Luận văn Định giá tài sản trí tuệ theo pháp luật Việt Nam

pdf 106 trang vuhoa 25/08/2022 8840
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Định giá tài sản trí tuệ theo pháp luật Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_dinh_gia_tai_san_tri_tue_theo_phap_luat_viet_nam.pdf

Nội dung text: Luận văn Định giá tài sản trí tuệ theo pháp luật Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT DƢƠNG THỊ THU NGA §Þnh gi¸ tµi s¶n trÝ tuÖ theo Ph¸p luËt ViÖt Nam LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT DƢƠNG THỊ THU NGA §Þnh gi¸ tµi s¶n trÝ tuÖ theo Ph¸p luËt ViÖt Nam Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN THỊ ÁNH VÂN HÀ NỘI - 2014
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Dƣơng Thị Thu Nga
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1: KHÁI QUÁT VỀ TÀI SẢN TRÍ TUỆ VÀ PHÁP LUẬT ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN TRÍ TUỆ 9 1.1. Khái quát về tài sản trí tuệ 9 1.1.1. Khái niệm tài sản trí tuệ 9 1.1.2. Đặc điểm tài sản trí tuệ 15 1.1.3. Vai trò của tài sản trí tuệ 16 1.1.4. Giá trị của tài sản trí tuệ và những yếu tố chi phối giá trị tài sản trí tuệ 18 1.2. Khái quát về định giá tài sản trí tuệ 22 1.2.1. Khái niệm định giá tài sản trí tuệ 22 1.2.2. Sự cần thiết phải định giá tài sản trí tuệ 23 1.2.3. Các trƣờng hợp định giá tài sản trí tuệ 24 1.2.4. Các phƣơng pháp định giá tài sản trí tuệ 29 1.3. Khái quát về pháp luật định giá tài sản trí tuệ 31 1.3.1. Sự cần thiết của việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động định giá tài sản trí tuệ 31 1.3.2. Đặc trƣng của pháp luật về định giá tài sản trí tuệ 37 1.3.3. Nội dung cơ bản của pháp luật định giá tài sản trí tuệ 37 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 40
  5. Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN TRÍ TUỆ 41 2.1. Nội dung của pháp luật Việt Nam hiện hành về định giá tài sản trí tuệ 41 2.1.1. Quy định pháp luật về các trƣờng hợp định giá tài sản trí tuệ 41 2.1.2. Quy định pháp luật về các phƣơng pháp định giá tài sản trí tuệ 50 2.1.3. Quy định pháp luật về tổ chức, cá nhân cung ứng dịch vụ định giá tài sản trí tuệ 56 2.2. Một số bất cập của pháp luật về định giá tài sản trí tuệ 59 2.2.1. Các văn bản pháp luật còn thiếu nhất quán trong cách hiểu về cụm từ “tài sản trí tuệ” 59 2.2.2. Các quy định pháp luật còn mâu thuẫn khi quy định phân loại tài sản trí tuệ thành tài sản cố định vô hình để định giá và tính vào giá trị doanh nghiệp 61 2.2.3. Quy định về phƣơng pháp định giá còn thiếu nhất quán 62 2.2.4. Thiếu các quy định về định giá tài sản trí tuệ khi thực hiện góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ 63 2.2.5. Các yêu cầu của pháp luật về hạch toán kế toán tài sản của doanh nghiệp giúp cho định giá tài sản trí tuệ còn bất cập 67 2.2.6. Quy định pháp luật về định giá tài sản trí tuệ trong hoạt động cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc chƣa hoàn thiện 70 2.2.7. Thiếu quy định về định giá tài sản trí tuệ trong việc thực hiện các giao dịch bảo đảm bằng tài sản trí tuệ 72 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 74 Chƣơng 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN TRÍ TUỆ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 75 3.1. Hoàn thiện quy định pháp luật về định giá tài sản trí tuệ 75
  6. 3.1.1. Hoàn thiện quy định pháp luật về các loại tài sản trí tuệ đƣợc định giá 76 3.1.2. Hoàn thiện quy định pháp luật về việc áp dụng các phƣơng pháp định giá tài sản trí tuệ 78 3.1.3. Bổ sung các quy định hƣớng dẫn thực hiện việc góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ 80 3.1.4. Hoàn thiện quy định về việc xác định giá trị tài sản trí tuệ trong chuẩn mực kế toán Việt Nam 82 3.1.5. Hoàn thiện các quy định về định giá tài sản trí tuệ trong hoạt động cổ phần hóa doanh nghiệp 85 3.1.6. Bổ sung quy định về định giá tài sản trí tuệ trong pháp luật về giao dịch bảo đảm 86 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về định giá tài sản trí tuệ 88 3.2.1. Nhóm giải pháp kiến nghị đối với nhà nƣớc 88 3.2.2. Nhóm giải pháp kiến nghị đối với các doanh nghiệp 90 KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 92 KẾT LUẬN 93 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 95
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tài sản trí tuệ là một loại tài sản vô hình, không thể xác định bằng các đặc điểm vật chất của chính nó nhƣng lại có giá trị lớn và có khả năng sinh ra lợi nhuận. Tài sản trí tuệ là thƣớc đo hiệu quả kinh doanh, sức cạnh tranh và khả năng phát triển của doanh nghiệp trong cả hiện tại và tƣơng lai. Do đó, định giá tài sản trí tuệ là việc làm hết sức quan trọng, giúp doanh nghiệp biết đƣợc giá trị tài sản trí tuệ của mình, từ đó có những quyết sách, chiến lƣợc, kế hoạch kinh doanh phù hợp. Trong xu thế hội nhập kinh tế, áp lực cạnh tranh đối với doanh nghiệp Việt Nam đang ngày càng gay gắt. Để nâng cao năng lực cạnh tranh, đảm bảo đƣợc sự tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp buộc phải tăng cƣờng đầu tƣ vào khoa học và công nghệ, ứng dụng các tài sản trí tuệ để nâng cao chất lƣợng, hạ giá thành sản phẩm. Tài sản trí tuệ phải trở thành một trong những nguồn vốn quan trọng trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, sự vắng bóng các văn bản quy phạm pháp luật hoàn chỉnh quy định về định giá tài sản trí tuệ là một trong những nguyên nhân gây khó khăn cho việc thực hiện các hoạt động đầu tƣ, kinh doanh có liên quan đến tài sản trí tuệ, không phát huy đƣợc hết các tiềm năng của tài sản trí tuệ trong việc tạo ra các cơ hội kinh doanh. Xuất phát từ lý do đó, việc lựa chọn đề tài “Định giá tài sản trí tuệ theo Pháp luật Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ luật học nhằm nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan đến pháp luật định giá tài sản trí tuệ, từ đó đề xuất hƣớng hoàn thiện các quy định pháp luật về định giá tài sản trí tuệ là việc làm cấp thiết. Mục đích trƣớc tiên của công trình nghiên cứu là góp phần hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật liên quan nhƣ Luật Sở hữu 1
  8. trí tuệ, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tƣ, Luật Giá và các văn bản hƣớng dẫn thi hành có liên quan tới định giá tài sản trí tuệ, trong tiến trình xây dựng nền kinh tế tri thức; tiếp đó công trình nghiên cứu này còn kỳ vọng giúp các doanh nghiệp khai thác tốt hơn nguồn vốn là tài sản trí tuệ, giúp xã hội nói chung và các doanh nghiệp nói riêng hiểu đúng vị trí và tầm quan trọng của tài sản trí tuệ trong khối tài sản của doanh nghiệp cũng nhƣ trong tổng tài sản của toàn bộ nền kinh tế. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Định giá tài sản trí tuệ đƣợc coi là một trong những công việc có ý nghĩa và không thể thiếu trong hoạt động thƣơng mại hóa tài sản trí tuệ, từ đó tạo điều kiện hình thành và phát triển thị trƣờng khoa học công nghệ của một quốc gia. * Tình hình nghiên cứu ngoài nước Ở nhiều nƣớc phát triển trên thế giới nhƣ Hoa Kỳ, Anh, Canada, các nƣớc thuộc Liên minh Châu Âu, nơi mà thị trƣờng công nghệ đã phát triển đến một mức đáng kể, vấn đề định giá tài sản trí tuệ không còn là một vấn đề mới và đƣợc thực hiện thƣờng xuyên bởi các doanh nghiệp, các tổ chức nghiên cứu và phát triển cũng nhƣ các tổ chức trung gian chuyên về đánh giá và định giá công nghệ. Chính vì vậy, rất nhiều chuyên gia đã nghiên cứu sâu về các cách tiếp cận, phƣơng pháp và kỹ thuật định giá tài sản trí tuệ khác nhau. Một số công trình nghiên cứu tiêu biểu về vấn đề định giá tài sản trí tuệ bao gồm: - World Intellectual Property Organization,“Valuation of Intellectual Property: What, Why and How”, WIPO Magazine 9-10/2003. - John Turner, “Valuation of Intellectual Property Assets, Valuation Techniques: Parameters, Methodologies and Limitations”, 2000. - Galina Soloviena,“Commercialization of intellectual property; Valuation of intellectual property rights; Management of intangible assets”, WIPO/IP/MOW/00/9, 2000. 2
  9. - Kamil Idris,“Intellectual Property, a Powerful Tool for Economic Development”, World Intellectual Property Organization, 2004. - Daryl Martin & David Drews, “Intellectual Property Valuation Techniques”, Licensing Journal. Oct.2006. - Ian McClure, “Economy Pulse Check: Valuation, Finance and Exchange of Intellectual Property”, The Federal Lawyer, Vol. 56, Iss: 4, 2009, page 18-19&23. - Gabriela Salinas, “The International Brand Valuation Manual: A complete overview and analysis of brand valuation techniques, methodologies and applications”, J.Wiley & Sons, 2009. - Céline Lagrost, Donald Martin, Cyrille Dubois & Serge Quazzotti, Intellectual Capital, “Intellectual Property Valuation: How to approach the selection of an appropriate valuation method”, Journal of Intellectual Capital, Vol. 11 Iss:4, pp.481 – 503, 2010. Phần lớn các công trình nghiên cứu này đã đề cập đến các phƣơng pháp định giá tài sản trí tuệ phổ biến trên thế giới. Cụ thể là 3 phƣơng pháp chính: phƣơng pháp chi phí, phƣơng pháp thị trƣờng và phƣơng pháp thu nhập. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra cách áp dụng cụ thể các phƣơng pháp này trong nhiều hoạt động khác nhau liên quan đến tài sản trí tuệ nhƣ chuyển giao li- xăng, chuyển giao quyền sở hữu, góp vốn vào doanh nghiệp bằng tài sản trí tuệ, quản lý tài sản trí tuệ trong doanh nghiệp cũng nhƣ các tổ chức nghiên cứu và phát triển, giải quyết tranh chấp và bồi thƣờng thiệt hại, hoạt động kiểm toán, kế toán Một số nghiên cứu cũng đi sâu vào từng phƣơng pháp định giá và cách áp dụng dành riêng cho một số loại tài sản trí tuệ cụ thể, mà chủ yếu là cho nhãn hiệu. Một số tổ chức nhƣ Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới, Hội đồng Tiêu chuẩn định giá quốc tế ở Anh hay Hiệp hội Định giá viên Hoa Kỳ đã đƣa ra 3
  10. những tiêu chuẩn cho định giá tài sản vô hình cũng nhƣ tài sản trí tuệ và đƣợc áp dụng rộng rãi ở nhiều nƣớc phát triển. Tuy nhiên các tiêu chuẩn này cũng chỉ đƣa ra những quy tắc chung, có tính định hƣớng mà không có hƣớng dẫn cụ thể. Các tiêu chuẩn này cũng chỉ xoay quanh 3 nhóm phƣơng pháp định giá phổ biến nêu trên. * Tình hình nghiên cứu trong nước Ở Việt Nam, thị trƣờng khoa học và công nghệ mới đang ở giai đoạn đầu phát triển, hoạt động thƣơng mại hóa tài sản trí tuệ diễn ra còn khá khiêm tốn. Chính vì vậy, vấn đề định giá tài sản trí tuệ vẫn là một vấn đề mới ở Việt Nam và chƣa có nhiều công trình nghiên cứu sâu về vấn đề này. Một số công trình nghiên cứu tiêu biểu bao gồm: - Vụ Đánh giá, Thẩm định và Giám định công nghệ - Bộ Khoa học và Công nghệ, Đề tài khoa học cấp Bộ “Nghiên cứu phương pháp luận và một số phương pháp định giá công nghệ”, năm 2006. - Nguyễn Hữu Cẩn - Viện Khoa học sở hữu trí tuệ, “Thực trạng pháp luật hiện hành của Việt Nam về tài sản trí tuệ và định giá tài sản trí tuệ”. - Nguyễn Hữu Cẩn - Viện Khoa học sở hữu trí tuệ, Đề tài khoa học cấp Bộ “Nghiên cứu lý luận và thực tiễn nhằm xây dựng phương pháp định giá sáng chế áp dụng cho Việt Nam”, năm 2009. - Phạm Hồng Quất - Bộ Khoa học và Công nghệ, “Tổng quan tình hình quốc tế về định giá nhãn hiệu”, tháng 9/2009. - Nguyễn Hoàng Hạnh - Cục Sở hữu trí tuệ, “Định giá tài sản trí tuệ: Kinh nghiệm của Trung Quốc”. - Nguyễn Hồng Vân - Bộ Khoa học và Công nghệ, “Một số vấn đề về góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng nhãn hiệu”, Tạp chí hoạt động khoa học tháng 7 – 2010. - Trần Nam Long - Viện Khoa học sở hữu trí tuệ, “Nghiên cứu lý luận 4
  11. và thực tiễn nhằm xây dựng phương pháp định giá nhãn hiệu áp dụng trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa tại Việt Nam”, năm 2010. - Vụ Đánh giá, Thẩm định và Giám định công nghệ - Bộ Khoa học và Công nghệ, Đề án khoa học cấp Bộ “Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt động định giá công nghệ, đề xuất nội dung quản lý nhà nước đối với hoạt động định giá công nghệ tại Việt Nam”, năm 2010. - Đoàn Văn Trƣờng, “Tuyển tập phương pháp thẩm định giá trị các loại tài sản vô hình, quyền sở hữu trí tuệ, định giá công nghệ và giá chuyển giao bên trong các công ty đa quốc gia”, Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật, năm 2011. - Cục Phát triển thị trƣờng và doanh nghiệp khoa học và công nghệ - Bộ Khoa học và Công nghệ, Đề án khoa học cấp Bộ “Nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn để đề xuất nguyên tắc, cách tiếp cận và quy trình định giá tài sản trí tuệ áp dụng tại Việt Nam”, năm 2013. - Tài liệu hội thảo “Định giá Tài sản trí tuệ” do Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới, Cục Sở hữu trí tuệ với sự hỗ trợ của Quỹ Tín thác Ôxtrâylia cùng phối hợp tổ chức tại Hà Nội vào tháng 6 năm 2013. - Nguyễn Thị Tuyết - Đại học Luật Hà Nội, “Vai trò của tài sản trí tuệ và thực trạng nhận thức của doanh nghiệp và các cơ quan tài phán Việt Nam về tài sản trí tuệ trong cổ phần hóa doanh nghiệp”. - Vũ Thị Hải Yến - Đại học Luật Hà Nội, “Tài sản trí tuệ và các phương pháp định giá tài sản trí tuệ trong hoạt động kinh doanh thương mại của doanh nghiệp”. - Hoàng Lan Phƣơng, “Khắc phục những bất cập của Pháp luật Việt Nam về định giá tài sản trí tuệ ”, Bộ môn Sở hữu trí tuệ, Khoa Khoa học quản lý, Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Những công trình này hầu nhƣ chỉ nghiên cứu tổng quan về chính sách, 5
  12. các phƣơng pháp định giá tài sản trí tuệ phổ biến trên thế giới cũng nhƣ đƣa ra một vài ví dụ minh họa cho các phƣơng pháp, thực tế định giá của Việt Nam về một số loại tài sản trí tuệ đặc thù nhƣ sáng chế, nhãn hiệu và có một vài đề xuất ban đầu cho việc xây dựng phƣơng pháp định giá tài sản trí tuệ tại Việt Nam. Nội dung chủ yếu của các công trình này tập trung vào việc nghiên cứu, xây dựng các phƣơng pháp định giá tài sản trí tuệ, mà chƣa có các kiến nghị cụ thể về việc hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động định giá tài sản trí tuệ. Chính vì thế, luận văn sẽ tập trung vào việc nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành về định giá tài sản trí tuệ để từ đó đƣa ra các kiến nghị hoàn thiện mảng pháp luật này. 3. Mục đích nghiên cứu Với đề tài này, Luận văn hƣớng đến một số mục đích sau: - Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về tài sản trí tuệ, định giá tài sản trí tuệ và pháp luật về định giá tài sản trí tuệ. - Đánh giá thực trạng pháp luật về định giá tài sản trí tuệ ở nƣớc ta hiện nay. - Đề xuất những giải pháp thích hợp cho việc hoàn thiện pháp luật định giá tài sản trí tuệ ở Việt Nam. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu của đề tài Trong khuôn khổ của Luận văn này, ngƣời viết giới hạn đối tƣợng nghiên cứu ở những nội dung cụ thể sau đây: - Các vấn đề lý luận về định giá tài sản trí tuệ và pháp luật về định giá tài sản trí tuệ; - Thực trạng các quy phạm pháp luật về định giá tài sản trí tuệ; - Thực tiễn thi hành pháp luật về định giá tài sản trí tuệ ở Việt Nam hiện nay; 6
  13. - Kinh nghiệm của một số nƣớc trên thế giới trong việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với định giá tài sản trí tuệ, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, luận văn sẽ không dành hẳn một mục hay chƣơng riêng để nghiên cứu kinh nghiệm của nƣớc ngoài mà các bài học kinh nghiệm đó sẽ đƣợc viện dẫn, lồng ghép khi đƣa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về định giá tài sản trí tuệ. * Phạm vi nghiên cứu của đề tài Với đề tài này, phạm vi nghiên cứu của luận văn chủ yếu tập trung vào các vấn đề lý luận về định giá tài sản trí tuệ và vào pháp luật Việt Nam về định giá tài sản trí tuệ. Luận văn sẽ tập trung phân tích các khía cạnh thành công và hạn chế của pháp luật về định giá tài sản trí tuệ đối với việc thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản trí tuệ nhƣ hoạt động góp vốn, hạch toán kế toán, cổ phần hóa doanh nghiệp, thƣơng mại hóa tài sản trí tuệ thuộc sở hữu nhà nƣớc, thế chấp bằng tài sản trí tuệ. Trong khuôn khổ hạn hẹp của một luận văn thạc sỹ luật học, luận văn sẽ không nghiên cứu các quy định pháp luật về định giá tài sản trí tuệ trong các lĩnh vực bảo hiểm, tố tụng, giải quyết tranh chấp liên quan đến tài sản trí tuệ. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Để giải quyết các yêu cầu mà đề tài đặt ra, trong quá trình nghiên cứu, Luận văn đã sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu sau đây: - Phƣơng pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lê nin; - Phƣơng pháp luận giải, phƣơng pháp phân tích, đƣợc sử dụng trong Chƣơng 1 khi nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung về tài sản trí tuệ và định giá tài sản trí tuệ; - Phƣơng pháp phân tích, phƣơng pháp tổng hợp, phƣơng pháp bình luận, đối chiếu, so sánh đƣợc sử dụng trong Chƣơng 2 khi nghiên cứu thực trạng pháp luật về định giá tài sản trí tuệ ở Việt Nam; 7
  14. - Phƣơng pháp so sánh luật học, phƣơng pháp tổng hợp, phƣơng pháp quy nạp đƣợc sử dụng trong Chƣơng 3 khi nghiên cứu, đề xuất kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về định giá tài sản trí tuệ. 6. Đóng góp của Luận văn Luận văn là một công trình nghiên cứu mang tính chuyên sâu về pháp luật điều chỉnh định giá tài sản trí tuệ. Đặc biệt, với việc tham khảo kinh nghiệm của một số nƣớc, Luận văn sẽ đƣa ra những đề xuất, kiến nghị có tính thực tiễn và ứng dụng cao để hoàn thiện pháp luật về định giá tài sản trí tuệ ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho các nhà hoạch định chính sách, nhà nghiên cứu và những ai quan tâm đến vấn đề định giá tài sản trí tuệ. 7. Bố cục của luận văn Nội dung của luận văn đƣợc kết cấu gồm 3 chƣơng: Chương 1. Khái quát về tài sản trí tuệ và pháp luật định giá tài sản trí tuệ; Chương 2. Thực trạng pháp luật Việt Nam về định giá tài sản trí tuệ; Chương 3. Hoàn thiện pháp luật về định giá tài sản trí tuệ ở Việt Nam hiện nay. 8
  15. Chương 1 KHÁI QUÁT VỀ TÀI SẢN TRÍ TUỆ VÀ PHÁP LUẬT ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN TRÍ TUỆ 1.1. Khái quát về tài sản trí tuệ 1.1.1. Khái niệm tài sản trí tuệ 1.1.1.1. Khái niệm tài sản Tài sản là vấn đề trung tâm cốt lõi của mọi quan hệ xã hội nói chung và quan hệ pháp luật nói riêng. Khái niệm tài sản đã đƣợc đề cập từ rất lâu trong thực tiễn cũng nhƣ trong khoa học pháp lý. Theo nghĩa chung nhất, tài sản đƣợc hiểu là “của cải vật chất hoặc tinh thần có giá trị đối với chủ sở hữu” [54]. Theo cách định nghĩa này, phạm vi của tài sản không đƣợc xác định một cách rõ ràng. Cùng với sự thay đổi của thời gian, của điều kiện xã hội, của sự nhận thức con ngƣời về giá trị vật chất thì phạm vi của tài sản qua mỗi thời kỳ lại đƣợc nhìn nhận ở góc độ khác nhau. Theo thuật ngữ kế toán, tài sản đƣợc hiểu là những nguồn lực đƣợc sở hữu hay kiểm soát bởi doanh nghiệp, hình thành từ kết quả của hoạt động kinh doanh trong quá khứ và dự tính đem lại lợi ích kinh tế trong tƣơng lai cho doanh nghiệp. Định nghĩa này đã nêu ra các đặc điểm cơ bản của tài sản trong phạm vi mối quan hệ với doanh nghiệp: thuộc quyền kiểm soát của doanh nghiệp, hình thành từ các nghiệp vụ trong quá khứ và có khả năng đem lại lợi ích cho doanh nghiệp, giúp cho việc xác định và ghi nhận tài sản trên sổ sách kế toán của doanh nghiệp. Trong các văn bản pháp luật, khái niệm tài sản đƣợc quy định tại Điều 163, Bộ luật Dân sự năm 2005 nhƣ sau: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”. Theo quy định này thì tài sản chỉ tồn tại ở một trong bốn loại: Vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Liên quan đến quy định tại 9
  16. Điều 163, một số điều luật khác quy định về việc phân loại tài sản trong Bộ luật Dân sự nhƣ Điều 174, Điều 175, Điều 176, Điều 177, Điều 178, Điều 179, Điều 180, Điều 181. Qua quy định của các điều luật này có thể nhận thấy: khái niệm tài sản đƣợc đƣa ra theo kiểu liệt kê các loại tài sản, chƣa xác định rõ đƣợc phạm vi của tài sản; các quy định liệt kê các loại tài sản chƣa quy định cụ thể về tiền và giấy tờ có giá; phạm vi quyền tài sản chƣa đƣợc xác định rõ và quy định về quyền sở hữu dƣờng nhƣ tách biệt với tài sản. Nhƣ vậy có thể thấy cách hiểu về tài sản có sự khác biệt tùy theo từng góc độ tiếp cận. Sự khác biệt này xuất phát từ chính tính thực tiễn của khái niệm tài sản. Tài sản là công cụ của đời sống xã hội, phục vụ các nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của xã hội. Vì vậy, phụ thuộc từng góc độ tiếp cận, từng mục đích sử dụng mà khái niệm tài sản và cách phân loại tài sản có sự thay đổi. Tuy nhiên, các nhà làm luật cũng cần xây dựng một định nghĩa về tài sản, nêu ra các đặc trƣng cơ bản của tài sản để có cơ sở xác định phạm vi của tài sản. Dƣới góc độ pháp lý, tính sở hữu đƣợc coi là một trong những đặc trƣng cơ bản của tài sản. Những nguồn lực đƣợc coi là tài sản đối với một tổ chức hay một cá nhân chỉ khi tổ chức, cá nhân đó có quyền sở hữu (tức là có sự chiếm hữu, sử dụng và định đoạt) đối với nguồn lực đó. Quyền sở hữu là cơ sở để tổ chức, cá nhân khai thác các giá trị của tài sản và ngăn ngừa sự xâm phạm của chủ thể khác đối với tài sản của mình. Do đó, khái niệm tài sản dƣới góc độ pháp lý có thể đƣợc hiểu là những nguồn lực có giá trị vật chất hoặc tinh thần thuộc sở hữu của tổ chức hoặc cá nhân, đƣợc pháp luật thừa nhận và bảo hộ. 1.1.1.2. Khái niệm tài sản trí tuệ: Tài sản của một doanh nghiệp nhìn chung đƣợc chia thành hai loại: tài sản hữu hình – gồm nhà xƣởng, máy móc, tài chính và cơ sở hạ tầng, tài sản vô hình – gồm từ nguồn nhân lực và bí quyết kỹ thuật đến ý tƣởng, chiến 10
  17. lƣợc, kế hoạch kinh doanh, thƣơng hiệu, kiểu dáng và các kết quả vô hình khác đƣợc tạo ra bởi các tài năng sáng tạo và đổi mới của công ty. Theo truyền thống, tài sản hữu hình là tài sản có giá trị chính của một công ty và đƣợc coi là có tính quyết định trong việc xác định khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp trên thị trƣờng. Trong những năm gần đây, các tài sản vô hình, trong đó có tài sản trí tuệ đang ngày càng trở nên có giá trị hơn so với tài sản hữu hình. Tài sản trí tuệ là một loại vốn của chu trình sản xuất, do con ngƣời sáng tạo ra thông qua các hoạt động tƣ duy, sáng tạo trong các lĩnh vực công nghiệp, khoa học, văn học và nghệ thuật. Liên quan đến khái niệm tài sản trí tuệ, trong các văn bản pháp lý cũng nhƣ thực tiễn có các thuật ngữ sau đây: sở hữu trí tuệ (Intellectual property), quyền sở hữu trí tuệ (Intellectual property rights). Theo định nghĩa của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới: Sở hữu trí tuệ là thuật ngữ đề cập đến những sản phẩm sáng tạo của trí óc nhƣ sáng chế; những sản phẩm văn học và nghệ thuật; và biểu tƣợng, tên và hình ảnh sử dụng trong thƣơng mại. Sở hữu trí tuệ đƣợc phân loại thành hai dạng: - Sở hữu công nghiệp (industrial property): bao gồm sáng chế, nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp và chỉ dẫn địa lý. - Bản quyền (copyright): bao gồm những tác phẩm văn học (nhƣ tiểu thuyết, thơ, kịch), phim, âm nhạc, tác phẩm nghệ thuật (bản vẽ, tranh vẽ, hình ảnh và tác phẩm điêu khắc) và thiết kế kiến trúc [60]. Trong cuốn “WIPO Intellectual property handbook ” của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới, sở hữu trí tuệ theo nghĩa rộng nhất đƣợc hiểu nhƣ sau: “sở hữu trí tuệ là quyền hợp pháp xuất phát từ hoạt động trí tuệ trong các lĩnh vực công nghiệp, khoa học, văn học và nghệ thuật”. Nhƣ vậy, có thể hiểu sở hữu trí tuệ là sở hữu các tài sản trí tuệ. Tuy 11
  18. nhiên, vấn đề cốt lõi trong khái niệm này là “sở hữu” phải hợp pháp, tức là phải đƣợc Nhà nƣớc thừa nhận. Việc Nhà nƣớc thừa nhận một chủ thể nào đó là tác giả/chủ sở hữu tài sản trí tuệ và cấp cho tác giả/chủ sở hữu tài sản trí tuệ đó các quyền đối với tài sản trí tuệ đƣợc gọi là quyền sở hữu trí tuệ. Quyền sở hữu trí tuệ cho phép ngƣời sáng tạo hoặc chủ sở hữu của sáng chế, nhãn hiệu hoặc bản quyền khai thác các lợi ích thu đƣợc từ việc sử dụng hoặc đầu tƣ vào các tài sản đó. Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung tại Luật số 36/2009/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ) quy định: “Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng”. - Các đối tƣợng của quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả: các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học; cuộc biểu diễn; bản ghi âm, ghi hình, chƣơng trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chƣơng trình đƣợc mã hóa. - Các đối tƣợng sở hữu công nghiệp: sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thƣơng mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh. - Giống cây trồng. Thông tƣ liên tịch số 39/2014/TTLT-BKHCN-BTC ngày 17/12/2014 quy định việc định giá kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, tài sản trí tuệ sử dụng ngân sách nhà nƣớc quy định về tài sản trí tuệ nhƣ sau: Tài sản trí tuệ là tài sản vô hình, có tính sáng tạo, xác định đƣợc, kiểm soát đƣợc và có khả năng mang lại lợi ích kinh tế cho chủ sở hữu tài sản đó. Tài sản trí tuệ bao gồm đối tƣợng đƣợc bảo hộ và đối tƣợng không đƣợc bảo hộ theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ nhƣ sáng chế, bí mật kinh doanh, thiết kế bố trí mạch 12
  19. tích hợp bán dẫn, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, tên thƣơng mại, giống cây trồng, chƣơng trình máy tính, tác phẩm khoa học, sáng kiến, giống vật nuôi, thiết kế kỹ thuật [4]. Nhƣ vậy, pháp luật Việt Nam thừa nhận tài sản trí tuệ là một loại tài sản gắn liền với các thành quả sáng tạo của con ngƣời. Các thành quả sáng tạo đó hoặc là các tài sản xuất phát từ các hoạt động sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật (các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học), cũng có thể là các tài sản từ các hoạt động sáng tạo kỹ thuật (các sáng chế, giải pháp hữu ích, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn), hoặc là từ các hoạt động sáng tạo mỹ thuật ứng dụng (kiểu dáng công nghiệp) hoặc từ các hoạt động sáng tạo trong kinh doanh (các nhãn hiệu, tên thƣơng mại, bí mật kinh doanh, ). Khái niệm tài sản trí tuệ không đồng nhất với khái niệm “sở hữu trí tuệ”. Bên cạnh các đối tƣợng sở hữu trí tuệ đƣợc pháp luật bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, tài sản trí tuệ còn bao gồm cả các đối tƣợng không đƣợc bảo hộ theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ nhƣ thiết kế kỹ thuật, sáng kiến, giống vật nuôi, Khi xem xét tài sản trí tuệ dƣới góc độ một loại tài sản của doanh nghiệp, tài sản trí tuệ đƣợc định danh trong khái niệm về tài sản vô hình. Theo quy định tại Tiêu chuẩn thẩm định giá tài sản số 13 về Thẩm định giá tài sản vô hình (ban hành kèm theo Thông tƣ số 06/2014/TT-BTC ngày 07/01/2014 của Bộ trƣởng Bộ Tài chính): tài sản trí tuệ và quyền sở hữu trí tuệ là một loại tài sản vô hình. 3.1. Tài sản vô hình: là tài sản không có hình thái vật chất và có khả năng tạo ra các quyền, lợi ích kinh tế. Tài sản vô hình đƣợc đề cập trong tiêu chuẩn này phải thỏa mãn đồng thời các điều kiện sau: - Không có hình thái vật chất; tuy nhiên một số tài sản vô hình 13
  20. có thể chứa đựng trong hoặc trên thực thể vật chất, nhƣng giá trị của thực thể vật chất là không đáng kể so với giá trị tài sản vô hình; - Có thể nhận biết đƣợc và có bằng chứng hữu hình về sự tồn tại của tài sản vô hình (ví dụ: hợp đồng, bằng chứng nhận, hồ sơ đăng ký, đĩa mềm máy tính, danh sách khách hàng, báo cáo tài chính, v.v.); - Có khả năng tạo thu nhập cho ngƣời có quyền sở hữu; - Giá trị của tài sản vô hình có thể định lƣợng đƣợc [15]. Từ tất cả những định nghĩa và phân tích nêu trên, dƣới góc độ pháp lý, tài sản trí tuệ đƣợc hiểu là một dạng tài sản vô hình, hình thành từ các hoạt động tƣ duy, sáng tạo trong các lĩnh vực công nghiệp, khoa học, văn học và nghệ thuật. Tài sản trí tuệ bao gồm các đối tƣợng đƣợc bảo hộ (các đối tƣợng sở hữu trí tuệ) và các đối tƣợng tài sản trí tuệ khác không đƣợc bảo hộ theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ. Do vấn đề nghiên cứu là pháp luật về định giá tài sản trí tuệ, nên trong phạm vi luận văn chỉ đề cập tới các loại tài sản trí tuệ là đối tƣợng đƣợc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ, vì đây là những loại tài sản trí tuệ chủ yếu và phổ biến. Việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cũng là tiền đề tạo ra nhiều cơ hội kinh doanh liên quan đến tài sản trí tuệ, từ đó làm phát sinh nhu cầu về định giá tài sản trí tuệ. Trong xu thế hội nhập quốc tế ngày càng mạnh mẽ nhƣ hiện nay, tài sản trí tuệ ngày càng đƣợc thừa nhận là một loại tài sản đặc biệt quan trọng đối với sự tăng trƣởng kinh tế của một quốc gia. Nếu trƣớc đây, đất đai, tài nguyên thiên nhiên hay lao động chân tay đƣợc coi là thƣớc đo tiềm lực của một nền kinh tế thì ngày nay, tài sản trí tuệ đang dần thay thế những yếu tố đó và trở thành đòn bẩy phát triển kinh tế của quốc gia. Trên bình diện quốc tế, ngày nay các quốc gia tập trung phát triển nền kinh tế của mình theo hƣớng 14
  21. dựa vào tri thức và thực tiễn đã chứng tỏ rằng tài sản trí tuệ là một yếu tố cơ bản luôn gắn liền với xu thế phát triển đó. 1.1.2. Đặc điểm tài sản trí tuệ Tài sản trí tuệ là một dạng tài sản cố định vô hình, do đó có đầy đủ các đặc điểm cơ bản của dạng tài sản cố định vô hình: - Tính vô hình: tài sản trí tuệ tồn tại chủ yếu dƣới dạng thông tin, tri thức, do đó khó nhận thức sự tồn tại của tài sản này bằng giác quan của con ngƣời mà chỉ bằng nhận thức. Tài sản trí tuệ thƣờng đƣợc hiện thực khi áp dụng để sản xuất hay gắn lên các hàng hóa, dịch vụ trong quá trình sản xuất kinh doanh. - Tính xác định: tài sản trí tuệ là loại tài sản vô hình có khả năng nhận diện đƣợc. Tài sản trí tuệ thƣờng đƣợc thể hiện dƣới những hình thức vật chất xác định (bản mô tả, liệt kê, công thức, hình vẽ, ), do đó con ngƣời có khả năng nhận biết, khả năng lan truyền không có giới hạn và có thể do nhiều ngƣời cùng chiếm hữu. Đồng thời, mỗi tài sản trí tuệ là một đối tƣợng tồn tại độc lập, có nội dung/bản chất xác định, có chức năng/công dụng/ý nghĩa xác định, thậm chí có giá trị xác định. Một tài sản trí tuệ có thể xác định riêng biệt khi doanh nghiệp có thể đem tài sản đó cho thuê, bán, trao đổi hoặc thu đƣợc lợi ích kinh tế cụ thể trong tƣơng lai. Những tài sản chỉ tạo ra lợi ích kinh tế trong tƣơng lai khi kết hợp với các tài sản khác nhƣng vẫn đƣợc coi là tài sản có thể xác định riêng biệt nếu doanh nghiệp xác định đƣợc chắc chắn lợi ích kinh tế trong tƣơng lai do tài sản đó đem lại. - Khả năng bị kiểm soát: Do tài sản trí tuệ có khả năng đƣợc vật chất hóa nên trở thành đối tƣợng chịu sự tác động có chủ đích của con ngƣời, nhƣ điều khiển, sản xuất, khai thác/sử dụng, duy trì, cất giữ, phát triển, mua bán, trao đổi, cho thuê, góp vốn , nhằm mang lại kết quả nhất định, trong đó quan 15