thế đạo đức không phải là gò ép con người và làm cho nó suy giảm, trái lại đạo đức là làm nảy nở tất cả những gì có giá trị nơi con người. Vậy đạo đức rất là quan trọng, không có đạo đức, người ta có thể làm một kỹ sư hay một thương gia tài giỏi, nhưng không có đạo đức thì không thể trở nên một con người hoàn hảo và không thể phát triển tất cả những gì cao quý tốt đẹp của bản thân chúng ta” [19, tr.5]. Trong sự vận động phát triển của xã hội loài người suy cho cùng nhân tố kinh tế là cái chủ yếu quyết định. Tuy nhiên, nếu tuyệt đối hóa cái “chủ yếu” này thành cái “duy nhất” thì sẽ dẫn tư duy và hành động đến những lầm lạc đáng tiếc. Sự tiến bộ của xã hội, sự phát triển của xã hội không thể thiếu vai trò của đạo đức. Và khi xã hội loài người có giai cấp, có áp bức, có bất công, chiến đấu cho cái thiện đẩy lùi cái ác đã trở thành ước mơ, khát vọng, đã trở thành chất men, thành động lực kích thích, cổ vũ nhân loại vượt lên, xốc lên. Đạo đức đã trở thành mục tiêu đồng thời cũng là động lực để phát triển xã hội. Vai trò của đạo đức còn được biểu hiện thông qua các chức năng cơ bản của đạo đức: Chức năng điều chỉnh hành vi: Con người lựa chọn giá trị đạo đức, xác định chương trình của hành vi bỡi lý tưởng đạo đức, xác định phương án cho hành vi bỡi chuẩn mực đạo đức, tạo nên động cơ của hành vi bởi niềm tin, lý tưởng, tình cảm của đạo đức, kiểm soát uốn 18